- Trang Chủ
- Kinh tế - Thương mại
- Tiểu luận môn Quá trình lưu thông Tư bản chủ nghĩa: Phân tích mối quan hệ giữa ba hình thái tuần hoàn - Ý nghĩa và định hướng vận dụng
Xem mẫu
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Lý luận tuần hoàn của tư bản được C.Mác nghiên cứu trong phần thứ nhất ở
quyển II của Bộ Tư bản, với tiêu đề: “Những biến hoá hình thái của tư bản và
tuần hoàn của những biến hoá hình thái ấy”. Trong phần này, C.Mác nghiên cứu
sự vận động của tư bản cá biệt. Trong sự vận động đó, tư bản lần lượt “mang”
những hình thái khác nhau: hình thái tiền; hình thái sản xuất; hình thái hàng hoá mà
nó “khoác lấy rồi lần lượt trút bỏ đi trong quá trình lặp lại sự tuần hoàn của
nó”1.
Đối tượng nghiên cứu của phần này cũng đã được C.Mác đề cập một cách rõ
ràng thông qua kết cấu gồm 6 chương. Ba chương đầu nghiên cứu ba hình thái
tuần hoàn của tư bản xét một cách riêng biệt. Chương IV tổng hợp lại nghiên cứu
sự vận động của tư bản trong sự thống nhất của cả ba hình thái tuần hoàn đó. Ở
bốn chương này, C.Mác áp dụng phương pháp trình bày đi từ trừu tượng tới cụ
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 46
1
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
thể, từ phân tích tới tổng hợp. Trong bốn chương đầu: sự vận động của tư bản
được phân tích qua các hình thái tuần hoàn, phân tích về mặt logic; chương V và
chương VI cũng phân tích sự vận động tuần hoàn của tư bản, nhưng từ một góc
độ khác, gần với thực tiễn, phân tích về mặt lịch sử hiện thực. Như vậy, vận
động hay tuần hoàn của tư bản được phân tích cả từ góc độ logic và lịch sử.
Nghiên cứu mỗi hình thái tư bản, mỗi hình thái tuần hoàn của tư bản một
cách độc lập – để làm sáng tỏ đặc điểm, tính chất độc đáo của tư bản trong mỗi
giai đoạn, trong mỗi quá trình vận động tuần hoàn của tư bản. Nhưng sau khi
nghiên cứu mỗi hình thái của tuần hoàn một cách riêng biệt, phải nghiên cứu tổng
hợp cả ba hình thái của tuần hoàn trong mối tương quan, liên hệ lẫn nhau giữa
chúng, để tìm ra được đặc điểm chung của các hình thái, vì mỗi hình thái tuần
hoàn vừa nêu lên đặc điểm, đặc thù của nó, vừa che giấu đặc điểm, đặc thù của
hình thái tuần hoàn khác. Đồng thời, thông qua quá trình tổng hợp, có thể hiểu
được một cách toàn diện đặc điểm tuần hoàn của tư bản. Việc nghiên cứu mối
quan hệ giữa ba hình thái tuần hoàn của tư bản có ý nghĩa hết sức quan trọng cả
về mặt lý luận lẫn thực tiễn, để từ đó có những định hướng vận dụng trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh hiện nay.
Trong phạm vi tiểu luận học phần Quá trình lưu thông Tư bản chủ nghĩa,
học viên thực hiện đề tài tiểu luận với chủ đề: “Phân tích mối quan hệ giữa ba
hình thái tuần hoàn. Ý nghĩa và định hướng vận dụng”.
2
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
PHẦN NỘI DUNG
I. TUẦN HOÀN CỦA TƯ BẢN
1. Khái niệm Tuần hoàn của tư bản
Lý luận tuần hoàn tư bản nghiên cứu hình thái vận động của tư bản, các
giai đoạn và các hình thái của tư bản trong quá trình vận động, tức nghiên cứu
mặt chất vận động của tư bản.
Tuần hoàn của tư bản nghiên cứu sự vận động của tư bản cá biệt. Trong
sự vận động của mình, tư bản lần lượt “mang” những hình thái khác nhau, mà
nó khác lấy rồi lại trút bỏ đi trong quá trình lặp lại sự tuần hoàn của nó. Sở dĩ,
nói tư bản là sự vận động bởi, giá trị tư bản luôn luôn khoác lấy hình thái này,
3
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
rồi trút bỏ đi để chuyển sang hình thái khác. Nhưng sự vận động của tư bản là
sự vận động vòng tròn và liên tục, những vòng tuần hoàn không ngừng nối tiếp
nhau. Vì vậy mỗi biến hóa hình thái tư bản có thể vừa là điểm bắt đầu, vừa là
điểm giữa, vừa là điểm kết thúc của quá trình vận động liên tục của tư bản và
quá trình vận động liên tục của tư bản đều phải trải qua ba hình thái. Đó là sự
vận động tuần hoàn của tư bản. Do đó, không những có ba hình thái của tư bản
mà còn có ba hình thái tuần hoàn của tư bản (mỗi hình thái tư bản đều vận động
tuần hoàn)
Ngoài ra, các hình thái tư bản không những nối tiếp nhau, mà còn tồn tại
bên cạnh nhau. Trong mỗi doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa, tư bản đồng thời vừa
tồn tại dưới hình thái tư bản tiền tệ, vừa dưới hình thái tư bản sản xuất, vừa
dưới hình thái tư bản hàng hóa. Tư bản tồn tại dưới các hình thức nói trên đều
đang ở trong trạng thái vận động, tức là đang trong quá trình tuần hoàn của nó.
