- Trang Chủ
- Tài chính - Ngân hàng
- Tiểu luận môn Tài chính tiền tệ: Hệ thống tiền tệ của các nước theo hệ thống đồng Franc và vị thế của các đồng Franc trên thị trường ngoại hối
Xem mẫu
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA TÀI CHÍNH – THƯƠNG MẠI
BÀI TIỂU LUẬN
TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài
HỆ THỐNG TIỀN TỆ CỦA CÁC NƯỚC THEO HỆ THỐNG
ĐỒNG FRANC VÀ VỊ THẾ CỦA CÁC ĐỒNG FRANC TRÊN THỊ
TRƯỜNG NGOẠI HỐI
Ngành: TÀI CHÍNH THƯƠNG MẠI
Chuyên ngành: TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Giảng viên hướng dẫn: TS.NGUYỄN THỊ CÚC HỒNG
Sinh viên thực hiện: MSSV Lớp
1. Nguyễn Thị Huyền Trang 19DTCB4
2. Hồ Thu Trang 19DTCB4
3. Nguyễn Quỳnh Như 19DTCB4
4. Nguyễn Nhật Uyên 19DTCB4
5. Mai Thị Ánh Tuyết 19DTCB4
TP. Hồ Chí Minh, 2020
- DANH SÁCH NHÓM 2 LỚP 19DTCB4 CA 2 THỨ 2,4
ĐÁNH
STT HỌ VÀ TÊN PHÂN CÔNG
GIÁ
Tìm hiểu đồng franc CFP, lời mở
1 Nguyễn Thị Huyền Trang 10/10
đầu và lời kết, sửa lỗi.
Tìm hiểu đồng franc Pháp và làm
2 Hồ Thu Trang 10/10
word.
Tìm hiểu đồng franc CFA và làm
3 Nguyễn Quỳnh Như 10/10
powerpoint.
Tìm hiểu đồng franc CHF và một số
4 Nguyễn Nhật Uyên 10/10
đồng khác.
Lý thuyết về hệ thống tiền tệ và
5 Mai Thị Ánh Tuyết 10/10
thị trường ngoại hối.
2
- DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
VIẾT TẮT DIỄN GIẢI
NHTW Ngân hàng Trung Ương
NHTM Ngân hàng Thương mại
ECB Ngân hàng Trung ương Châu Âu
USD Đô la Mỹ
GBP Bảng Anh
FPF Franc Pháp
JPY Yên Nhật
DEM Mác Đức
GDP Tổng sản phẩm quốc gia
IFM Quỹ tiền tệ Quốc tế
SNB Ngân hàng Trung ương Thụy Sĩ
CEDEAO Cộng đồng Kinh tế các nước Tây Phi
WAMU Tám nước thuộc Liên minh Tiền tệ Tây Phi
- DANH SÁCH CÁC BIỂU DỒ, ĐỒ THỊ, SƠ ĐỒ, HÌNH ẢNH
- MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ ra đời và tồn tại dưới
nhiều hình thái khác nhau nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế, đặc biệt là
hoạt động sản xuất, lưu thông và trao đổi hàng hóa. Nó có vai trò quan trọng thúc
đẩy quá trình sản xuất và phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia cũng như trên
phạm vi toàn cầu, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường – nền kinh tế được tiền tệ
hóa cao độ. Cùng với sự phát triển năng động của nền kinh tế thị trường đã làm
nảy sinh nhu cầu thường xuyên và to lớn về nguồn tài chính để đầu tư và tạo lập
vốn kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu trong xã hội. Kinh tế ngày càng phát triển thì
quan hệ cung cầu nguồn tài chính ngày càng tăng.
Dựa theo nghiên cứu của MarxLenin về lịch sử và bản chất của tiền tệ:
“Tiền là loại hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hóa làm vật
ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và
biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.” Vì vậy, mỗi quốc gia hay
mỗi khu vực đều có một đồng tiền đại diện riêng. Đồng Franc từ khi xuất hiện
đến nay đã đóng một vai trò rất quan trọng trong thị trường tiền tệ của khu vực và
cả thế giới. Vậy tại sao lại nói đồng Franc có vai trò quan trọng trong thị trường
ngoại hối? Để hiểu rõ hơn Nhóm 2 đã có bài nghiên cứu về đề tài :” Hệ thống tiền
tệ của các nước theo hệ thống đồng Franc và vị thế của các đồng Franc trên thị
trường ngoại hối” nhằm mục đích có thể đi sâu vào nghiên cứu về lịch sử hình
thành, quá trình phát triển và vị thế của nó trong thị trường ngoại hối.
- CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG TIỀN TỆ VÀ
THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
HỆ THỐNG TIỀN TỆ
Tổng quan về hệ thống tiền tệ
Tiền tệ ra đời như là một tất yếu của hoạt động trao đổi, tuy nhiên tiền tệ
chỉ thực sự phát triển trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hóa. Kể từ khi ra
đời đến nay, tiền tệ đã tồn tại nhiều hình thái khác nhau bao gồm:
Vật ngang giá chung (hình thái cổ xưa).
Tiền kim loại: Vàng và bạc là phổ biến nhất. Vàng đại diện cho sự giàu
có và của cải và được gọi là kim loại quý. Do khối lượng vàng hạn chế
nên người ta sử dụng kim loại khác để đúc tiền ( đồng, nhôm ) những
đồng tiền kim loại đầu tiên được đúc do các địa chỉ, tầng lớp quý tộc.
Tiền giấy do sự phát triển của ngành in.
Tiền tín dụng: Sự phát triển của hệ thống ngân hàng giữa các nước với
nhau, trong hệ thống thanh toán đã xuất hiện tiền tín dụng. Việc sử dụng
tiền tín dụng rất thuận lợi và an toàn. Đối với bản thân nền kinh tế thì
tất cả đồng tiền của nền kinh tế được đưa vào lưu thông, tốc độ luân
chuyển nhiều nên tăng GDP.
