- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Tiểu luận môn Quản trị đa văn hóa: Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể theo học thuyết Hofstede
Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
o0o
BÀI BÁO CÁO MÔN QUẢN TRỊ ĐA VĂN HÓA
CHỦ ĐỀ:
CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN & CHỦ NGHĨA TẬP THỂ
THEO HỌC THUYẾT HOFSTEDE
Nhóm thực hiện : Nhóm 8
Lớp : IBS3007_6
1
- Đà Nẵng, tháng 5 năm 2020
MỤC LỤC
2
- I. GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT
1. Giới Thiệu Tác Giả Gerard Hendrik Hofstede
Gerard Hendrik Hofstede (2/10/1928 – 12/2/2020) là một nhà tâm lý học xã hội người
Hà Lan , nhân viên IBM và Giáo sư danh dự về Nhân chủng học tổ chức và Quản lý
quốc tế tại Đại học Maastricht ở Hà Lan. Sinh ra tại Gerrit và Evertine Geessine
(Veenhoven) Hofstede, Geert Hofstede theo học tại The Hague và Apeldoorn , và nhận
bằng tốt nghiệp trung học (Gymnasium Beta) vào năm 1945. Năm 1953, Hofstede tốt
nghiệp Đại học Kỹ thuật Delft .Sau khi làm việc trong ngành được mười năm,
Hofstede tham gia nghiên cứu tiến sĩ bán thời gian tại Đại học Groningen ở Hà Lan
và nhận bằng tiến sĩ tâm lý học xã hội kiêm laude năm 1967.
Sau khi tốt nghiệp Delft năm 1953, Hofstede gia nhập quân đội Hà Lan, làm nhân viên
kỹ thuật trong quân đội Hà Lan trong hai năm. Năm 1965, ông bắt đầu nghiên cứu sau
đại học tại Groningen và gia nhập IBM International, làm giảng viên quản lý và quản
lý nghiên cứu nhân sự. Ông thành lập và quản lý Phòng nghiên cứu nhân sự. Trong
hai năm nghỉ phép từ IBM từ năm 1971 đến năm 1973, ông là giảng viên thỉnh giảng
tại IMEDE (nay là Viện Phát triển Quản lý Quốc tế ). Năm 1980, Hofstede đồng sáng
lập và trở thành Giám đốc đầu tiên của IRIC, Viện nghiên cứu về hợp tác liên văn
hóa, đặt tại Đại học Tilburg từ năm 1998.
Hofstede nhận được nhiều giải thưởng danh dự, và năm 2011 đã được phong làm
Hiệp sĩ trong Huân chương Sư tử Hà Lan .Ông có bằng tiến sĩ danh dự từ bảy trường
đại học ở châu Âu, Đại học kinh doanh Nyenrode , Đại học New Bulgaria ,Đại học
Kinh tế và Kinh doanh Athens , Đại học Gothenburg , Đại học Liège , Đại học Quản
lý và Kinh tế ISM , Đại học Pécs tại 2009, và Đại học Tartu năm 2012. Ông cũng
nhận được các giáo sư danh dự tại Đại học Hồng Kông199220002000; các trường
Đại học Bắc Kinh của kinh doanh quốc tế và Kinh tế (UIBE), Bắc Kinh, Trung Quốc
; và Đại học Renmin của Trung Quốc , Bắc Kinh, Trung Quốc .
2. Giới Thiệu Học Thuyết Hofstede
Hofstede đã tiếp cận mô hình đầu tiên của mình như một kết quả phân tích nhân tố
của bảng khảo sát nhân lực trên toàn thế giới cho IBM vào khoảng giữa năm 1967 và
3
- 1973. Sau đó, kết quả này đã được phân tích và chắt lọc kỹ càng. Những lý thuyết
ban đầu đã đưa ra bốn khía cạnh cần phân tích của các giá trị văn hóa: chủ nghĩa cá
nhân – chủ nghĩa tập thể (individualism – collectivism); mức độ e ngại rủi ro
(uncertainty avoidance); khoảng cách quyền lực (power distance) và masculinity
femininity (định hướng công việc định hướng cá nhân). Một nghiên cứu độc lập tại
Hồng Kông đã giúp Hofstede hình thành khía cạnh thứ năm định hướng dài hạn
(long term orientation), nhằm bao quát các khái niệm chưa được thảo luận trong mô
hình ban đầu. Năm 2010, Hofstede đưa ra khía cạnh thứ sáu để so sánh sự tự thỏa
mãn (các nhu cầu bản thân) so với sự tự kiềm chế của con người.
6 chiều văn hóa của học thuyết Hofstede
Mô hình của Hofstede giải thích sự khác biệt văn hóa quốc gia và hậu quả của chúng,
khi được giới thiệu vào năm 1980, đến vào thời điểm sự khác biệt về văn hóa giữa
các xã hội ngày càng phù hợp vì cả lý do kinh tế và chính trị. Việc phân tích dữ liệu
khảo sát và tuyên bố của ông đã khiến nhiều học viên quản lý nắm lấy mô hình, đặc
biệt là sau khi xuất bản cuốn sách năm 1991 của ông, Cultures and Organis: Software
of the Mind . Ông đã tiến hành các nghiên cứu sâu rộng về sự khác biệt văn hóa quốc
gia, lần đầu tiên ông cho những nhân viên làm việc trong các công ty con của một tập
đoàn đa quốc gia (IBM) tại 64 quốc gia. Hofstede, người đã thành lập và quản lý bộ
phận nghiên cứu nhân sự của IBM Châu Âu, đã lấy một cơ sở dữ liệu về điểm số do
các cuộc khảo sát thái độ giữa các nhân viên của IBM trên toàn thế giới và phân tích
lại các hoạt động. Các khảo sát đã được phát triển như một công cụ quản lý để kiểm
4
- tra các vấn đề liên quan đến tình hình công việc (được xác định trước thông qua các
cuộc phỏng vấn với nhân viên).
II. CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN & CHỦ NGHĨA TẬP THỂ
1. Cá nhân và tập thể trong xã hội :
Nguồn gốc của sự khác biệt giữa các nền văn hóa này là một vấn đề cơ bản trong xã
hội loài người đó là vai trò của cá nhân so với vai trò của nhóm.