Đồng thời, quá trình tuần hoàn của tư bản trải qua ba giai đoạn: hai giai đoạn
thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc lĩnh vực sản xuất và chúng
thống nhất với nhau, trong đó, lĩnh vực sản xuất giữ vai trò quyết định. Trong
mỗi giai đoạn, giá trị tư bản đều nằm trong một hình thái đặc thù tương ứng với
một chức năng nhất định. Trong sự vận động ấy, giá trị ứng trước không những
được bảo tồn, mà còn lớn lên, còn tăng thêm về lượng nữa và đến giai đoạn kết
thúc, giá trị ứng trước quay trở về chính ngay hình thái ban đầu của nó.
Như vậy, tuần hoàn của tư bản là quá trình vận động của tư bản trải qua
ba giai đoạn, mang ba hình thái, thực hiện ba chức năng, để rồi quay trở lại điểm
xuất phát ban đầu với giá trị không chỉ được bảo tồn mà còn lớn lên
2. Ba hình thái tuần hoàn của tư bản
2.1. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ
+ Công thức tuần hoàn của tư bản tiền tệ: T H... Sx ... H' T'
4
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
+ Đặc điểm của tuần hoàn tư bản tiền tệ :
Một là, điểm xuất phát là T và kết thúc là T' nói lên rằng: giá trị trao đổi chứ
không phải giá trị sử dụng, là mục đích tự thân quyết định sự vận động. Chính vì
vậy, tuần hoàn của tư bản tiền tệ biểu thị một cách rõ rệt nhất: động cơ, mục
đích của vận động tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, T đẻ ra t. Trong tuần hoàn
này, T là phương tiện ứng ra trong lưu thông, T' là mục đích đạt được trong lưu
thông, nên hình như lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn; còn sản xuất chỉ là một khâu
trung gian không thể tránh được, một "tai vạ" cần thiết để làm ra T.
Hai là, trong tuần hoàn này, giai đoạn sản xuất biểu hiện như một thủ đoạn
đơn thuần để làm cho giá trị ứng trước tăng thêm giá trị; do đó, làm giàu để làm
giàu là mục đích tự thân của việc sản xuất.
Ba là, trong tuần hoàn này, việc giá trị đẻ ra giá trị thặng dư (m) không
những biểu hiện ra thành điểm đầu và điểm cuối của quá trình, mà còn trực tiếp
biểu hiện ra dưới hình thái chói lọi của tiền nữa.
Bốn là, tuần hoàn T... T' không nói lên rằng: khi tuần hoàn được lặp lại, thì
lưu thông của t tách rời lưu thông của T. Vì thế, nếu chúng ta tách riêng một
vòng tuần hoàn của tư bản tiền tệ mà xét, thì về mặt hình thức, nó chỉ biểu hiện
quá trình tăng thêm giá trị và quá trình tích luỹ mà thôi. Như vậy, quá trình tuần
hoàn của tư bản là sự thống nhất giữa lưu thông và sản xuất. C.Mác khẳng định:
tư bản sinh ra trong lưu thông, đồng thời không sinh ra trong lưu thông.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái phiến diện nhất, che giấu nhất
quan hệ bóc lột TBCN; đồng thời nó là hình thái nổi bật nhất và đặc trưng nhất
trong các hình thái tuần hoàn của tư bản công nghiệp. Mục tiêu và động cơ của
tuần hoàn này: giá trị tăng thêm giá trị, T đẻ ra t trực tiếp bộc lộ ra. Do đó, tuần
hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái mang những đặc điểm chung của tuần hoàn
của tư bản công nghiệp. Nên nó là chìa khóa để hiểu tuần hoàn của các hình thái
5
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
khác. Mác viết “Vì vậy, tuần hoàn của tư bản tiền tệ là hình thái phiến diện
nhất, và chính do đó mà nó là hình thái nổi bật nhất và đặc trưng nhất trong các
hình thái của tuần hoàn của tư bản công nghiệp ; mục tiêu và động cơ của tuần
hoàn này – làm tăng thêm giá trị, làm ra tiền và tích lũy tiền – trực tiếp biểu lộ
ra trước mắt (mua để bán đắt hơn)”2. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ chỉ trở thành
hình thái đặc thù của tuần hoàn tư bản công nghiệp trong chừng mực một tư bản
mới hoạt động được ứng ra lúc ban đầu bằng T, sau đó thu về cũng dưới hình
thái T. Mác đưa ra một kết luận: “Chừng nào mà tuần hoàn của tư bản tiền tệ
bao giờ cũng bao hàm việc làm cho giá trị ứng trước tăng thêm giá trị, thì tuần
hoàn đó bao giờ cũng là biểu hiện chung của tư bản công nghiệp”3. Tuần hoàn
của tư bản tiền tệ có thể là tuần hoàn đầu tiên của một tư bản nhất định, có thể
là tuần hoàn cuối cùng, và nó có thể xem là hình thái của tổng tư bản xã hội.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ, mà kết quả là T' = T + t có cái bề ngoài làm
người ta dễ bị nhầm lẫn; nó mang một tính chất lừa dối, do chỗ giá trị ứng trước
đã tăng thêm, giá trị tồn tại ở đây dưới hình thái ngang giá của nó là T. Tuần
hoàn này không nhấn mạnh việc giá trị tăng thêm giá trị như thế nào? mà nhấn
mạnh hình thái tiền, một lượng T lớn hơn được rút ra từ lưu thông. Vì vậy, dễ
làm người ta lầm lẫn là lưu thông đẻ ra giá trị lớn hơn. Tuần hoàn của tư bản
tiền tệ lặp đi lặp lại không ngừng, thì trong nó đã bao hàm tuần hoàn của hình
thái tư bản khác.