Ngày nay chúng ta còn có các khái niệm phân biệt giữa tiền của một nước và
tiền thế giới như tiền tệ quốc gia và tiền tệ quốc tế. Về cơ bản, chúng đều là tiền,
- có chức năng giống nhau là lưu thông, trao đổi, buôn bán. Tuy nhiên hai loại tiền
này có sự khác nhau về phạm vi: Tiền quốc gia được từng quốc gia thừa nhận còn
tiền quốc tế được nhiều quốc gia thừa nhận. Vậy để tiền tệ quốc gia trở thành
tiền tệ quốc tế dựa trên cơ sở là đồng tiền đó phải có khả năng chuyển đổi. Chính
vì sự cần thiết của việc trao đổi giữa các quốc gia với nhau trong một xã hội đã
phát triển vượt bậc, như một sự tất yếu, hệ thống tiền tệ quốc tế ra đời giải quyết
những khó khăn cho nền kinh tế.
Hệ thống tiền tệ quốc tế là một định chế chung, mà trong đó thực hiện
những hoạt động thanh toán quốc tế, điều tiết các giao dịch vốn và quyết định tỷ
giá hối đoái giữa các đơn vị tiền tệ. Nghĩa là hệ thống tiền tệ quốc tế là cơ chế tổ
chức lưu thông tiền tệ giữa các quốc gia, được thực hiện bằng những thỏa ước và
quy định ràng buộc của các quốc gia, có hiệu lực trong phạm vi không gian và thời
gian nhất định. Hệ thống tiền tệ quốc tế tập trung vào hai đặc điểm đó là chọn
loại hình tiền tệ làm đơn vị quốc tế và tổ chức lưu thông tiền tệ.
Chọn loại hình tiền tệ làm đơn vị tiền tệ quốc tế. Đơn vị tiền tệ chung là
đơn vị thanh toán, đo lường và dự trữ giá trị của một cộng đồng kinh tế. Thông
thường các nước sử dụng một đồng tiền mạnh của một quốc gia nào đó trong
khối làm đồng tiền chung của khối. Các đồng tiền USD, GBP, FRF, JPY, DEM đã
từng là các đồng tiền quốc tế trong một khoảng thời gian. Tuy nhiên, sau này do sự
phát triển và hội nhập kinh tế, các liên minh kinh tế được hình thành hoàn toàn trên
cơ sở tự nguyện do vậy, mà các nước châu Âu đã không chọn một đồng tiền nào
của quốc gia được làm đồng tiền chung, mà các nước trong liên minh tự định ra một
đồng tiền chung của cả khối. Chẳng hạn: Ngày 01/01/1999 Đồng tiền chung của
châu Âu là euro đã ra đời với tỷ giá ngay tại ngày ra đời là 1 EUR = 1,16675 USD.
Tổ chức lưu thông tiền tệ: Chế độ tổ chức lưu thông tiền tệ trong các hệ
thống tiền tệ quốc tế thông thường bao gồm những nội dung đặc trưng sau:
Xác định tỷ giá giữa đồng tiền chung với các đồng tiền
thành viên của khối. Có thể theo tỷ giá cố định hoặc tỷ giá thả nổi.
Quy định về lưu thông tiền mặt, thanh toán không dùng tiền
mặt và lưu thông các giấy tờ có giá khác ghi bằng đồng tiền chung của cả
khối.
Quy định về tỷ lệ dự trữ ngoại hối: ấn định tỷ trọng giá trị
- của đồng tiền chung trong tổng dự trữ ngoại hối của các nước thành viên,
của ngân hàng thuộc khối.
Tiền tệ quốc tế và hệ thống tiền tệ quốc tế đều là sản phẩm của các liên
minh kinh tế. Do vậy sự phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế phụ thuộc vào các
liên minh kinh tế. Tuy nhiên, các liên minh kinh tế thường không đứng vững trong
một thời gian dài do các nguyên nhân khác nhau cho nên khi các liên minh kinh tế
tan vỡ thì hệ thống tiền tệ quốc tế cũng bị ảnh hưởng theo.
Mỗi hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành đều xuất phát từ những mục
đích nhất định của các nước tham gia. Tuy nhiên có thể thấy các hệ thống tiền tệ
đều có một số mục đích chung như sau:
Mở mang giao lưu về kinh tế quốc tế, tạo sự liên kết kinh tế giữa một số
nước đã có quan hệ gắn bó hoặc phụ thuộc lẫn nhau với ý định cạnh tranh hoặc
chống lại sự xâm nhập kinh tế – tài chính của các khối kinh tế khác.
Có thể tạo ra các mối liên kết (liên minh) về chính trị giữa các quốc gia một
cách chặt chẽ hoặc ràng buộc lỏng lẻo giữa các nước dưới sự chỉ huy hoặc thao
túng của một quốc gia mạnh.
Củng cố vai trò và vị trí kinh tế – tiền tệ của một số quốc gia trong khu
vực.
Quá trình phát triển của hệ thống tiền tệ quốc tế
Hệ thống tiền tệ quốc tế đã hình thành từ tự phát đến tự giác. Ban đầu là tự
phát thể hiện một đồng tiền của quốc gia nào đó tự nó có đầy đủ các yếu tố trở
thành tiền tệ quốc tế. Dần dần hệ thống tiền tệ quốc tế được hình thành một cách
tự giác trên cơ sở các quốc gia thỏa thuận, thống nhất với nhau thông qua đàm phán,
ký kết văn bản hoặc thừa nhận một đồng tiền của một quốc gia nào đó làm đơn vị
tiền tệ quốc tế.