Đại đa số mọi người trên thế giới của chúng ta sống trong các xã hội mà lợi ích của
nhóm chiếm ưu thế so với lợi ích của cá nhân,theo Wewill gọi đó là xã hội tập thể.
Nó không đề cập đến quyền lực của nhà nước đối với cá nhân; mà đề cập đến sức
mạnh của nhóm
Nhóm đầu tiên trong cuộc sống của chúng ta đề cập đến là gia đình nơi mà chúng ta
được sinh ra.Theo cấu trúc gia đình: một đứa trẻ lớn lên không chỉ ở với cha
mẹ,những người anh em khác,mà còn có ông bà, chú bác, người giúp việc…. người ta
gọi là gia đình mở rộng. Giữa người và người trong nhóm, mối quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau phát triển cả về thực tiễn và tâm lý. Họ luôn nghĩ đến lợi ích của nhóm, khi
làm mọt việc nào đó đều cần thông qua ý kiến của một nhóm người và họ xem đó là
một yếu tố hiển nhiên chứ không mang ý nghĩa ép buộc.
Một nhóm khác mà người thiểu số trong thế giới của chúng ta sống trong các xã hội
mà các cộng đồng của cá nhân chiếm ưu thế so với lợi ích của nhóm, xã hội đó được
gọi là chủ nghĩa cá nhân. Ở đó một đứa trẻ sinh ra chỉ sống với cha mẹ và những
người anh em , người ta gọi đó là gia đình hạt nhân. Đứa trẻ được giáo dục lớn lên
trên đôi chân của mình, sớm học cách nghĩ về bản thân mình nhiều hơn, ví dụ Mỹ là
một xã hội điển hình cho chủ nghĩa cá nhân, đến một độ tuổi trưởng thành người con
sẽ thoát ra khỏi gia đình của họ và tự lập, giảm các mối quan hệ với cha mẹ hoặc có
thể phá vỡ hoàn toàn .
2. Đo lường mức độ của chủ nghĩa cá nhân trong xã hội:
Phương pháp để xác định mức độ của chủ nghĩa cá nhân được Geert Hofstede sử
dụng đó là: ông đã đặt câu hỏi cho những người được phỏng vấn về mục đích làm
việc của họ (work goal). Câu hỏi như thế này : Xin cho biết những yếu tố nào là
5
- quan trọng đối với bạn trong một việc làm lý tưởng ? . Sau đó m ỗi mục được tính
theo thang điểm từ 1 (cực kỳ quan trọng đối với tôi) đến 5 (rất ít hoặc không quan
trọng) để đánh giá mức độ quan trọng.
Kết quả là : Đối với những người theo chủ nghĩa cá nhân: Các yếu tố sau đây họ cho
là quan trọng với họ:
1) Thời gian cá nhân : một công việc nào đó cho bạn có thời gian dành cho cuộc
sống riêng tư hay gia đình.
2) Tự do: có tự do đáng kể trong việc áp dụng phương pháp làm việc riêng của
mình
3) Thách thức: có được công việc mang tính thử thách để mình có cảm nhận riêng
về sự hoàn thành.
Lý do có thể hiểu là: Các tiêu chí thời gian cá nhân, tự do và công việc thách thức cá
nhân đều nhấn mạnh tính độc lập của nhân viên đối với tổ chức, vì thế cho biết
người chọn ba tiêu chí này thiên về chủ nghĩa cá nhân.
Những người thuộc về chủ nghĩa tập thể cho cá yếu tố sau là quan trọng :
4) Đào tạo: công việc nào đó giúp bạn có cơ hội được nâng cao tay nghề hay được
học một nghề mới.
5) Những điều kiện thể chất: có điều kiện làm việc tốt cho thể chất (thông gió,
quạt mát, không gian làm việc đầy đủ…).
6) Sử dụng kỹ năng: sử dụng đầy đủ kỹ năng, năng lực của bản thân trong công
việc.
Lý do có thể hiểu là: Ba tiêu chí này lại cho thấy đề cập đến những điều mà tổ chức
làm cho nhân viên và theo cách này nhấn mạnh sự phụ thuộc của nhân viên vào điều
kiện của tổ chức mà họ xem là lý tưởng của 1 công việc,và người chọn ba tiêu chí
này thiên về chủ nghĩa tập thể.
Nhưng một hệ quả khác có liên quan đến phương diện này có thể rút ra: Đó là các
nước thiên về chủ nghĩa cá nhân thường giàu có, còn các nước thiên về chủ nghĩa tập
thể thường nghèo. Vì lẽ, ở các nước giàu có, chuyện đào tạo, điều kiện vật chất cho
công việc hay sử dụng kỹ năng là chuyện mặc nhiên, không được đặt ra một cách ráo
6
- riết. Còn tại các nước nghèo, chúng không phải là chuyện mặc nhiên mà là dấu hiệu
phân biệt công việc tốt với công việc không tốt, nên có tầm quan trọng lớn.
Một ví dụ điển hình cho kết luận này ta thấy chỉ số IDV của Thụy Điển(71), Ả Rập
Xê Út(38), Hoa Kỳ(91), Việt Nam(20), tuy nhiên đây chỉ là theo phần lớn vì ở một số
quốc gia như Trung Quốc (20) hay Nhật Bản(46) có chỉ số IDV thấp và trung bình
như vẫn thuộc các quốc gia phát triển.
3. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể trong khảo sát giá trị thế
giới: chủ nghĩa phổ quát với chủ nghĩa khép kín
Một phương pháp khác để đo đạc con người theo cá nhân hay tập thể đó là việc xem
xét các mối quan hệ giữa nội nhóm và ngoại nhóm. Các nền văn hóa thiên về chủ
nghĩa tập thể sẽ thiên về quan hệ nội nhóm, khép kín, có khuynh hướng văn hóa đối
xử với con người trên cơ sở thuộc tính nhóm và dành cho người trong nhóm, người
thân, bạn bè những quyền lợi ưu đãi trong khi gạt bỏ người khác nhóm kể cả xứng
đáng. Trong khi cố gắng đạt được mối quan hệ hài hòa trong nội nhóm, nền văn hóa
chủ nghĩa tập thể lại thờ ơ, lạnh nhạt, thậm chí có thể tàn nhẫn, thù địch với những
người khác nhóm.