2.2. Tuần hoàn của tư bản sản xuất
+ Công thức chung của tuần hoàn tư bản sản xuất: SX ... H' T' H ... SX
+ Đặc điểm của tuần hoàn tư bản sản xuất:
2 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 95
3 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 96
6
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
Một là, phản ánh sự hoạt động lặp đi lặp lại theo chu kỳ của tư bản sản
xuất.
Hai là, nó chỉ rõ tư bản hàng hóa từ quá trình sản xuất mà ra, là kết quả trực
tiếp của sản xuất, còn tư bản tiền tệ là kết quả của việc thực hiện tư bản hàng
hóa, đồng thời là phương tiện mua, chuẩn bị các yếu tố cho quá trình sản xuất
mới. Nghĩa là, tư bản tiền tệ chỉ làm môi giới cho tư bản hàng hóa chuyển hóa
thành tư bản sản xuất.
Ba là, tuần hoàn của tư bản sản xuất vạch rõ nguồn gốc của tư bản là quá
trình sản xuất mà ra. Nhưng nó không biểu thị việc sản xuất ra m. Dù là SX' hay
SX (mở rộng hay giản đơn) kết cục nó cũng chỉ xuất hiện dưới hình thái cần
thiết để làm chức năng tư bản sản xuất, thực hiện quá trình tái sản xuất, nó
không hề chỉ ra mục đích vận động của tư bản là làm tăng giá trị. Do đó, người
ta dễ lầm rằng mục đích của nó chỉ là sản xuất, có trao đổi cũng là trao đổi sản
phẩm để sản xuất được liên tục.
2.3. Tuần hoàn của tư bản hàng hóa
+ Công thức chung của tuần hoàn tư bản hàng hóa: H' T' H ... SX ... H'
+ Đặc điểm của tuần hoàn tư bản hàng hóa:
Một là, khác với các hình thái tuần hoàn trước, trong tuần hoàn của tư bản
hàng hóa: toàn bộ lưu thông với hai giai đoạn của nó mở đầu tuần hoàn.
Hai là, khi tuần hoàn I và II lặp lại, thì ngay cả khi những điểm kết thúc T'
và SX' là khởi điểm của tuần hoàn mới, người ta cũng không còn thấy hình thái
dưới đó T' và SX' đã được sản sinh ra. Còn tuần hoàn III thì điểm xuất phát bao
giờ cũng là H', dù là tái sản xuất giản đơn vì tuần hoàn của tư bản hàng hóa
không phải bắt đầu đơn thuần bằng một giá trị tư bản, mà bằng một giá trị tư
bản đã được tăng lên và nằm dưới hình thái H. Do đó, ngay từ đầu nó đã bao
hàm tuần hoàn không những của giá trị tư bản dưới hình thái hàng hóa, mà còn
7
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
bao hàm cả tuần hoàn của m nữa, tức ngay từ đầu nó đã biểu thị là hình thái của
sản xuất hàng hóa TBCN
Ba là, xuất phát là H', kết thúc cũng là H'. Do đó, đặt ra vấn đề đòi hỏi phải
thực hiện H', tức đòi hỏi phải vận động liên tục
Bốn là, trong tuần hoàn này khác với 2 tuần hoàn trước điểm xuất phát là
H' (giá trị tư bản đã được tăng thêm giá trị), chứ không phải giá trị tư bản ban
đầu còn đang chờ tăng thêm giá trị. Như vậy, ngay từ điểm xuất phát H', nó đã
biểu hiện quan hệ TBCN vì ngay từ đầu tuần hoàn đã bao gồm cả tuần hoàn của
giá trị tư bản lẫn tuần hoàn của giá trị thặng dư m
Năm là, trong tuần hoàn I và II: điểm kết thúc (T' và SX) là kết quả của sự
chuyển hóa hình thái tư bản trước đó. Còn trong tuần hoàn III: H' điểm kết thúc
tuần hoàn là kết quả của sự chuyển hóa không những đụng chạm đến hình thái
chức năng của tư bản, mà còn đụng chạm cả đến đại lượng giá trị của tư bản
nữa. Sự chuyển hóa là kết quả không phải của một sự đổi chỗ thuần tuý có tính
chất hình thức thuộc về quá trình lưu thông, mà là kết quả của một sự chuyển
hóa hiện thực mà hình thái sử dụng và giá trị của những thành phần hàng hóa của
tư bản sản xuất đã trải qua trong quá trình sản xuất.