Hệ thống bản vị vàng (gold standard)
Từ trước dương lịch 300 năm, thời của các Pharaoh, vàng được xem là
phương tiện thanh toán và cất trữ. Hy Lạp và đế chế Roman dùng tiền vàng cho
đến thời kỳ khếch trương thương mại của thế kỷ 19. Khi s ự gia tăng thương mại
lớn hơn đã đặt ra yêu cầu cần phải có hệ thống chính thức trong cán cân thương
mại quốc tế. Các quốc gia lần lượt thiết lập các mệnh giá cho các loại tiền tệ của
quốc gia mình theo giá trị của vàng và từ đó gắn với luật chơi đã đặt ra. Chế độ
- bản vị vàng được xem là hệ thống tiền tệ quốc tế được Châu Âu thừa nhận từ
những năm 1870. Mỹ là nước đi sau và chỉ thừa nhận hệ thống này đến năm 1879.
Theo bản vị vàng, tỷ lệ chuyển đổi giữa hai loại tiền bất kì xác lập dựa trên
giá trị của vàng của hai loại tiền đó ( tiền tệ lưu thông là tiền đúc bằng vàng ). Thí
dụ, hàm lượng vàng của 1 bảng Anh (GBP) là 2,488281 gram và của 1 đô la Mỹ
( USD) là 0,888671 gram do đó quan hệ so sánh giữa GBP và USD là:
Chế độ này ra đời có nhiều tác động tích cực đối với nền kinh tế tỷ giá giữa
các đồng tiền là cố định. Tuy nhiên khi nền kinh tế phát triển, lượng vàng cung ứng
không đáp ứng đủ cho lượng hàng hóa được làm ra từ đó gây áp lực nên nền kinh tế
vì vậy mà chế độ bản vị vàng đã sụp đổ sau hai cuộc chiến tranh thế giới và cuộc
Đại khủng hoảng năm 1930.
Hệ thống Bretton Woods: 1945 – 1972
Tháng 7/1944, đại diện 44 nước họp tại Bretton Woods, New Hampshire để
bàn bạc phác thảo hệ thống tiền tệ quốc tế thời hậu chiến. Sau nhiều lần tranh
cãi, thương lượng, các đại diện đã cùng dự thảo và ký kết Thỏa ước mang tên
Bretton Woods. Hiệp định Bretton Woods thiết lập hệ thống tiền tệ quốc tế dựa
trên đồng Đô la Mỹ và thiết lập hai định chế mới là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và
Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD). Theo đó, IMF chuyên hỗ trợ các
quốc gia thành viên trong cán cân thanh toán và vấn đề tỷ giá còn Ngân hàng Tái
thiết và Phát triển Quốc tế (IBRD) mà chúng ta thường gọi là Ngân hàng Thế giới
(WB) hỗ trợ vốn tái thiết sau chiến tranh và tài trợ phát triển kinh tế các nước
nghèo.
Hiệp định Bretton Woods thực chất là thỏa thuận hướng về việc giữ giá
đồng tiền các nước theo giá vàng và chống lạm phát giá cả. Đồng tiền của Hoa Kỳ
(USD) dựa trên thế mạnh của nền kinh tế phát triển vượt hơn và không bị tàn phá
trong chiến tranh đã được cố định ở mức 35 USD = 1OUNCE* vàng làm chuẩn cho
việc xác định tỷ giá đồng tiền của các nước còn lại tương ứng với đồng đô la Mỹ.
Các nước tham gia đồng ý duy trì giá trị của đồng tiền của mình trong vòng 1% (sau
này mở rộng đến 2.25%) của mệnh giá bằng cách mua hoặc bán ngoại tệ hoặc
vàng khi cần thiết. Làm giảm giá đã không được sử dụng như một chính sách cạnh
tranh thương mại trong giai đoạn này, nhưng nếu một đồng tiền quá yếu và khi mất
- giá quá 10% thì cần có sự can thiệp của IMF. Như vậy, có thể xem hệ thống
Bretton Woods là “hệ thống bản vị hối đoái vàng dựa trên Đô la Mỹ”.
Hệ thống Bretton Woods được duy trì đến năm 1971 thì sụp đổ. Nguyên
nhân của sự sụp đổ này lạm phát quá mức ở Mỹ, biểu hiện ở sự mất giá rõ rệt của
đồng đô la Mỹ, nhất là trong tương quan với đồng mark Đức và yên Nhật. Tổng
thống Richard M. Nixon đã tuyên bố chấm dứt việc chuyển đổi đô la ra vàng vào
ngày 15/8/1971.
Hệ thống tiền tệ quốc tế hiện đại – chế độ tỷ giá hối đoái linh
hoạt (Flexible Exchange Rate) : từ 1973 đến nay
Đầu tháng 2/1973, một cuộc công kích ồ ạt mang tính đầu cơ vào đồng đô la
Mỹ lại bắt đầu dẫn tới thị trường ngoại hối phải đóng cửa. Sau khi các NHTW
châu Âu mua 3,6 tỷ đô la vào 1/3/1973 để ngăn chặn đồng tiền của họ lên giá, thị
trường ngoại hối lại đóng cửa một lần nữa. Khi thị trường ngoại hối mở lại vào
19/3, đồng yên của Nhật và phần lớn các đồng tiền của các nước châu Âu được thả
nổi so với đồng đô la. Giá thị trường tăng từ 38 lên 42 USD/ounce vàng. Việc thả
nổi tỷ giá trao đổi đô la của các nước công nghiệp khi đó được xem như một phản
ứng tạm thời đối với việc di chuyển vốn mang tính đầu cơ và không quản lý được.
Nhưng, những thỏa thuận tạm thời được chấp nhận vào tháng 3/1973 đã trở thành
lâu dài và đánh dấu sự kết thúc tỷ giá trao đổi cố định của hệ thống Bretton Woods
và sự bắt đầu của một thời kỳ mới sôi động trong quan hệ tiền tệ quốc tế. Từ đó
tỷ giá hối đoái giữa những đồng tiền mạnh như Đô la, Mác, Bảng và Yên đều dao
động so với các ngoại tệ khác.
TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
Tổng quan về tỷ giá hối đoái
Khái niệm
Tỷ giá hối đoái là mối quan hệ so sánh sức mua giữa các đồng tiền với nhau.