Một ví dụ điển hình cho vấn đề này là văn hóa làng xã tại Việt Nam, ở miền bắc
nước ta có sự phân biệt giữa làng này với làng kia bằng giọng nói, bằng thành hoàng
làng, bằng lễ tục riêng, hương ước riêng, quan niệm sống “ta về ta tắm ao ta”, trai
làng thù địch, xung đột với trai làng khác trong chuyện hôn nhân, tình yêu... Văn hóa
tập thể chủ nghĩa từ nội nhóm nhỏ (gia đình, làng xã ) mở rộng thành nội nhóm lớn
(các hội đồng hương huyện, tỉnh, vùng, miền cho những người đi xa). Trái lại, trong
các nền văn hóa thiên về chủ nghĩa cá nhân, việc ứng xử với con người dựa trên cơ
sở đó là một con người cá nhân bất kể người đó thuộc nhóm nào. Nhà nghiên cứu
người Bungary Minsho gọi đó là “chủ nghĩa phổ quát” (universalism) và đặt tên cho
chủ nghĩa tập thể là chủ nghĩa loại trừ (exclusionism).
Tuy nhiên mối tương quan giữa loại trừ và chủ nghĩa cá nhân là mạnh mẽ nhưng
không hoàn hảo ta có thể thấy khi so sánh bảng xếp hạng của bốn mươi mốt quốc
gia từ cơ sở dữ liệu của IBM về chủ nghĩa cá nhân và về loại trừ tìm thấy sáu quốc
gia có số điểm phổ quát hơn đáng kể so với dự đoán dựa trên điểm số IDV của họ:
7
- Colombia, Venezuela, Peru, Slovenia, Phần Lan và Thụy Điển. Văn hóa của họ theo
dữ liệu WVS của họ cởi mở hơn với các thành viên ngoài nhóm hơn dự kiến. Năm
quốc gia khác đạt điểm loại trừ nhiều hơn so với dự đoán điểm IDV của họ: Ấn Độ,
Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran và Philippines. Nền văn hóa của họ có nhiều thù địch với các
thành viên ngoài nhóm hơn dự kiến.
4. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể trong các nghiên cứu xuyên
quốc gia khác
Ngoài nghiên cứu của Hofstede thì cũng có nhiều cuộc nghiên cứu khác liên quan đến
chủ nghĩa tập thểcá nhân được thực hiện có giá trị tương tự như : cuộc khảo sát giá
trị tại Trung Quốc được Bond thực hiện với sinh viên ở 23 quốc gia (kẻ cái bảng câu
trả lời của sinh viên) đã cho thấy trong xã hội cá nhân, mối quan hệ với người khác
không rõ ràng và được sắp xếp trước; họ là tự nguyện và phải được bồi dưỡng cẩn
thận. Các giá trị ở cực cá nhân của chiều kích tích hợp mô tả các điều kiện cho mối
quan hệ tự nguyện lý tưởng. Và theo nghiên cứu đó thì trong xã hội tập thể, không
cần thiết phải có những mối quan hệ bạn bè cụ thể: ai là bạn bè của một người khác
được xác định trước bởi một gia đình hay một thành viên nhóm tàu. Mối quan hệ gia
đình được duy trì bởi lòng hiếu thảo và sự khiết tịnh ở phụ nữ và gắn liền với lòng
yêu nước.
Ngoài ra còn có ba cơ sở dữ liệu giá trị xuyên quốc gia khác như : cơ sở dữ liệu của
Schwartz, GLOBE và Trompenaars. Tất cả ba kích thước hoặc danh mục có tương
quan mạnh với IDV
5. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể một hay hai chiều?
Một câu hỏi thường gặp là liệu có đúng khi coi chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập
thể là hai cực đối lập cùng chiều không. Họ có nên xem họ như hai chiều không?
Câu trả lời là nó phụ thuộc vào việc chúng ta so sánh toàn bộ xã hội (đó là những gì
cuốn sách của chúng ta nói về) hoặc các cá nhân trong xã hội. Điều này được gọi là
mức độ của vấn đề phân tích.
Các xã hội bao gồm rất nhiều thành viên cá nhân, nắm giữ nhiều giá trị cá nhân. Các
thử nghiệm đã chỉ ra rằng một người có thể đạt điểm cao về cả giá trị cá nhân và tập
thể, cao về loại này và thấp trên loại khác hoặc thấp trên cả hai. Vì vậy, khi chúng ta
8
- so sánh các giá trị của cá nhân, chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể nên được coi
là hai chiều riêng biệt
Khi chúng ta nghiên cứu xã hội, chúng ta so sánh hai loại dữ liệu: điểm giá trị trung
bình của các cá nhân trong mỗi xã hội và đặc điểm của xã hội là toàn bộ, bao gồm cả
các tổ chức của họ.
Nghiên cứu của chúng tôi và bởi những người khác đã chỉ ra rằng trong các xã
hội mà mọi người trung bình nắm giữ nhiều giá trị cá nhân hơn, họ cũng trung
bình nắm giữ ít giá trị tập thể hơn. Cá nhân có thể khác với mô hình này,
nhưng những người khác biệt ít hơn những người phù hợp với nó. Các tổ
chức của các xã hội như vậy phản ánh thực tế rằng họ phát triển hoặc được
thiết kế chủ yếu để phục vụ cho những người theo chủ nghĩa cá nhân.
Trong các xã hội trong đó những người trung bình nắm giữ nhiều giá trị tập
thể hơn, họ cũng ở độ tuổi trung bình nắm giữ ít giá trị cá nhân hơn. Các tổ
chức của các xã hội như vậy cho rằng mọi người chủ yếu là tập thể.
Do đó, ở cấp độ xã hội (hoặc quốc gia), chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể xuất
hiện như hai cực đối lập của một chiều. Vị trí của một quốc gia trên khía cạnh này
cho thấy giải pháp xã hội cho một vấn đề nan giải phổ quát: sức mạnh mong muốn
của các mối quan hệ của một người trưởng thành với (các) nhóm mà họ xác định.