Sáu là, trong tuần hoàn này (H' T' H ... SX ... H') thì H vừa là điểm xuất
phát, vừa là môi giới trung gian, vừa là điểm cuối cùng, điều đó chứng tỏ: sự
vận động này không phải là của một tư bản hàng hóa, mà là sự vận động xen kẽ
của nhiều tư bản hàng hóa cá biệt, nghĩa là sự vận động của tổng tư bản xã hội:
các tư bản cá biệt xen kẽ nhau, làm điều kiện cho nhau.
Bảy là, tuần hoàn của tư bản hàng hóa mang tính chất che giấu. Nó là hình
thái nổi bật tính liên tục của lưu thông. Song, do quá nhấn mạnh tính liên tục
của lưu thông hàng hóa, nên người ta có ấn tượng rằng: hình như tất cả mọi yếu
tố cho sản xuất đều do lưu thông hàng hóa mà ra và chỉ gồm có hàng hóa mà thôi.
8
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA BA HÌNH THÁI TUẦN HOÀN CỦA TƯ
BẢN
Trên cơ sở phân tích các hình thái, C.Mác đã dành ra chương 4 trong Quyển
II của Bộ Tư bản để tổng hợp 3 hình thái tuần hoàn, nhưng ở đây không phải là
sự tổng hợp giản đơn, mà là sự thống nhất biện chứng 3 hình thái; đồng thời
phát hiện những đặc điểm mới.
Mác viết: “Nếu lấy Lt để chỉ tổng quá trình lưu thông, thì ba hình thái của
tuần hoàn có thể được trình bày như sau:
I) TH…Sx…H’T’
II) Sx…Lt…Sx
III) Lt…Sx(H’)
Nếu chúng ta xét toàn bộ cả ba hình thái, thì tất cả các tiền đề của quá
trình tuần hoàn đều là kết quả của nó, là tiền đề do bản thân nó tạo ra. Mỗi
một yếu tố đều là điểm xuất phát, điểm quá độ và là điểm quay trở lại. Toàn bộ
quá trình biểu hiện ra thành sự thống nhất của quá trình sản xuất và quá trình
lưu thông; quá trình sản xuất trở thành khâu trung gian của quá trình lưu thông
và ngược lại”4
1. Tuần hoàn của tư bản công nghiệp là sự thống nhất của sản xuất
và lưu thông
“Bây giờ chúng ta nghiên cứu toàn bộ vận động TH … SX … H’T’, hay
hình thái đầy đủ của nó:
SLĐ
T H … SX … H’(H+h) T’(T+t)
TLSX
4 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 154
9
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
Ở đây, tư bản là một giá trị thông qua một chuỗi liên tiếp những biến hoá có
quan hệ lẫn nhau, quyết định lẫn nhau, một chuỗi những biến hoá hình thái cấu
thành cũng một chuỗi thời kỳ hay giai đoạn giống như thế trong tổng quá trình.
Trong các giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông, còn một giai
đoạn nữa thì thuộc lĩnh vực sản xuất. Trong mỗi giai đoạn như vậy, giá trị tư bản
đều nằm trong một hình thái đặc thù tương ứng với một chức năng đặc thù, đặc
biệt”5.
Như vậy, sự vận động này trải qua 3 giai đoạn: giai đoạn đầu T SX và
giai đoạn cuối H’ T’ nằm trong lưu thông hàng hoá, còn giai đoạn SX H’ thuộc
lĩnh vực sản xuất hàng hoá TBCN. Cả ba giai đoạn này thống nhất với nhau hay
nói cách khác sản xuất và lưu thông thống nhất với nhau: sản xuất làm trung
gian cho lưu thông và ngược lại.
C.Mác còn viết: “Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành một cách bình
thường chừng nào các giai đoạn khác nhau của nó không ngừng chuyển từ giai
đoạn này sang giai đoạn khác. Nếu tư bản ngừng lại trong giai đoạn thứ nhất T
H, thì tư bản tiền tệ sẽ đọng lại thành tiền tích trữ, nếu tư bản ngừng lại trong
giai đoạn sản xuất thì một bên, tư liệu sản xuất sẽ nằm im không hoạt động và
trong khi đó ở bên kia, sức lao động sẽ không có việc làm, nếu tư bản ngừng lại
trong giai đoạn cuối cùng H’ T’, thì hàng hoá không bán được bị chất đống lại
sẽ làm nghẽn luồng lưu thông”6.
Giai đoạn thứ nhất: giai đoạn mua, là giai đoạn thực hiện hành vi T H:
Trong giai đoạn này, tư bản xuất hiện dưới hình thái tiền, tiền khoác áo tư
bản và được gọi là tư bản tiền tệ. Trong hành vi T H, ngoài chức năng làm
5 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 8283
6 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 83
10
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
phương tiện mua thông thường, tiền còn làm chức năng của tư bản. Nói cách
khác hành vi chung của lưu thông hàng hoá trở thành một giai đoạn trong tuần
hoàn của tư bản, hay T trở thành tư bản.