Đó là giá cả chuyển đổi một đơn vị tiền tệ của nước này thành những đơn vị tiền
tệ của nước khác. Ví dụ: Tỷ giá bán ra của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
ngày 12/03/2005 là 1 USD = 15804VND.
Ý nghĩa kinh tế của tỷ giá hối đoái
So sánh sức mua giữa các đồng tiền: Tỷ giá hối đoái phản ánh tương quan
giá trị giữa hai đồng tiền, thông qua đó có thể so sánh giá cả tại thị trường trong
- nước và trên thế giới, đánh giá năng suất lao động, giá thành sản phẩm trong nước
với các nước khác.
Vai trò kích thích và điều chỉnh xuất nhập khẩu: Thông qua cơ chế tỷ giá,
chính phủ sử dụng tỷ giá để tác động đến xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ,
khuyến khích những ngành hàng, chủng loại hàng hóa tham gia hoạt động kinh tế
đối ngoại, hạn chế nhập khẩu nhằm thực hiện định hướng phát triển cho từng giai
đoạn.
Điều tiết thu nhập trong hoạt động kinh tế đối ngoại: Phân phối lại thu
nhập giữa các ngành hàng có liên quan đến kinh tế đối ngoại và giữa các nước có
liên quan về kinh tế với nhau. Khi tỷ giá cao, tức là giảm sức mua của đồng tiền
trong nước so với đồng tiền nước ngoài. Điều này có tác dụng giúp cho nhà xuất
khẩu có thêm lợi thế để cạnh tranh tăng thêm thu nhập cho nhà xuất khẩu.
Tỷ giá còn là công cụ sử dụng trong cạnh tranh thương mại, giành giật thị
trường tiêu thụ hàng hóa, khai thác nguyên liệu của nước khác với giá rẻ. Đó là
biện pháp phá giá đồng tiền. Điển hình là nước Mỹ đã dùng công cụ tỷ giá để cản
trở sự xuất khẩu các hàng hóa của Nhật sang Mỹ (đặc biệt là xe hơi). Việc làm này
đã gây thiệt hại cho Nhật, làm giảm thu nhập từ xuất khẩu của Nhật. Phá giá đồng
tiền là việc chính phủ đứng ra tuyên bố giảm giá nội tệ so với ngoại tệ.
Tác động của tỷ giá đến các quan hệ kinh tế quốc tế
Tác động đến thương mại quốc tế: Khi tỷ giá hối đoái tăng theo nghĩa là
đồng nội tệ có giá trị giảm xuống so với đồng ngoại tệ sẽ có tác động bất lợi cho
nhập khẩu nhưng lại có lợi cho xuất khẩu. Khi tỷ giá giảm có tác động hạn chế
xuất khẩu, khuyến khích nhập khẩu.
Tác động đến hoạt động đầu tư: Khi tỷ giá hối đoái tăng lên sẽ hạn chế việc
đầu tư ra nước ngoài của nhà đầu tư trong nước, vì họ sẽ không có lợi nếu chuyển
vốn bằng đồng nội tệ ra nước ngoài để đổi lấy ngoại tệ tăng giá. Các khoản vốn
đầu tư này nếu được tái đầu tư hoặc để mua hàng hóa trong nước thì sẽ đem lại
hiệu quả cao hơn và ngược lại.
Chế độ tỷ giá hối đoái
Chế độ tỷ giá cố định
Tỷ giá cố định là tỷ giá được cố hoặc chỉ được cho phép dao động trong một
phạm vi rất hẹp. Nếu tỷ giá bắt đầu dao động quá nhiều thì các chính phủ có thể
can thiệp để duy trì tỷ giá hối đoái trong vòng giới hạn của phạm vi này. Chế độ tỷ
- giá hối đoái cố định là một chế độ tỷ giá hối đoái được nhà nước công bố sẽ duy trì
không thay đổi tỷ giá giữa đồng nội tệ với một đồng ngoại tệ nào đó.
Đặc điểm của chế độ tỷ giá cố định về cơ bản, những lực cung cầu vẫn
tồn tại trong thị trường ngoại tệ và chi phối số lượng cung cầu ngoại tệ trên thị
trường nhưng Nhà nước cam kết sẽ duy trì tỷ giá hối đoái ở mức độ cố định. Nếu
cung trên thị trường lớn hơn cầu ở mức tỷ gía cố định thì nhà nước đảm bảo mua
hết số dư cung ngoại tệ. Nếu cung trên thị trường nhỏ hơn c ầu ở mức tỷ giá cố
định đó thì Nhà nước sẽ đảm bảo cung cấp một lượng ngoại tệ bằng đúng lượng
dư cầu. Nhà nước sẽ thực hiện hoạt động mua bán lượng dư cung hay cầu đó với
tư cách là người mua bán cuối cùng, người điều phối. Những dự báo thay đổi tỷ giá
trên thị trường gần bằng không trừ trường hợp nhà nước thay đổi mức tỷ giá cố
định. Ví dụ, Pháp đã áp dụng tỷ giá cố định lên các nước thuộc địa của mình khi
cho cho ra đời đồng Franc tại thuộc địa nhằm kiểm soát chặt chẽ các nước thuộc
địa.
Chế độ tỷ giá thả nổi
Tỷ giá thả nổi là hối đoái được xác định và thay đổi hoàn toàn tùy thuộc vào
tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Nhà nước hoàn toàn không có bất cứ
một tuyên bố, một cam kết nào về điều hành và chỉ đạo tỷ giá. Nhà nước không có
bất kỳ sự can thiệp trực tiếp nào vào thị trường ngoại tệ.
Chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước
Chế độ tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của Nhà nước về cơ bản tỷ giá do thị
trường quyết định nhưng có sự can thiệp của nhà nước vào những lúc cần thiết
nhằm tránh những cơn sốc về tỷ giá, hạn chế sự biến động. Tỷ giá được xác định
và thay đổi hoàn toàn phụ thuộc tình hình quan hệ cung cầu trên thị trường. Tuy
nhiên, Ngân hàng Nhà nước sẽ tuyên bố một mức biến động cho phép đối với tỷ giá
và chỉ can thiệp vào thị trường với tư cách là người mua bán cuối cùng khi tỷ giá có
sự biến động mạnh vượt mức cho phép. Nếu tình hình kinh tế có những thay đổi
lớn thì mức tỷ giá hối đoái, biên độ dao động cho phép được nhà nước xác định và
công bố lại.
- THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
Tổng quan về thị trường ngoại hối
Khái niệm
Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra các hoạt động mua bán và trao đổi ngoại
tệ thông qua quan hệ cung cầu. Việc trao đổi bao gồm việc mua một đồng tiền này
và đồng thời bán một đồng tiền khác. Như vậy, các đồng tiền được trao đổi từng
cặp với nhau (ví dụ: USD/DEM). Ở các nước phát triển các quan hệ cung cầu
ngoại hối đều tập trung ở thị trường ngoại hối. Trung tâm của thị trường ngoại hối
là thị trường liên ngân hàng, thông qua thị trường liên hàng mọi giao dịch mua bán
ngoại hối có thể tiến hành trực tiếp với nhau.
Quá trình hình thành thị trường ngoại hối đã hình thành hai hệ thống tổ chức
khác nhau gồm hai hệ thống bao gồm hệ thống hối đoái Anh Mỹ và hệ thống hối
đoái Châu Âu:
Theo hệ thống AnhMỹ, thị trường hối đoái có tính chất biểu tượng, chỉ
giao dịch ngoại hối thường xuyên giữa một số ngân hàng và nhà môi giới qua các
phương tiện thông tin hiện đại, tức loại thị trường không qua quầy. Thị trường
ngoại hối thực chất không phải là một địa điểm cụ thể, tức không phải là một văn
phòng nơi mọi người ngồi lại với nhau mà đó là một mạng lưới thông tin liên lạc
ngân hàng nối mạng điện tử với nhau, liên kết với người môi giới ngoại hối.
Theo hệ thống Châu Âu lục địa (không bao gồm nước Anh), thị trường hối
đoái có địa điểm giao dịch nhất định, hàng ngày những người mua bán ngoại hối tới
đó để giao dịch và ký hợp đồng, nhưng chủ yếu qua điện thoại, fax, telex và hệ
thống Reuters.
Hiện nay các thị trường ngoại hối lớn trên thế giới gồm có nhiều thị trường lớn với
doanh số cao như : London, NewYork, Tokyo, Singapore, HongKong, Frankfurt…
Đặc điểm của thị trường ngoại hối
Thị trường ngoại hối mang tính quốc tế:
Thị trường hối đoái hoạt động liên tục suốt ngày đêm 24 giờ/ngày trên các
khu vực khác nhau của thế giới.
Không có địa điểm cụ thể. Các giao dịch mua bán được thực hiện thông
qua các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại như: telex, điện thoại, máy vi tính..
- Trong bất cứ giao dịch ngoại hối nào thì ít nhất có một đồng tiền đóng vai
trò làm ngoại tệ.
Ngôn ngữ sử dụng trên thị trường rất ngắn gọn, mang nhiều quy ước
nghiệp vụ rất khó hiểu với người thường.
Doanh số hoạt động trên thị trường ngoại hối rất lớn.
Giá cả hàng hoá của thị trường ngoại hối chính là tỷ giá hối đoái được hình
thành một cách hợp lý, linh hoạt dựa trên quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
Do đó, thị trường ngoại hối rất nhạy cảm với các chỉ số kinh tế như tổng sản phẩm
xã hội., mức tăng sản xuất, tỷ lệ lạm phát, sự biến động của lãi suất và chịu sự tác
động của các sự kiện chính trị xã hội như: biểu tình, thiên tai, chiến tranh...
Hàng hóa của thị trường hối đoái
Hàng hóa được mua bán trên thị trường hối đoái gọi là ngoại hối. Ngoại hối
là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị dùng để thanh toán giữa các
quốc gia. Tùy theo quan niệm của mỗi nước mà khái niệm ngoại hối sẽ khác nhau.
Các thành phần tham gia
Các ngân hàng thương mại: NHTM tiến hành giao dịch ngoại hối với hai
mục đích: Thực hiện kinh doanh cho chính mình và cho khách hàng.
Các NHTM là hạt nhân và giữ vai trò quan trọng trên thị trường hối đoái. Các
NHTM lớn có chi nhánh, đại lý ở nước ngoài, họ kinh doanh ngoại hối là chủ yếu,
còn các ngân hàng khác đóng vai trò phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh dưới sự
chỉ đạo của các ngân hàng thương mại lớn. Các ngân hàng này có nhiệm vụ điều
chỉnh mức dự trữ của từng loại ngoại tệ khác nhau. Các NHTM chủ yếu là mua đi
bán lại các loại ngoại tệ hoặc là các giao dịch có tính chất đầu cơ.
Các ngân hàng trung ương: Với tư cách là người canh giữ hệ thống tiền tệ
ngân hàng và là người chủ của dự trữ ngoại hối quốc gia, các NHTW là thành phần
cơ bản trên thị trường hối đoái thông qua hành vi can thiệp trên thị trường.
Các cá nhân hay các nhà kinh doanh (khách hàng mua bán lẻ): gồm những
công dân trong và ngoài nước có nhu cầu mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
để phục vụ cho hoạt động đầu tư, cho vay, đi công tác hay đi du lịch ở nước ngoài
hoặc khi nhận được các khoản lợi tức đầu tư hay chuyển tiền.
Các nhà môi giới ngoại hối: Người môi giới thực hiện các lệnh mua bán
ngoại hối theo yêu cầu của khách hàng và hưởng phí.