6. Chủ nghĩa tập thể với khoảng cách quyền lực
Nhiều quốc gia đạt điểm cao về chỉ số khoảng cách quyền lực đạt điểm thấp về chỉ
số chủ nghĩa cá nhân và ngược lại
9
- Nói cách khác, hai chiều có xu hướng tương quan ngược nhau: các quốc gia có
khoảng cách quyền lực lớn cũng có khả năng tập thể hơn và các quốc gia có khoảng
cách quyền lực nhỏ sẽ theo chủ nghĩa cá nhân hơn
Trong các nền văn hóa mà mọi người phụ thuộc vào các nhóm, những người này
thường phụ thuộc vào số liệu sức mạnh. Hầu hết các gia đình mở rộng có cấu trúc
gia trưởng, với người đứng đầu gia đình thực thi quyền lực đạo đức mạnh mẽ.
Trong các nền văn hóa mà mọi người độc lập tương đối với các nhóm, họ thường ít
phụ thuộc vào những người mạnh mẽ khác
Tuy nhiên, có những trường hợp ngoại lệ. Các nước châu Âu Latinh, và đặc biệt là
Pháp và Bỉ, đã kết hợp khoảng cách quyền lực trung bình với chủ nghĩa cá nhân
mạnh mẽ.
10
- Mô hình đảo ngược, khoảng cách quyền lực nhỏ kết hợp với chủ nghĩa tập thể trung
bình, đã được tìm thấy ở Áo và Israel, và khoảng cách quyền lực khá nhỏ được kết
hợp với chủ nghĩa tập thể mạnh mẽ ở Costa Rica. Costa Rica, một trong sáu nước
cộng hòa Trung Mỹ, được công nhận rộng rãi là một ngoại lệ đối với quy tắc phụ
thuộc của Mỹ Latinh vào các nhà lãnh đạo quyền lực, mà trong tiếng Tây Ban Nha
được gọi là Personalismo. Costa Rica không có một đội quân chính thức. Nó được mô
tả là nền dân chủ Latinh Latin, bắt nguồn từ nền dân chủ vững chắc nhất, mặc dù có
sự nghèo đói tương đối so với các nền kinh tế thị trường công nghiệp trên thế giới.
Trong một so sánh giữa Costa Rica và nước láng giềng Nicaragua lớn hơn nhưng
nghèo hơn nhiều, chuyên gia phát triển của Hoa Kỳ Lawrence E. Harrison đã viết:
Có nhiều bằng chứng cho thấy người Costa Rico đã cảm thấy một sự ràng buộc
mạnh mẽ hơn với những người đồng hương của họ hơn là người Nicaragu. Sự ràng
buộc đó được phản ánh trong sự nhấn mạnh lâu dài của Costa Rica về giáo dục công
cộng và sức khỏe cộng đồng; trong phong trào hợp tác mạnh mẽ hơn của nó; trong
một hệ thống tư pháp đáng chú ý theo tiêu chuẩn Mỹ Latinh vì sự vô tư và tuân thủ
các khái niệm cơ bản của quá trình đáo hạn; và trên hết là khả năng phục hồi của
chính trị, khả năng tìm giải pháp hòa bình, đánh giá cao nhu cầu thỏa hiệp.
Các trường hợp như Pháp và Costa Rica biện minh cho việc coi khoảng cách quyền
lực và chủ nghĩa tập thể là hai chiều riêng biệt, mặc dù thực tế là đối với hầu hết
các quốc gia họ đi cùng nhau. Một lý do cho mối tương quan giữa chúng là cả hai
đều gắn liền với một yếu tố thứ ba: của cải quốc gia. Nếu tài sản quốc gia không
đổi (nghĩa là, nếu các nước giàu chỉ được so sánh với những người giàu và chỉ nghèo
với những người nghèo), thì mối quan hệ sẽ yếu đi đáng kể.
So sánh giữa kết quả nghiên cứu của IBM và các nghiên cứu khác hỗ trợ sự khác biệt
giữa khoảng cách quyền lực và chủ nghĩa tập thể. Các nghiên cứu đối phó với sự bất
bình đẳng cho thấy kết quả tương quan với khoảng cách quyền lực hơn so với chủ
nghĩa cá nhân chủ nghĩa tập thể và các nghiên cứu liên quan đến sự hợp nhất của
các cá nhân thành các nhóm cho thấy kết quả tương quan với chủ nghĩa tập thể hơn
so với khoảng cách quyền lực.
11
- III. SO SÁNH CHỦ NGHĨA TẬP THỂ VÀ CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN
TRÊN TỪNG LĨNH VỰC
1. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể theo nghề nghiệp
Một tranh luận nữa ủng hộ cho việc phân biệt khoảng cách quyền lực với chủ nghĩa
tập thể là các chỉ số khoảng cách quyền lực có thể được tính toán không chỉ cho các
quốc gia mà còn cho các nghề nghiệp, các chỉ số riêng lẻ chỉ có thể được tính cho các
quốc gia, không phải cho nghề nghiệp.
Khi so sánh cách mọi người trong các ngành nghề khác nhau trả lời mười bốn câu
hỏi về mục tiêu công việc mà IDV được tính toán, câu trả lời của họ không thể được
phân loại theo chủ nghĩa cá nhân hay tập thể. Ví dụ, trong các ngành nghề khác nhau,
tầm quan trọng của thách thức và tầm quan trọng của việc sử dụng các kỹ năng đi
đôi với nhau, trong khi ở các quốc gia khác biệt thì chúng đối lập nhau. Trên khắp các
ngành nghề, khi thời gian cá nhân được đánh giá là quan trọng hơn, thách thức có xu
hướng ít quan trọng hơn, trong khi giữa các quốc gia, hai quốc gia củng cố lẫn nhau.
Một cặp thuật ngữ có thể được sử dụng để phân biệt nghề nghiệp là nội tại so với
bên ngoài. Những từ này đề cập đến những gì thúc đẩy mọi người trong một công
việc, bản thân công việc (công việc thúc đẩy nội tại) hoặc các điều kiện và phần
thưởng bạn đời được cung cấp (công việc thúc đẩy bên ngoài). Sự khác biệt này đã
được phổ biến vào cuối những năm 1950 thông qua nghiên cứu về động lực làm việc
của nhà tâm lý học người Mỹ Frederick Herzberg và nhóm của ông, người lập luận
rằng các yếu tố nội tại là những yếu tố thúc đẩy thực sự của người dùng, trong khi
những người bên ngoài đại diện cho tâm lý vệ sinh của công việc. Những người
trong các ngành nghề đòi hỏi giáo dục nhiều hơn có xu hướng ghi điểm các yếu tố
nội tại là quan trọng hơn, trong khi những người có địa vị thấp hơn, nghề nghiệp
giáo dục thấp hơn trước các yếu tố bên ngoài. Sự khác biệt nội tại bên ngoài, trong
khi hữu ích để phân biệt văn hóa nghề nghiệp, đến lượt nó không phù hợp để so sánh
các quốc gia.
2. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể trong gia đình
Ở đầu chương này, chủ nghĩa cá nhân gắn liền với cấu trúc gia đình hạt nhân và chủ
nghĩa tập thể với cấu trúc gia đình mở rộng, sau này dẫn đến sự phân biệt giữa nhóm
12
- trong và nhóm ngoài. Mối quan hệ giữa cá nhân và nhóm, cũng như các yếu tố cơ bản
khác của văn hóa con người, trước tiên được học trong môi trường gia đình. Thực tế
là Nhật Bản đạt được một nửa trong Bảng 4.1 (với thứ hạng 35 Dòng 37 và IDV là
46) ít nhất có thể được hiểu một phần từ thực tế là trong gia đình truyền thống Nhật
Bản, chỉ có con trai lớn nhất tiếp tục sống với cha mẹ, do đó tạo ra một cấu trúc
lineal (dòng dõi chính thống hay trực hệ) ở đâu đó giữa hạt nhân và mở rộng.
Đứa trẻ lớn lên giữa một số người lớn tuổi, bạn cùng trang lứa và đàn em học cách
tự nhiên để quan niệm về bản thân mình như một phần của một gia đình chúng tôi,
một đứa trẻ trong gia đình hạt nhân. Một đứa trẻ của một đại gia đình hiếm khi một
mình, cho dù vào ban ngày hay ban đêm.
Trong tình huống tiếp xúc xã hội căng thẳng và liên tục, việc duy trì sự hòa hợp với
môi trường xã hội của một người trở thành một đức tính quan trọng mở rộng sang
các lĩnh vực khác ngoài gia đình. Trong hầu hết các nền văn hóa tập thể, đối đầu trực
tiếp với người khác được coi là thô lỗ và không mong muốn. Từ NO hiếm khi được
sử dụng, bởi vì nói rằng NO NO là một cuộc đối đầu; Bạn có thể đúng, và chúng tôi
sẽ nghĩ về nó, đó là những ví dụ về cách từ chối một yêu cầu lịch sự. Trong cùng
một suy nghĩ, từ có nên không được suy ra như một sự chấp thuận, vì nó được sử
dụng để duy trì đường dây liên lạc: Có, tôi nghe nói bạn có nghĩa là nó có nghĩa ở
Nhật Bản.
Mặt khác, trong các nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân, nói sự thật là một đức tính
tốt. Nói sự thật về cách người ta cảm nhận là đặc điểm của một người chân thành
và trung thực. Đối đầu có thể là mặn mà; một cuộc xung đột ý kiến được cho là dẫn
đến một sự thật cao hơn. Hiệu quả của truyền thông đối với người khác nên được
tính đến, nhưng theo quy định, nó không biện minh cho việc thay đổi sự thật. Các cá
nhân trưởng thành có thể nhận phản hồi trực tiếp theo cấu trúc. Trong gia đình, trẻ
em được hướng dẫn rằng người ta phải luôn luôn nói sự thật, ngay cả khi điều đó
làm tổn thương. Đối phó với xung đột là một phần bình thường của việc sống chung
như một gia đình.
Trong gia đình tập thể, trẻ em học cách lấy vòng bi của mình từ người khác khi có ý
kiến. Ý kiến cá nhân không tồn tại: ý kiến được xác định trước bởi nhóm. Nếu một
13
- vấn đề mới được đưa ra mà không có ý kiến nhóm được thiết lập, một số loại hội
nghị gia đình là cần thiết trước khi có thể đưa ra ý kiến. Một đứa trẻ liên tục lên
tiếng về những ý kiến đi chệch khỏi những gì được cảm nhận chung được coi là có
một đặc tính xấu. Trong gia đình cá nhân, ngược lại, trẻ em được mong đợi và
khuyến khích phát triển ý kiến của riêng mình, và một đứa trẻ luôn chỉ phản ánh ý
kiến của người khác được coi là có tính cách yếu. Hành vi tương ứng với một nhân
vật mong muốn phụ thuộc vào môi trường văn hóa.
Lòng trung thành với nhóm là một yếu tố thiết yếu của tập thể gia đình cũng có
nghĩa là tài nguyên được chia sẻ. Nếu một thành viên của một phần mở rộng gia đình
hai mươi người có một công việc được trả lương còn những người khác thì không,
thành viên kiếm tiền được cho là chia sẻ thu nhập của mình để giúp nuôi sống cả gia
đình. Trên cơ sở nguyên tắc này, một gia đình có thể cùng nhau trang trải chi phí cho
việc gửi một thành viên để có được học vấn cao hơn, hy vọng rằng khi thành viên
này sau đó có được một công việc được trả lương cao, thu nhập cũng sẽ được chia
sẻ.
Trong các nền văn hóa cá nhân, cha mẹ sẽ tự hào nếu trẻ em ngay từ nhỏ có những
công việc nhỏ để kiếm tiền tiêu vặt của chính mình, mà một mình chúng có thể
quyết định cách chi tiêu. Ở Hà Lan, cũng như nhiều quốc gia Tây Âu khác, chính phủ
đóng góp đáng kể vào chi phí sinh hoạt của sinh viên. Vào những năm 1980, hệ thống
đã được thay đổi từ trợ cấp cho phụ huynh sang trợ cấp trực tiếp cho chính học sinh,
điều này nhấn mạnh sự độc lập của họ. Nam và nữ được đối xử như những diễn
viên kinh tế độc lập từ mười tám tuổi trở đi. Ở Hoa Kỳ, thông thường sinh viên phải
trả tiền cho việc học của mình bằng cách nhận các công việc tạm thời và các khoản
vay cá nhân; không có sự hỗ trợ của chính phủ, họ cũng ít phụ thuộc vào cha mẹ và
không phụ thuộc vào họ hàng xa hơn.