C.Mác đã viết: “T H biểu thị việc chuyển hoá hoá món tiền thành một số
hàng hoá; đối với người mua, đó là việc chuyển hoá tiền của người ấy thành hàng
hoá; đối với người bán, đó là việc chuyển hoá hàng hoá của người ấy thành tiền.
Hành vi lưu thông chung ấy của hàng hoá đồng thời trở thành một giai đoạn hoạt
động nhất trong vòng tuần hoàn độc lập của một tư bản cá biệt”7.
Sở dĩ C.Mác nói như vậy là vì tiền được sử dụng để mua tư liệu sản xuất
và sức lao động với mục đích sản xuất ra giá trị thặng dư.
Ở trang 47 Ông viết tiếp: “Nếu chúng ta dùng SLĐ để chỉ sức lao động và
TLSX để chỉ tư liệu sản xuất, thì số hàng hoá nhà tư bản mua sẽ biểu thị thành:
SLĐ
H = SLĐ + TLSX, hay gọn hơn T H
TLSX
SLĐ
Do đó, xét về nội dung, T H biểu hiện thành T H
TLSX
Như thế có nghĩa là T H phân thành T SLĐ và T TLSX, số tiền T chia
làm hai phần, một phần mua SLĐ và một phần mua TLSX” 8.
7 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 46,47
8 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 47
11
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
Nghĩa là: bản thân việc mua H, bản thân chức năng lưu thông của T không
làm cho T thành tư bản, không làm cho T H thành một giai đoạn của tuần hoàn
tư bản. T chỉ trở thành tư bản, hành vi T H chỉ trở thành một giai đoạn của tuần
hoàn tư bản, khi trong số H mà T mua được phải có một hàng hoá đặc biệt hàng
hoá sức lao động.
C.Mác viết: “T SLĐ là yếu tố đặc trưng trong sự chuyển hoá của tư bản tiền
tệ thành tư bản sản xuất, vì đó là điều kiện căn bản để cho giá trị ứng ra dưới
hình tháitiền được thực tế chuyển hoá thành tư bản, thành giá trị đẻ ra giá trị
thặng dư”9.
SLĐ
Như vậy, trong nội dung vật chất của hành vi T H bao gồm
TLSX
thì T SLĐ được coi là đặc trưng tư bản chủ nghĩa. Nhưng T SLĐ là đặc trưng
tư bản chủ nghĩa ở giai đoạn mua: không phải ở chỗ có thể mua được sức lao
động bằng T, mà là do quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm cho sức lao
động biến thành hàng hoá trước khi dùng T mua được nó, vì khi sức lao động trở
thành hàng hoá thì việc mua hàng hoá sức lao động giống như việc mua các hàng
hoá khác.
Ở đây, không phải bản chất của T đẻ ra mối quan hệ tư bản chủ nghĩa mà
trái lại chính sự tồn tại của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mới làm cho T
trở thành tư bản. Điều đó có nghĩa rằng, chính trên cơ sở tư liệu sản xuất và
sức lao động đã bị tách rời nhau, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, quan hệ
giai cấp giữa tư bản và lao động làm thuê đã có, thì T của nhà tư bản ứng ra để
9 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 51
12
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
thực hiện hành vi T H mới là tư bản tiền tệ hay nói chính xác hơn là khoác áo
tư bản tư bản tiền tệ.
Hành vi T SLĐ là hành vi đặc trưng để T mang quan hệ tư bản chủ nghĩa,
tức T SLĐ là điều kiện để T chuyển hoá thành tư bản.
Kết quả của giai đoạn mua, tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản xuất.
Giai đoạn thứ hai: giai đoạn sản xuất, thực hiện chức năng của tư bản
sản xuất.
Kết quả của giai đoạn 1: T H, là bước đầu của giai đoạn thứ hai: giai
đoạn sản xuất.
Trong sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa: T H đã được thực hiện, thì tất
yếu phải được bổ sung bằng H’ T’, nhưng trước khi có H’ T’ thì buộc tư bản
phải đi vào sản xuất, thì buộc người mua tức nhà tư bản phải tiêu dùng sản
xuất những hàng hoá đã mua được là sức lao động và tư liệu sản xuất. Bởi vì
muốn đạt được mục đích của mình, thì nhà tư bản phải phải tiêu dùng những
hàng hoá đã mua được để sản xuất ra hàng hoá mới có giá trị lớn hơn giá trị các
yếu tố sản xuất ra nó. Do đó, tiếp theo giai đoạn một tất yếu phải dẫn đến giai
đoạn hai: giai đoạn sản xuất.
Ở đây C.Mác đã viết: “Do sự chuyển hoá của tư bản tiền tệ thành tư bản
sản xuất, giá trị tư bản mang một hình thái hiện vật trong đó, nó không thể tiếp
tục lưu thông được nữa mà phải đi vào tiêu dùng, cụ thể là đi vào tiêu dùng sản
xuất. Việc tiêu dùng sức lao động, tức là lao động chỉ có thể thực hiện được
trong quá trình lao động thôi… Như vậy, kết quả của giai đoạn thứ nhất là bước
vào giai đoạn thứ hai, giai đoạn sản xuất của tư bản”10.