- Các doanh nghiêp: Chủ yếu là các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh
xuất nhập khẩu, vừa là có nhu cầu về ngoại tệ để thanh toán các hợp đồng thương
mại quốc tế, vừa cung ngoại tệ khi có các khoản thu về việc xuất khẩu hàng hoá
dịch vụ…và được xem như là chủ thể hình thành nên khối lượng mua và bán ngoại
hối lớn nhất trên thị trường ngoại hối.
Vai trò của thị trường ngoại hối
Cân đối các nhu cầu mua bán ngoại tệ
Thị trường ngoại hối tạo ra cơ chế hữu hiệu đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại
tệ cho các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động kinh tế
đối ngoại khác. Thị trường ngoại hối hoạt động liên tục và mang tính toàn cầu đáp
ứng ngay lập tức nhu cầu về ngoại tệ của bất kỳ người mua, người bán nào. Sự
tham dự của các ngân hàng và các nhà đầu cơ cũng góp phần giải quyết sự mất cân
đối cung cầu ngoại tệ thông qua việc điều chỉnh tỷ giá cân bằng của thị trường
hoặc thông qua đầu cơ ngoại tệ.
Phòng chống rủi ro tỷ giá
Ngày nay đa số các nước trên thế giới đều áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi nên
tỷ giá hối đoái luôn luôn biến động, ảnh hưởng rất lớn đến lợi ích của các chủ thể.
Các công ty xuất nhập khẩu, công ty đa quốc gia và các cá nhân có nguồn thu, chi
ngoại tệ trong tương lai chịu ảnh hưởng rủi ro rất lớn về sự biến động của tỷ giá
hối đoái. Do vậy, các chủ thể này cần thiết phải áp dụng các biện pháp nhằm hạn
chế, phòng ngừa rủi ro thông qua các nghiệp vụ mua bán kỳ hạn, quyền chọn… của
thị trường ngoại hối.
Tạo ra thu nhập cho người sở hữu ngoại tệ
Các NHTM tham gia vào thị trường ngoại hối chủ yếu là giao dịch cho chính
mình, tiến hành các hoạt động kinh doanh chênh lệch giá giữa các thị trường để thu
lời
qua việc mua ở thị trường giá rẻ hơn và bán lại ở thị trường giá cao hơn.
Không chỉ có các ngân hàng mà các doanh nghiệp và cá nhân cũng có thể thu
lời thông qua hoạt động đầu cơ ngoại tệ. Ngoài ra,thị trường ngoại hối còn giúp
các nhà đầu tư chuyển đổi ngoại tệ phục vụ cho việc đầu tư vào thị trường có mức
lãi dự tính cao.
- HỆ THỐNG CÁC NƯỚC THEO HỆ THỐNG ĐỒNG FRANC VÀ
VỊ THẾ CỦA CÁC ĐỒNG FRANC TRÊN THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI
Cộng hòa Pháp – đồng franc Pháp
Tổng quan
Đồng franc Pháp, còn gọi là franc , biểu tượng là F hoặc Fr, là đơn vị tiền tệ
của Pháp sử dụng từ năm 1936 và bị thay thế bởi đồng Euro vào năm 2002.
Mã tiền tệ ISO 4217 của franc Pháp là FRF, con số 250, số mũ 2.
Đồng franc Pháp qua các thời kỳ
Ra đời: năm 1360 đến 1641
Đồng franc đầu tiên là một đồng tiền vàng được giới thiệu vào năm 1360 để
trả tiền chuộc của Vua John II của Pháp trong Chiến tranh Trăm năm, đồng xu này
bảo đảm sự tự do của nhà vua. Trong khoảng thời gian từ năm 1360 đến 1641,
những đồng xu có giá trị một tourreis đã được đúc và được gọi là francs (tên đến từ
dòng chữ "Johannes Dei Gratia Francorum Rex", tức "John, bởi ân sủng của Thiên
Chúa” Vua của Pháp). Ở trên mặt đồng tiền là nhà vua cưỡi một con ngựa được
trang trí phong phú, nên người ta đặt cho đồng tiền này tên franc à cheval (có nghĩa
là "tự do trên ngựa" trong tiếng Pháp). Sau cái chết của John II, con trai của
John, Charles V, tiếp tục loại tiền này với chính sách cải cách, bao gồm tiền đúc ổn
định. Sắc lệnh ngày 20 tháng 4 năm 1365 đã thiết lập một đồng tiền vàng chính
thức được gọi là denier d'or aux fleurs de lis có hình dáng đứng của nhà vua trên mặt
đối diện của nó, được vẽ dưới tán cây. Giá trị của nó bằng một tourreis, giống
như franc à cheval , và đồng tiền này được biết đến rộng rãi như một đồng franc à
pied. Năm 1641 khi Louis XIII của
Pháp thay thế nó bằng bạc écu và louis
d'or vàng.
- Hình 21: Đồng Franc vàng đầu tiên năm 1360
Từ 1795 đến trước chiến tranh thế giới thứ nhất
Theo Công ước Cách mạng Pháp năm 1795 "Franc" thập phân được trở thành
đơn vị tiền tệ quốc gia (1 franc = 10 décimes = 100 centimes). Đồng xu bạc hiện có
mệnh giá rõ ràng là "5 FRANCS" và bắt buộc phải báo giá bằng đồng franc. Điều
này đã chấm dứt hoạt động của các đồng tiền không có mệnh giá rõ ràng chẳng hạn
như Louis d'or , định kỳ ban hành các sắc lệnh hoàng gia để thao túng giá trị của
chúng về mặt tài khoản, tức là Livre tournois. Đồng franc trở thành tiền tệ chính
thức của Pháp vào năm 1799.