Trong các nền văn hóa cá nhân, hầu hết trẻ em mong đợi và được mong đợi sẽ rời
khỏi nhà của cha mẹ và sống một mình khi chúng bắt đầu học lên cao. Trong các nền
văn hóa tập thể, đây là trường hợp ít hơn. Dữ liệu khảo sát bằng đồng hồ đo áp suất
trên mười chín quốc gia thuộc Liên minh châu Âu tương đối giàu có cho thấy rằng
những người trẻ tuổi có sử dụng lý lẽ mà Google có thể đủ khả năng để chuyển ra
14
- khỏi phạm vi hay không là vấn đề của tập thể chứ không phải của cải quốc gia! Lập
luận kinh tế thường hợp lý hóa các giá trị văn hóa.
Nghĩa vụ đối với gia đình trong một xã hội tập thể không chỉ là tài chính mà còn là
nghi thức. Các lễ kỷ niệm và quan sát gia đình như lễ rửa tội, hôn nhân và đặc biệt là
đám tang là vô cùng quan trọng và không nên bỏ qua. Các nhà quản lý nước ngoài từ
các xã hội cá nhân thường ngạc nhiên bởi những lý do gia đình được đưa ra bởi các
nhân viên từ một xã hội chủ nhà tập thể, những người xin nghỉ phép đặc biệt; người
nước ngoài nghĩ rằng họ đang bị lừa, nhưng rất có thể lý do là xác thực.
Trong một nền văn hóa cá nhân, khi mọi người gặp nhau, họ cảm thấy cần phải giao
tiếp bằng miệng. Im lặng được coi là bất thường. Các cuộc trò chuyện xã hội có thể
bị cấm một cách chán nản, nhưng chúng là bắt buộc.. Trong một nền văn hóa tập
thể, thực tế ở bên nhau là đủ cảm xúc; không bắt buộc phải nói chuyện trừ khi có
thông tin cần chuyển.
Dữ liệu khảo sát Eurobarometer cho mười chín quốc gia châu Âu giàu có cho thấy sự
khác biệt đáng chú ý về mức độ mà mọi người yêu cầu đến thăm một người nổi
tiếng hoặc quán bar hàng ngày: trong các nền văn hóa tập thể hơn, hình thức xã hội
này là bình thường hơn nhiều. Các nền văn hóa, mọi người thích gặp nhau ở nhà,
nếu có: Nhà tôi là lâu đài của tôi là một câu nói của cá nhân Anh.
Nhà nhân chủng học Hoa Kỳ và tác giả nổi tiếng Edward T. Hall (1914 cường2009)
đã phân biệt các nền văn hóa trên cơ sở cách họ giao tiếp dọc theo một chiều từ bối
cảnh cao đến bối cảnh thấp. Một giao tiếp bối cảnh cao là một trong đó ít có được
nói hoặc viết bởi vì hầu hết các thông tin là trong môi trường vật lý hoặc được cho là
của những người liên quan, trong khi rất ít trong phần mã hóa, rõ ràng của tin nhắn.
Kiểu giao tiếp này là thường xuyên trong các nền văn hóa tập thể; Chuyến thăm gia
đình của Hadjiwibowo là một ví dụ điển hình. Một giao tiếp ngữ cảnh thấp là một
trong đó khối lượng thông tin được trao cho mã rõ ràng, đặc trưng cho các nền văn
hóa cá nhân. Rất nhiều điều mà trong các nền văn hóa tập thể là hiển nhiên phải
được nói rõ ràng trong các nền văn hóa cá nhân. Hợp đồng kinh doanh của Mỹ dài
hơn nhiều so với hợp đồng kinh doanh của Nhật Bản.
15
- Cùng với sự hòa thuận, một khái niệm quan trọng khác liên quan đến gia đình tập thể
là sự xấu hổ. Các xã hội theo chủ nghĩa cá nhân đã được mô tả là các nền văn hóa tội
lỗi: những người vi phạm các quy tắc của xã hội thường sẽ cảm thấy có lỗi, bị thúc
đẩy bởi một lương tâm được phát triển cá nhân có chức năng như một phi công nội
bộ tư nhân. Trái lại, các xã hội tập thể lại là những kẻ xấu hổ: những người thuộc
một nhóm mà một thành viên đã vi phạm các quy tắc của xã hội sẽ cảm thấy xấu hổ,
dựa trên ý thức về sự lãng quên tập thể. Xấu hổ là bản chất xã hội, trong khi tội lỗi
là cá nhân; sự xấu hổ có được cảm nhận hay không phụ thuộc vào việc hành vi xâm
phạm có được người khác biết hay không. Điều này trở nên nổi tiếng là một nguồn
gốc của sự xấu hổ hơn là sự xâm phạm. Đó không phải là trường hợp cho cảm giác
tội lỗi, mà người ta cảm thấy liệu hành vi sai trái đó có được người khác biết hay
không.
Một khái niệm nữa được nhân giống trong gia đình tập thể là khuôn mặt. Mặt mất
mặt, trong ý nghĩa bị sỉ nhục, là một biểu hiện thâm nhập vào ngôn ngữ tiếng Anh từ
tiếng Trung Quốc; Tiếng Anh không có tương đương với nó. David YauFai Ho, một
nhà khoa học xã hội Hồng Kông, đã định nghĩa nó như sau: Mặt bị mất khi cá nhân,
do hành động của anh ta hoặc của những người có liên quan mật thiết với anh ta,
không đáp ứng các yêu cầu thiết yếu được đặt ra bởi anh ta về vị trí xã hội mà anh ta
chiếm giữ. Người Trung Quốc cũng nói về việc mang lại cho ai đó khuôn mặt, về ý
nghĩa danh dự hay uy tín. Về cơ bản, khuôn mặt mô tả mối quan hệ đúng đắn với
một môi trường xã hội, một điều rất cần thiết đối với một người (và người đó là gia
đình của họ) như là phần trước của đầu người đó. Tầm quan trọng của khuôn mặt là
hệ quả của việc sống trong một xã hội rất ý thức về bối cảnh xã hội. Ngôn ngữ của
các nền văn hóa tập thể khác có các từ có nghĩa ít nhiều giống nhau. Ở Hy Lạp, ví
dụ, có một từ philotimo; Harry Triandis, một nhà tâm lý học người Mỹ gốc Hy Lạp,
đã viết:
Một người là philotimos đến mức anh ta tuân thủ các quy tắc và giá trị trong nhóm
của mình. Chúng bao gồm nhiều sự hy sinh khác nhau được chấp thuận cho các
thành viên của một gia đình, bạn bè và những người khác, những người có liên quan
đến một mối quan hệ với một người khác ví dụ, để một người đàn ông trì hoãn hôn
nhân cho đến khi các chị gái của anh ta kết hôn và được cung cấp của hồi môn thích
16
- hợp là một phần của những kỳ vọng chuẩn mực của người Hy Lạp nông thôn truyền
thống cũng như người Ấn Độ ở nông thôn (và nhiều người ở giữa).