TLSX
Quá trình này được diễn ra như sau: H … SX … H’
10 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 59
13
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
SLĐ
Sản xuất nói chung và sản xuất tư bản chủ nghĩa nói riêng bao giờ cũng là
quá trình kết hợp hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất. Nhưng tại sao sản
xuất ở đây lại là sản xuất tư bản chủ nghĩa và tại sao sản xuất ở đây lại là một
giai đoạn của tuần hoàn tư bản? Vì:
Thứ nhất, nét đặc trưng tư bản chủ nghĩa ở giai đoạn này là ở chỗ: Trước
khi buớc vào sản xuất, hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất tách rời nhau
và là những nhân tố trong trạng thái khả năng, muốn sản xuất thì hai yếu tố đó
phải được kết hợp với nhau, nhà tư bản đã có công là ứng tư bản của mình ra để
thực hiện sự kết hợp hai yếu tố này. Tư bản được ứng ra mua hai yếu tố đó rồi
lại kết hợp lại trong các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa.
C.Mác viết: “Dù hình thái xã hội của sản xuất là những hình thái nào chăng
nữa, thì người lao động và tư liệu sản xuất bao giờ cũng vẫn là những nhân tố
của sản xuất. Nhưng chừng nào còn bị tách rời nhau, thì cả hai cũng vẫn chỉ là
những nhân tố trong trạng thái khả năng thôi. Nói chung, muốn sản xuất thì hai
cái đó phải kết hợp với nhau”11.
Như vậy tư liệu sản xuất và sức lao động từ chỗ là những yếu tố trôi nổi
trên thị trường, chưa phải là tư bản, sau khi kết thúc giai đoạn 1, giờ đây trở
thành hình thái tồn tại của giá trị tư bản ứng trước, được phân thành những yếu
tố khác nhau của tư bản sản xuất. Quá trình sản xuất ở xã hội tư bản chủ nghĩa
đòi hỏi phải có sự vận động của tư bản, chức năng sản xuất ở đây trở thành một
chức năng của tư bản đây chính là tính xã hội đặc thù.
“Vậy sức lao động của con người không phải là tư bản do bản chất của nó,
cũng giống hệt như tư liệu sản xuất không phải là do bản chất của chúng. Chỉ
11 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 62
14
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
trong những điều kiện phát triển lịch sử nhất định, thì những tư liệu sản xuất
mới có tính xã hội đặc thù ấy”12.
Chức năng tư bản sản xuất chính là chức năng tạo tạo ra giá trị thặng dư, vì
quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là quá trình tiêu dùng tư liệu sản xuất và sức
lao động để tạo ra giá trị sử dụng mới và một giá trị mới lớn. Nghĩa là, ở giai
đoạn này tiến hành sản xuất không phải là hàng hoá, mà là hàng hoá chứa đựng
giá trị thặng dư (m), tức H’ = giá trị tư bản sản xuất + giá trị thặng dư.
“Lao động thặng dư của sức lao động là lao động không công cho nhà tư
bản, nghĩa là một giá trị mà nhà tư bản không phải trả bằng vật ngang giá. Do
đó, sản phẩm không phải chỉ là hàng hoá, mà là một hàng hoá đã mang trong
mình một giá trị thặng dư. Giá trị của nó = Sx + Giá trị thặng dư, tức bằng giá
trị của tư liệu sản xuất Sx đã tiêu dùng để chế tạo ra nó cộng với giá trị thặng
dư do tư bản sản xuất ấy đẻ ra”13.
Kết thúc giai đoạn 1: T H, thì tư liệu sản xuất và sức lao động không còn
đơn thuần là các yếu tố của sản xuất, mà chúng đã mang trong mình giá trị tư
bản ứng trước, chúng đã trở thành hình thái tư bản sản xuất của tư bản.
Thứ hai, tính chất và phương thức kết hợp hai yếu tố sản xuất là cái để
phân biệt các thời kỳ kinh tế khác nhau. Trong chủ nghĩa tư bản, phương thức
đặc thù kết hợp hai yếu tố này do tư bản thực hiện không chỉ là kết quả, mà còn
là yêu cầu của sự vận động của tư bản. Trong chủ nghĩa tư bản, sự kết hợp hai
yếu tố thực hiện trong tay nhà tư bản với tư cách là hình thái tồn tại có tính chất
sản xuất của tư bản của hắn. Vì vậy quá trình sản xuất ở đây trở thành một
chức năng của tư bản, trở thành quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa, thực hiện
12 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 63
13 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 66
15
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
một giai đoạn tuần hoàn của tư bản. Vì giá trị tư bản buộc phải đi qua giai đoạn
này để T tự lớn lên.
“Tính chất và phương thức đặc thù trong việc thực hiện sự kết hợp ấy,
chính là cái phân biệt các thời kỳ kinh tế khác nhau của chế độ xã hội. Trong
trường hợp đang nghiên cứu, tình trạng người công nhân tự do bị tách khỏi tư
liệu sản xuất của anh ta là điểm xuất phát đã cho sẵn trước, và chúng ta đã thấy
hai yếu tố ấy kết hợp với nhau trong tay nhà tư bản như thế nào và trong những
kinh doanh nào, cụ thể là kết hợp với tư cách là hình thái tồn tại có tính chất sản
xuất của tư bản của hắn. Vì vậy, cái quá trình hiện thực trong đó những nhân tố
hình thành hàng hoá nhân tố người và nhân tố vật kết hợp với nhau như thế,
tức là bản thân quá trình sản xuất trở thành một chức năng của tư bản”14.