Năm 1803, Franc germinal (được đặt tên theo tháng Germinal trong lịch cách
mạng ) được thành lập, tạo ra một đồng franc vàng chứa 290,034 mg vàng nguyên
chất. Từ thời điểm này, các đơn vị vàng và bạc lưu thông thay thế cho nhau trên cơ
sở tỷ lệ 1: 15,5 giữa các giá trị của hai kim loại (lưỡng kim). Đồng tiền này bao
gồm các đồng tiền vàng hiện đại đầu tiên có mệnh giá bằng đồng franc, lần đầu
tiên được mô tả là "Lãnh sự Bonaparte" và với quốc gia được mô tả là "République
Française"
Chiến tranh thế giới thứ nhất
Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ khiến Pháp rời khỏi tiêu chuẩn vàng
của Liên minh tiền tệ Latinh. Chiến tranh làm suy yếu nghiêm trọng sức mạnh của
đồng franc: chi tiêu chiến tranh, lạm phát và tái thiết sau chiến tranh, được tài trợ
một phần bằng cách in thêm tiền, giảm 70% sức mua của franc trong khoảng thời
gian từ 1915 đến 1920 và giảm thêm 43% trong khoảng thời gian từ 1922 đến 1926.
Đồng tiền tiếp tục trượt, cho đến năm 1959, sức mua có giá trị dưới 2,5% giá trị
năm 1934.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Trong thời Đức Quốc xã chiếm đóng Pháp (từ năm 1940 năm 1944), đồng
franc là một loại tiền tệ phụ thuộc vào Reichsmark của Đức với tỷ giá hối đoái là
20 franc cho Reichsmark. Các đồng tiền đã được thay đổi, với các từ Travail,
famille, patrie (Công việc, Gia đình, Tổ quốc) thay thế cho bộ ba Cộng hòa Liberté,
égalité, huynh đệ (Liberty, Equality, Frhood), với biểu tượng của chế độ
Vichy được thêm vào.Sau giải phóng, Hoa Kỳ đã cố gắng áp đặt việc sử dụng đồng
“flag ticket” franc của Hoa Kỳ lên Pháp nhưng đã bị Tướng De Gaulle ngăn chặn.
- Sau chiến tranh thế giới thứ hai đến 1999
Sau Thế chiến thứ II, Pháp đã phá giá tiền tệ của mình trong hệ thống
Bretton Woods trong nhiều lần. Bắt đầu từ năm 1945 với tỷ giá 480 franc so
với bảng Anh (119,1 đô la Mỹ ), đến năm 1949, tỷ giá là 980 đến bảng Anh (350 đến
đô la). Điều này đã giảm hơn nữa vào năm 1957 và 1958, đạt 1382,3 đến bảng Anh
(493,7 đô la, tương đương với 1 franc = 1,8 mg vàng nguyên chất).
Sau hai thế kỷ lạm phát với những rắc rối vẫn tiếp thục từ thời hậu chiến,
vào tháng 1 năm 1960, Tướng de Gaulle quyết định đồng franc Pháp đã được định
giá lại, với 100 franc hiện có bằng một franc nouveau. Chữ viết tắt "NF" (new
franc) đã được sử dụng trên tiền giấy thiết kế năm 1958 cho đến năm 1963. Tiền
cũ một và hai franc tiếp tục lưu hành. Đồng xu một xu không lưu hành rộng rãi.
Lạm phát tiếp tục làm xói mòn giá trị của đồng franc: giữa năm 1950 và 1960, mức
giá tăng 72% (trung bình 5,7% mỗi năm); giữa năm 1960 và 1970, nó đã tăng 51%.
Sau khi Pháp kí kết Hiệp định Maastricht tạo ra Liên minh Châu Âu vào
07/02/1992 và Ngân hàng Trung Ương Châu Âu (ECB) đã cho ra đời đồng tiền
chung Châu Âu gọi là Euro. Đồng franc Pháp bị thay thế bởi đồng Euro với tỷ giá
hối đoái được đặt ở mức ngang giá cố định € 1 = 6,55957 F. Tất cả các đồng tiền
franc và tiền giấy đã không còn được đấu thầu hợp pháp vào tháng 1 năm 2002, khi
đồng euro chính thức được thông qua.
Vị thế trên thị trường ngoại hối
Ra đời năm 1360, dù bị ngắt quãng sử dụng trong thời gian khá dài (từ năm
1641 đến 1795), đồng franc vẫn để lại dấu ấn mạnh mẽ hơn nhiều so với đồng
livre trước đó khi gắn liền với lịch sử thực dân của Pháp. Những đồng franc đầu
tiên được phát hành với mục đích chủ yếu là giúp vua John II chuộc lại sự tự do
của chính mình do nền kinh tế Pháp đã hết sức suy yếu. Tuy nhiên, đồng franc đã
được duy trì tiếp sau đó với giá trị tính bằng tiền của nó là một livre tournois cho
đến năm 1577. Vào thời gian này, dòng chảy của vàng và bạc từ Tây Ban Nha và
Mỹ đã gây ra lạm phát trên toàn thế giới, các vị vua của Pháp những người không
nhận được nhiều của cải này khiến mọi thứ tồi tệ hơn khi gán giá trị cho đồng
franc của họ. Henry III đã định giá một đồng xu franc bạc có giá trị bằng một livre
tournois khiến đồng franc mất giá nghiêm trọng. Đồng xu này và các phân số của
nó lưu hành cho đến năm 1641 khi Louis XIII của Pháp thay thế nó bằng bạc écu.
- Cũng cùng thời gian này, Pháp bắt đầu xây dựng thuộc địa ở châu Mỹ, biển
Caribê và Ấn Độ. Việc mở rộng thuộc địa giúp đồng franc Pháp mở rộng ảnh
hưởng đến các khu vực này và giúp mở rộng sự giao thương của Pháp, thúc đẩy
sản xuất buôn bán. Tuy nhiên sau đó các thuộc địa này phần lớn bị mất hoặc bị bán.