Trong xã hội cá nhân, đặc tính đối tác là tự tôn trọng, nhưng điều này một lần nữa
được xác định theo quan điểm của cá nhân, trong khi khuôn mặt và philotimo được
xác định theo quan điểm của môi trường xã hội.
Các xã hội tập thể thường có cách tạo ra mối quan hệ giống như gia đình với những
người không phải là họ hàng sinh học nhưng được hòa nhập xã hội vào một nhóm
trong nhóm. Ví dụ, ở Mỹ Latinh, điều này có thể được thực hiện thông qua tổ chức
của những người đồng đội và những người đồng đội được coi là họ hàng ngay cả
khi họ không. Tổ chức của các bố già và mẹ đỡ đầu, vốn có truyền thống mạnh mẽ
ở các quốc gia Công giáo và Chính thống ở châu Âu, là một ví dụ khác. Ở Nhật Bản,
những đứa con trai nhỏ trong thời gian qua đã trở thành người học việc cho các bậc
thầy thủ công thông qua hình thức nhận con nuôi. Phong tục tương tự tồn tại ở trung
tâm châu Âu.
Bởi vì những người trong xã hội tập thể phải tôn trọng ý kiến của người thân của
họ, lựa chọn bạn đời là một sự kiện quan trọng, không chỉ đối với các đối tác mà còn
cho cả gia đình của họ. David Buss người Mỹ đã điều phối một nghiên cứu khảo sát
về các tiêu chí để lựa chọn một đối tác hôn nhân tiềm năng. Những người được hỏi
của ông bao gồm gần mười nghìn phụ nữ và nam giới trẻ tuổi, với độ tuổi trung bình
là hai mươi ba, từ ba mươi bảy người. Đặc điểm mong muốn trên toàn cầu của cả
cô dâu và chú rể là tình yêu, lòng tốt, sự ổn định về cảm xúc, trí thông minh và sức
khỏe. Các đặc điểm khác nhau giữa cô dâu và chú rể và trên khắp các quốc gia. Sự
khác biệt quốc gia chủ yếu liên quan đến chủ nghĩa cá nhân. Ở các nước tập thể, các
cô dâu thích chú rể trẻ hơn, và họ càng căng thẳng hơn về việc họ giàu có, cần cù và
trong sạch. Các cô dâu ở các nước theo chủ nghĩa tập thể muốn chú rể của họ già
hơn và giàu có hơn, nhưng chú rể siêng năng đối với họ đóng một vai trò nhỏ hơn, và
chú rể không hề hiền lành.
Tuy nhiên, các cô dâu chú rể khao khát sự trong trắng trong các cô dâu của họ, phụ
thuộc nhiều hơn vào các quốc gia nghèo đói hơn là chủ nghĩa tập thể của họ. Sự
sung túc ngày càng tăng mang đến cho phụ nữ nhiều cơ hội giáo dục hơn (trong bất
17
- kỳ xã hội nào, khi giáo dục bắt đầu có sẵn, cha mẹ ưu tiên cho con trai, những người
không cần thiết quanh nhà). Các cô gái bắt đầu di chuyển tự do hơn và có nhiều cơ
hội gặp gỡ các chàng trai. Mọi người có nhiều không gian sống và riêng tư. Chăm sóc
y tế và phổ biến thông tin cải thiện, bao gồm bí quyết về biện pháp tránh thai.
Những người trẻ tuổi có nhiều cơ hội hơn để khám phá tình dục, và các chuẩn mực
tình dục thích nghi với tình huống này.
Sự căng thẳng đối với các cô dâu chăm chỉ, giàu có và khiết tịnh xã hội giảng viên là
hệ quả của thực tế rằng hôn nhân là một hợp đồng giữa các gia đình, không phải cá
nhân. Cô dâu và chú rể có thể ít nói trong việc lựa chọn đối tác. Điều này không có
nghĩa là những cuộc hôn nhân như vậy là ít hạnh phúc. Nghiên cứu ở Ấn Độ đã cho
thấy sự hài lòng trong hôn nhân được sắp xếp nhiều hơn so với trong hôn nhân tình
yêu và nhiều hơn trong các cuộc hôn nhân tình yêu Ấn Độ hơn là trong các cuộc hôn
nhân có thể. Trong khi chủ nghĩa cá nhân văn hóa thúc đẩy việc định giá tình yêu theo
kiểu La Mã, nó có thể khiến việc phát triển sự thân mật trở nên có vấn đề. Trong
một cuộc khảo sát về vai trò của tình yêu trong hôn nhân, được trả lời bởi các sinh
viên đại học nam và nữ ở mười một quốc gia, một câu hỏi là: (phụ nữ) có tất cả
những phẩm chất khác mà bạn mong muốn, bạn sẽ kết hôn với người này nếu bạn
không yêu anh ấy (cô ấy)? Các câu trả lời khác nhau tùy theo mức độ của chủ nghĩa
cá nhân trong mười một xã hội, từ 4 phần trăm có đúng và 86 phần trăm không có gì
ở Hoa Kỳ đến 50 phần trăm có đúng và 39 phần trăm không có gì ở Pakistan.32 Trong
các xã hội tập thể , những cân nhắc khác ngoài tình yêu nặng nề trong hôn nhân.