Như vậy khi hoàn thành giai đoạn chuyển hoá này, tiền đã trở thành tư bản
thực sự vì nó được rút ra từ sản xuất không những giá trị cũ mà còn thêm giá trị
thặng dư với tư cách là con đẻ của nó.
Kết quả, kết thúc giai đoạn 2 là tư bản sản xuất chuyển thành tư bản hàng
hoá.
Giai đoạn thứ ba: giai đoạn bán, trong giai đoạn này nhà tư bản thực
hiện hành vi H T’
Kết thúc giai đoạn thứ hai: giá trị tư bản từ hình thái tư bản sản xuất
biến thành hình thái tư bản hàng hoá và tư bản chưa thể ngừng vận động. Bởi
vì: cả giá trị tư bản ứng trước lẫn giá trị thặng dư đều đang tồn tại dưới dạng
sản phẩm, dưới dạng giá trị sử dụng cần cho người khác, do đó tư bản với tư
cách tư bản đang vận động, tất yếu phải tiến hành một giai đoạn biến hoá
hình thái nữa, tức chuyển hoá giá trị dướ i hình thái hàng hoá thành tiền. Nhưng
14 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 62
16
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
tại sao ở đây lưu thông H trở thành một chức năng của tư bản? H’ T’ trở thành
một giai đoạn tuần hoàn của tư bản? Bởi vì:
Thứ nhất, giống như mọi hàng hoá, H trong chủ nghĩa tư bản được ném
vào lưu thông cũng chỉ thực hiện chức năng thông thường của H là bán để lấy T
nhằm thực hiện giá trị H
Thứ hai, điểm đặc trưng tư bản chủ nghĩa là ở chỗ, ngoài việc thực hiện
giá trị H, chức năng quan trọng hơn của tư bản hàng hoá là thực hiện giá trị
thặng dư được tạo ra trong sản xuất.
Như vậy, ngay khi vừa mới được sản xuất ra, hàng hoá đã là tư bản hàng
hoá với tư cách là hình thái tồn tại chức năng của giá trị tư bản đã tăng thêm giá
trị vì ngay sau khi sản xuất, nó đã là H’ có giá trị = giá trị tư bản ứng trước + giá
trị thặng dư.
“H’ biểu hiện một quan hệ giá trị quan hệ giữa giá trị của sản phẩm hàng
hoá với giá trị của tư bản đã tiêu dùng trong sản xuất ra sản phẩm hàng hoá đó;
do đó H’ nói lên rằng giá trị của nó gồm có giá trị của tư bản và giá trị thặng
dư”15.
Ở đây cần lưu ý, H chỉ có thể làm chức năng tư bản chừng nào mà trước
khi đi vào lưu thông, nó đã mang tính chất tư bản, đã có sẵn từ trong quá trình
sản xuất. H trở thành H’ là do lượng giá trị của H’ lớn hơn giá trị của tư bản sản
xuất (hàng hoá) đã tiêu dùng khi sinh ra nó (H’= H + h). Nên khi tiến hành trao
đổi theo nguyên tắc ngang giá thì H’ cũng thu về T’, nghĩa là thu được số t trội
hơn số tiền ứng ra ban đầu. Chính chức năng thực hiện giá trị thặng dư này (h
t) đã làm cho hành vi H’ T’ trở thành một giai đoạn của tuần hoàn tư bản.
Kết thúc giai đoạn ba: giá trị tư bản từ hình thái tư bản hàng hoá biến hoá
thành tư bản tiền tệ.
15 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 66
17
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
Kết thúc một vòng tuần hoàn thì mục đích của vận động tư bản được thực
hiện: giá trị tư bản trở lại hình thái ban đầu với số lượng lớn hơn trước. vì vậy,
đến đây, tổng hợp quá trình vận động của tư bản trong cả 3 giai đoạn với ba
biến hoá hình thái chúng ta có công thức
SLĐ
TH … SX … H’ T’
TLSX
Trong công thức này, với tư cách là một giá trị, tư bản đã trải qua một chuỗi
biến hoá hình thái có quan hệ với nhau, quy định lẫn nhau. Có bao nhiêu biến hoá
hình thái là có bấy nhiêu giai đoạn của quá trình vận động của tư bản. Trong các
giai đoạn đó, có hai giai đoạn thuộc lĩnh vực lưu thông và một giai đoạn thuộc
lĩnh vực sản xuất.