Đồng franc trở lại vào năm 1795 và chính thức thành tiền tệ của Pháp vào
năm 1799 với kĩ thuật tiền tệ thập. Việc lưu thông tiền tệ kim loại này giảm trong
Séc, những đồng xu vàng và bạc cũ được đưa ra khỏi lưu thông và trao đổi cho in
tiền giấy assignats, ban đầu phát hành như trái phiếu được hỗ trợ bởi giá trị của
hàng hóa bị tịch thu của nhà thờ, nhưng sau đó khai báo là tệ hợp pháp. Những đồng
tiền vàng và bạc rút ra được dùng để tài trợ cho các cuộc chiến tranh và nhập khẩu
lương thực, vốn đang thiếu hụt. Như trong " Bong bóng Mississippi " năm 1715
1720, quá nhiều tiền chuyển nhượng đã được đưa vào lưu hành, vượt quá giá trị của
"tài sản quốc gia", và tiền xu, cũng do quân đội trưng dụng và tích trữ, hiếm khi trả
cho các nhà cung cấp nước ngoài. Với khoản nợ của chính phủ quốc gia vẫn chưa
được thanh toán, và sự thiếu hụt bạc và đồng thau để đúc tiền xu khiến niềm tin
vào đồng tiền mới giảm sút, dẫn đến siêu lạm phát, nhiều bạo loạn lương thực, bất
ổn chính trị nghiêm trọng. Sau một cuộc đảo chính dẫn, Lãnh sự quán dần dần
giành được quyền lập pháp duy nhất với chi phí của các tổ chức tư vấn lập pháp
không ổn định và mất uy tín khác.
Đến năm 1850, thực dân Pháp tập trung chủ yếu xây dựng thuộc địa ở Châu
Phi cũng như Đông Dương và Nam Thái Bình Dương. Dưới đế chế thực dân Pháp,
các mối quan hệ ưu tiên giữa những đồng tiền của các lãnh thổ và đồng franc Pháp
cho phép xác định một khu vực tiền tệ đặc trưng. Theo nghĩa rộng, một khu vực
tiền tệ được xác định chủ yếu bởi sự cùng tồn tại của một đồng tiền thống trị và
nhiều đồng tiền vệ tinh, sự thống nhất của toàn khối được bảo đảm nhờ khả năng
chuyển đổi của tất cả các đồng tiền này với nhau trên cơ sở các ngang giá cố định.
Việc tổ chức nhiều nước thành một khu vực tiền tệ thường nằm trong khuôn khổ
rộng hơn, với đặc điểm là có các mối quan hệ chính trị và kinh tế ưu tiên. Vì vậy,
vị thế quan trọng của đồng franc đã được khẳng định trên thị trường tiền tệ, tạo ra
sự đảm bảo một tỷ giá hối đoái cố định cho các đồng tiền trong khu vực cùng các
nước cùng sử dụng đồng franc và cũng giúp Pháp kiểm soát chặt chẽ chính trị và
kinh tế của các nước thuộc địa.
- Kể từ thế kỷ 19, Pháp đã quyết định tổ chức phát hành tiền tệ tại các nước
thuộc địa và ưu tiên cho một số ngân hàng tư nhân đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ
về tỷ giá của chính quyền Pháp như Ngân hàng Angiêri, Ngân hàng Đông Dương,
Ngân hàng Tây Phi, Ngân hàng Ăngti,... Những đồng tiền này đã được phát hành để
rút dần các đồng tiền bản địa (tiền mani, ốc tiền) hoặc các đồng tiền nước ngoài
đang lưu thông trên các lãnh thổ thuộc địa. Để bảo đảm chất lượng của việc lưu
thông tiền tệ, các ngân hàng phát hành của địa phương phải chịu sự kiểm soát của
chính quyền Pháp nhất là khi trao đổi giữa Pháp và các nước thuộc địa ngày càng
tăng.
Theo hiệp ước ngày 23/12/1865, Pháp, Bỉ, Ý và Thụy Sĩ đã thành lập Liên
minh tiền tệ Latinh qua đó thiết lập tiêu chuẩn trao đổi dựa trên các thông số kỹ
thuật của đồng franc vàng của Pháp, việc gia nhập Liên minh tiên tệ Latinh giúp
franc Pháp tạo vị thế mạnh, được sử dụng rộng rãi và chiếm tỷ trọng lớn trong quỹ
dự trữ không chỉ đối với các nước tham gia mà còn là các nước tham gia không
chính thức cùng các thuộc địa.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, với tư thế là nước thắng cuộc, Pháp có
thêm cơ hội mở rộng hơn nữa các hệ thống thuộc địa của mình nhưng nạn khủng
hoảng do thiếu vàng tồn tại trong chiến tranh khiến tiền giấy cưỡng bách lưu hành
mất 80% giá trị, lạm phát tăng cao. Để thoát khỏi tình trạng bế tắc này, Pháp đã
dùng biện pháp thay vì đổi tiền giấy trực tiếp ra vàng, người ta chỉ cho đổi lấy thứ
tiền giấy ngoại quốc có thể đổi ra vàng. Chính phủ Pháp cũng cắt giảm thuế, và
vào cuối những năm 1920, nền kinh tế Pháp đã phục hồi trở lại.
Nhờ sự thay đổi từ kim bản vị thành kim hoán bản vị, các nước châu Âu đã
thoát khỏi khủng hoảng. Tuy nhiên, chế độ này cũng chỉ được thi hành trong thời
gian ngắn đến năm 1931. Sau khi NHTW Anh đã bãi bỏ tính chuyển đổi của đồng
bảng Anh và giảm giá đồng bảng Anh khoảng 30%, tất cả các nước theo Anh cũng
từ bỏ khả năng chuyển đổi tiền sang vàng khiến tiền tệ sụt giảm. Khi giá vàng trên
thế giới giảm sút sau các đợt giảm giá đồng tiền trên toàn bộ thế giới, một số nước
thuộc hệ thống đồng franc như Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ vẫn giữ nguyên không giảm giá
các đồng tiền của mình khiến cho vàng của Pháp quá cao so với thế giới. Các nhà
xuất khẩu Pháp gặp khó khăn, nhâp khẩu tăng thái quá, tình hình thương mại xấu
đi. Sự sợ hãi vào tương lai của đồng
nguon tai.lieu . vn