Vào năm 2005, một công ty nghiên cứu thị trường có trụ sở tại New York đã nghiên
cứu các tư tưởng về vẻ đẹp và hình ảnh cơ thể của các cô gái từ mười lăm đến
mười bảy tuổi, qua các cuộc phỏng vấn qua điện thoại tại các thành phố ở mười
quốc gia trên thế giới: Brazil, Canada, Trung Quốc, Đức , Vương quốc Anh, Ý, Nhật
Bản, Mexico, Ả Rập Saudi và Hoa Kỳ. Một câu hỏi đặt ra ai là người có ảnh hưởng
lớn nhất đến lý tưởng làm đẹp của họ. Trong các nền văn hóa tập thể, những người
trả lời thường được nhắc đến nhiều nhất là bạn gái của họ trong nhóm; trong các
nền văn hóa cá nhân, họ thường nhắc đến các chàng trai (nói chung)
BẢNG 4.2 :Sự khác biệt chính giữa các xã hội tập thể và cá nhân
I: Định mức chung và gia đình
18
- Chủ nghĩa tập thể Chủ nghĩa cá nhân
Mọi người được sinh ra trong các gia đình Mọi người đều lớn lên để chăm sóc
mở rộng hoặc trong các nhóm khác tiếp anh ấy hoặc cô ấy và gia đình (hạt
tục bảo vệ họ để đổi lấy lòng trung nhân) ngay lập tức của anh ấy hoặc cô
thành. ấy.
Trẻ em học cách suy nghĩ theo khía cạnh Trẻ em học cách suy nghĩ theo khía
của “chúng tôi” cạnh của “Tôi”
Các tiêu chuẩn giá trị khác nhau đối với Các tiêu chuẩn giá trị tương tự được
các nhóm trong và ngoài nhóm: loại trừ. cho là áp dụng cho tất cả mọi người:
chủ nghĩa phổ quát.
Sự hài hòa phải luôn được duy trì và tránh Nói sự thật là một đặc điểm của một
đối đầu trực tiếp. người trung thực
Tình bạn được xác định trước. Tình bạn là tự nguyện và cần được
bồi dưỡng.
Tài nguyên nên được chia sẻ với người Sở hữu cá nhân tài nguyên, ngay cả
thân. đối với trẻ em.
Trẻ em trưởng thành sống với cha mẹ. Người lớn rời khỏi nhà cha mẹ.
Truyền thông bối cảnh cao chiếm ưu thế. Truyền thông bối cảnh thấp chiếm ưu
thế.
Xã hội hóa thường xuyên ở những nơi Nhà của tôi là lâu đài của tôi.
công cộng.
Xâm phạm dẫn đến xấu hổ và mất mặt Xâm phạm dẫn đến mặc cảm và mất
cho bản thân và nhóm. tự trọng.
Cô dâu nên trẻ trung, cần cù và trong Tiêu chí cho các đối tác kết hôn không
sáng; Chú rể nên lớn tuổi. được xác định trước.
Ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến lý tưởng Ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến lý
làm đẹp của các cô gái là bạn gái. tưởng làm đẹp của các cô gái là con
trai nói chung.
3. Ngôn ngữ, tính cách và hành vi trong văn hóa cá nhân và tập thể
III.1 Ngôn ngữ
Trong các nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân, đòi hỏi người nói phải dùng đại từ
“tôi” khi nói chuyện. Còn các nền văn hóa theo chủ nghĩa tập thể cho phép bỏ hoặc
yêu cầu phải bỏ đại từ này.
19
- Đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất thường được sử dụng trong các ngôn ngữ Tây Âu
(Nơi có chỉ số IDV cao) trong thơ từ thời trung đại, trong khi đó một câu tục ngữ
Arập (Nơi có chỉ số IDV thấp) cùng thời nói “Cái Tôi ma quỷ phải bị nguyền rủa”.
Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa cho thấy sự khác biệt văn hóa có nguồn gốc
từ xa xưa, nên sự thay đổi này không thể nhanh chóng.
Nhà nhân chủng học người Mỹ gốc Hoa, ông Francis Hsu đã nhận xét thấy trong
ngôn ngữ Trung không có từ tương đương với từ personality trong tiếng Anh.
Personality trong tiếng Anh chỉ một thực thể riêng biệt là con người cá nhân. Bản
dịch gần nhất sang tiếng Trung là “ren” (“nhân”), từ này không những dùng để chỉ
cá nhân mà còn cả môi trường văn hóa, xã hội
Chủ nghĩa tập thể Chủ nghĩa cá nhân
Việc sử dụng đại từ “tôi” được phép bỏ Việc sử dụng từ “Tôi” được khuyến
qua. khích.
3.2 Tính cách
Nhiều nền văn hóa châu Á có quan niệm về tính cá nhân, nhấn mạnh vào mối quan
hệ thân thuộc cơ bản của các cá nhân với nhau, trong khi ở Mỹ, các cá nhân tìm cách
duy trì sự độc lập của họ với người khác bằng cách tập trung vào bản thân và bằng
cách khám phá và thể hiện nội tâm độc đáo của họ.
Nhà tâm lý học Hoa Kỳ Solomon E. Asch đã thiết kế một thí nghiệm để kiểm tra
mức độ mà các cá nhân sẽ tuân theo phán quyết của chính họ chống lại với đa số.
Đối tượng tin rằng mình là một thành viên của một nhóm người phải phán xét xem
dòng nào dài hơn giữa hai dòng. Và không biết rằng tất cả các thành viên khác trong
nhóm đang liên minh với người thí nghiệm và họ cố tình đưa ra cùng một câu trả lời
sai. Từ những năm 1950, thí nghiệm này đã được nhân rộng ở một số quốc gia. Thí
nghiệm đó cho thấy được, tỷ lệ đối tượng tuân thủ phán đoán sai có tương quan
nghịch với điểm số IDV của các quốc gia. Có nghĩa, số lượng đối tượng theo số
đông cao là ở các quốc gia có chỉ số cá nhân thấp; và số lượng đối tượng theo số
đông thấp là ở các quốc gia có chỉ số cá nhân cao.
Các nền văn hóa cá nhân khuyến khích một cái tôi độc lập, trong khi các nền văn hóa
tập thể khuyến khích một bản thân phụ thuộc lẫn nhau
20
nguon tai.lieu . vn