Trong công thức trên chúng ta thấy có hai hàng hoá khác nhau H và H’, xét
về lượng giá trị thì H’ lớn hơn H, lượng giá trị tăng lên đó là do quá trình sản
xuất mà ra, còn trong các giai đoạn lưu thông phải có giá trị bằng nhau tồn tại
cùng một lúc đối diện với nhau và thay thế lẫn nhau. Nghĩa là, sự biến đổi về
đại lượng của giá trị chỉ nằm trong phạm vi biến hoá hình thái của tư bản sản
xuất trong giai đoạn sản xuất, tức trong quá trình sản xuất. Bởi vậy, quá trình
sản xuất là sự biến hoá hình thái hiện thực của tư bản. Còn trong các giai đoạn
lưu thông chỉ là những biến hoá hình thái có tính chất hình thức
Qua sự phân tích 3 giai đoạn trên, chúng ta thấy quá trình tuần hoàn của tư
bản là sự thống nhất của cả 3 giai đoạn hay là sự thống nhất giữa sản xuất và
lưu thông. Nếu chỉ xét hai giai đoạn T H và H’ T’ thì lưu thông tư bản là một
bộ phận của lưu thông chung của hàng hoá. Nhưng tuần hoàn của tư bản không
những thuộc về lĩnh vực lưu thông mà còn thuộc về lĩnh vực sản xuất, nên vòng
tuần hoàn của tư bản là sự thống nhất giữa sản xuất và lưu thông.
18
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
“Vậy, quá trình tuần hoàn của tư bản là sự thống nhất giữa lưu thông và
sản xuất, nó bao hàm cả hai. Chừng nào mà hai giai đoạn T H, H’ T là những
hành vi của lưu thông thì lưu thông của tư bản là một bộ phận của lưu thông
chung của hàng hoá. Nhưng trong chừng mực chúng là những khâu, những giai
đoạn có những chức năng nhất định trong tuần hoàn của tư bản tuần hoàn
không những thuộc về lĩnh vực lưu thông mà còn thuộc về lĩnh vực sản xuất
nữa thì tư bản hoàn thành vòng tuần hoàn của bản thân nó trong lĩnh vực lưu
thông chung của hàng hoá”16.
2. Sự vận động thống nhất biện chứng của ba hình thái tuần hoàn:
Đây là một quá trình liên tục không ngừng và đứt quãng không ngừng. Bởi
lẽ, trong quá trình vận động liên tục không ngừng, bản thân tuần hoàn lại làm
cho tư bản phải nằm lại ở mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất
định để thực hiện chức năng của mình.
T H ... SX ... H' T' H ... SX ... H' T' H ... SX ... H' ..
Sự vận động của ba hình thái tuần hoàn có sự kế tục nhau trong thời gian
và sắp xếp kề nhau trong không gian hay tồn tại kề nhau trong không gian để
được liên tục vận động trong thời gian (sự thống nhất ba hình thái tuần hoàn đòi
hỏi 3 tuần hoàn phải tồn tại cùng một thời gian, trong không gian thì xen kẽ
nhau):
TH … SX … H' T' H … SX … H' T' H … SX …
T H ... SX ... H' T'
SX ... H' T' H' ... SX
H' T' H ... SX ... H’
16 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 95
19
- Tiểu luận Quá trình lưu thông TBCN Văn Công Vũ
“Cả ba tuần hoàn đều có một điểm chung là: chúng đều lấy việc làm tăng
giá trị làm mục đích có tính chất quyết định, làm động cơ”17. Và tổng tuần hoàn
là sự thống nhất hiện thực của ba hình thái tuần hoàn. Nếu xét riêng từng hình
thái tuần hoàn, thì mỗi hình thái tuần hoàn chỉ phản ánh hiện thực tư bản chủ
nghĩa một cách phiến diện làm nổi bật mặt bản chất này và che giấu mặt bản
chất khác của sự vận động của tư bản công nghiệp. Do đó, phải xem xét đồng
thời cả ba hình thái tuần hoàn, thì mới nhận thức được đầy đủ sự vận động hiện
thực của tư bản công nghiệp, mới hiểu đúng bản chất của mối quan hệ giai cấp
mà tư bản biểu hiện trong sự vận động của nó
Vì thế, tuần hoàn hiện thực của tư bản công nghiệp, trong sự liên tục của
nó, không những là sự thống nhất giữa sản xuất và lưu thông, mà còn là sự thống
nhất của cả ba tuần hoàn của nó nữa. Chỉ có trong sự thống nhất của cả ba tuần
hoàn, thì sự liên tục của tổng quá trình tuần hoàn của tư bản công nghiệp mới
thực hiện được.
Trên thực tế, mỗi tư bản công nghiệp cá biệt đều ở trong cả ba tuần hoàn
cùng một lúc và nằm cạnh nhau trong không gian. Ba hình thái tuần hoàn đều
không ngừng diễn ra bên cạnh nhau, kế tiếp nhau. Và chỉ có sự thống nhất cả ba
hình thái tuần hoàn thì quá trình vận động của tư bản mới có thể tiến hành một
cách liên tục không ngừng.
Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành được bình thường khi cả ba tuần hoàn
chuyển tiếp một cách trôi chảy. Nếu một tuần hoàn của hình thái nào đó ngừng
trệ, thì toàn bộ tuần hoàn sẽ bị phá hoại. Song, muốn bảo đảm sự tuần hoàn
không ngừng của TB, bảo đảm cho TB liên tục chuyển hóa hình thái qua các giai
đoạn kế tiếp nhau, thì phải có đủ hai điều kiện:
17 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 24, trang 154
20
nguon tai.lieu . vn