- Trang Chủ
- Kinh tế - Thương mại
- Tiểu luận môn Lịch sử kinh tế Việt Nam: Phân tích quá trình hình thành và phát triển của mô hình kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Ý nghĩa lý luận, thực tiễn
Xem mẫu
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
PHẦN NỘI DUNG 3
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM 3
1. Cơ chế cũ và hạn chế của nó 3
2. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. 4
II. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 5
1. Các giai đoạn nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa 5
Đánh giá khái quát thành tựu phát triển kinh tế xã hội 30 năm đổi mới, Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của
Đảng đã khẳng định: 29
1
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
MỞ ĐẦU
Năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang
tính tự cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Mặt khác, do
những sai lầm trong nhận thức về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nước
ta ngày càng tụt hậu, khủng hoảng trầm trọng kéo dài, đời sống nhân dân thấp. Muốn
thoát khỏi tình trạng đó con đường duy nhất là phải đổi mới kinh tế.
Sau đại hôị Đảng VI năm 1986 nền kinh tế nước ta chuyển sang một hướng đi
mới: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đó chính là nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu về kinh tế thị trường sự hình thành và phát triển có ý nghĩa vô
cùng to lớn cả về lý thuyết lẫn thực tế. Một mặt, cho ta thấy được tính khách quan
của nền kinh tế thị trường, và sự cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước ở nước ta hiện nay, thấy được
những gì đã đạt được và chưa đạt được của Việt nam. Mặt khác, giúp chúng ta có cái
nhìn tổng quan về nền kinh tế nước nhà, đồng thời thấy được vai trò to lớn của quản
lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, những giải pháp nhằm đưa nước ta tiến
nhanh lên nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
Ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường trong thực tế không những là nội dung
của công cuộc đổi mới mà lớn hơn thế còn là công cụ, là phương thức để nước ta đi
tới mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng vấn đề đặt ra là: Thực hiện mô hình
này bằng cách nào để hạn chế tiêu cực, tăng tích cực giúp cho kinh tế nước ta ngày
càng phát triển sánh vai cùng các cường quốc năm châu khác?
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện những quan điểm, biện
pháp để nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và giữ vững
định hướng đó là công việc vô cùng thiết thực và cần thiết, có ý nghĩa to lớn đối với
mỗi nhà nghiên cứu và phân tích kinh tế. Xuất phát từ tầm quan trọng đó, trong phạm
vi môn học Lịch sử kinh tế Việt Nam, học viên thực hiện tiểu luận với chủ đề:
“Phân tích quá trình hình thành và phát triển của mô hình kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn”.
PHẦN NỘI DUNG
I. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM
1. Cơ chế cũ và hạn chế của nó
Cơ chế cũ là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Đó là cơ chế mà ở đó Nhà nước
quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, thể hiện ở sự chi tiết hoá
các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh từ một trung
tâm. Các doanh nghiệp căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước từ đó lập kế hoạch
sản xuất kinh doanh cho mình.
Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, các cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu
vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu
trách nhiệm gì đối với các quyết định của mình, từ đó làm cho các doanh nghiệp thụ
động không phát huy được tính sáng tạo, các quan hệ kinh tế bị hiện vật hoá. Quan hệ
3
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
hàng hoá tiền tệ chỉ mang tính hình thức, bỏ qua hiệu quả kinh tế, quản lý kinh tế và
kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát, giao nộp. Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều khâu
trung gian nhưng kém năng lực.
Cơ chế tập trung bao cấp đã góp phần cho thắng lợi giải phóng đất nước, nhưng
sau khi điều kiện kinh tế xã hội đã thay đổi. Đặc biệt khi trình độ phát triển kinh tế đã
nâng cao lên rất nhiều, cơ cấu càng phức tạp thì những khuyết điểm bên trong nền
kinh tế kế hoạch ngày càng bộc lộ. Cuộc chạy đua theo mục tiêu chế độ quốc hữu hoá
làm loại bỏ hoặc hạn chế chế độ kinh tế phi quốc hữu, kiềm chế cạnh tranh nên khó
làm sống động nền kinh tế.
Trên thực tế kinh tế kế hoạch lấy chủ nghĩa bình quân làm phương châm phân
phối cho nên đã kìm hãm tích cực và sáng tạo của người sản xuất kinh doanh. Chúng ta
thực hiện phân phối theo lao động trong điều kiện chưa cho phép. Trong hoạt động
kinh tế, việc nhà nước quản lý hành chính bằng mệnh lệnh trực tiếp, chính quyền và
xí nghiệp không tách riêng, đầu vào cao đầu ra thấp đã trở thành những căn bệnh cũ
của nền kinh tế kế hoạch. Những điều trên đã gây trở ngại cho sự phát triển sản xuất
xã hội. Trước tình hình đó, việc chuyển đổi nền kinh nước ta sang nền kinh tế thị
trường là đúng đắn phù hợp với thực tế, quy luật kinh tế và xu thế của thời đại.
2. Chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong khi các nước trong khu vực đã đạt được những bước phát triển nhảy vọt
dựa vào cơ chế kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, xây dựng cơ
cấu kinh tế hướng bên ngoài, thì Việt Nam trong nhiều năm vẫn theo đuổi cơ chế kế
hoạch hoá tập trung bằng mệnh lệnh hành chính, quan liêu từ trung ương và cơ cấu
kinh tế hướng nội là chủ yếu, đã kìm hãm khả năng hoà nhập vào trào lưu phát triển
của khu vực.
Sau đại hội VI (1986), do đổi mới nói chung và sự đổi mới trong nhận thức xã
hội, Đảng ta nhận định rằng để phát triển theo kịp các nước trong khu vực và thế giới
thì phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa
có sự quản lý của nhà nước. Bởi vì hiện nay ở nước ta, các điều kiện của sản xuất
hàng hoá vẫn còn đang tồn tại. Phân công lao động: ở nước ta đang tồn tại hệ thống
phân công lao động do lịch sử để lại với nhiều ngành nghề. Với sự phát triển khoa
học, kỹ thuật hiện đại, nhiều ngành nghề mới xuất hiện làm cho sự phân công lao
động ở nước ta trở nên phong phú hơn, nó tạo điều kiện cho hàng hoá phát triển. Ở
nước ta cũng đang tồn tại quan hệ sở hữu đa dạng về tư liệu sản xuất và ứng với nó là
nền kinh tế nhièu thành phần. Điều đó tạo nên sự độc lập về mặt kinh tế giữa các
thành viên, doanh nghiệp. Nó cũng có tác dụng làm cho hàng hoá phát triển. Mặt khác,
kinh tế hàng hoá phát triển, nó thúc đẩy quá trình phân công lao động, quá trình chuyên
môn hoá và hiện đại hoá. Qua đó thiết lập được mối quan hệ kinh tế giữa các vùng xoá
bỏ tình trạng tự cung, tự cấp. Đẩy mạnh quá trình xã hội hoá sản xuất. Nó thúc đẩy
quá trình tích tụ và tập trung vốn và lao động thể hiện ở quy mô của các doanh nghiệp,
quy mô về kinh tế ngày càng tăng.
4
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
Kinh tế hàng hoá góp phần tăng năng suất lao động thực hiện dân chủ hoá đời
sống kinh tế. Nó khai thác được thế mạnh từng ngành, từng địa phương để làm ra
nhiều sản phẩm cho xã hội, tạo tiền đề cho việc mở rộng liên kết, liên doanh cả trong
nước và nước ngoài. Mở rộng phạm vi giao lưu hàng hoá giữa nước ta và các nứơc
khác. Là điều kiện thúc đẩy sự phát triển của một số ngành, lĩnh vực khác. Trong bất
cứ hình thái kinh tế xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị trí chi phối.
Ngoài ra, còn có phương thức sản xuất tàn dư của xã hội trước và phương thức sản
xuất mầm mống của xã hội tương lai. Các phương thức sản xuất này ở vào địa vị lệ
thuộc, bị chi phối bởi phương thức sản xuất thống trị.
Trong một hình thái kinh tế xã hội có nhiều phương thức sản xuất biểu hiện
thành phần kinh tế. Trong thời kỳ quá độ, chưa có thành phần kinh tế nào giữ vai trò
thống trị, chi phối các thành phần kinh tế khác, mà chúng chỉ là những mảnh, những bộ
phận hợp thành kết cấu kinh tế xã hội trong một hệ thống thống nhất biện chứng.
Mỗi thành phần kinh tế có kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh của nó hợp thành nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Việc nhận thức và tổ chức thực hiện trên thực tế các thành phần kinh tế trong
thời kỳ quá độ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại
nhiều trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất (thủ công, trình độ cơ khí, tự động
hoá, tin học hoá...). Vì vậy khi thiết lập quan hệ sở hữu thì cũng phải đa dạng phù hợp
ở nước ta hiện nay có thể làm xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác.
Ở nước ta tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan.
Vì kinh tế nhiều thành phần, đây là tồn tại khách quan do lịch sử để lại trong thời kỳ
quá độ và có nhiều thành phần kinh tế mà sự tồn tại của nó vẫn có lợi cho sự phát
triển đất nước. Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm thực hiện cái quy luật: Quan
hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm để cho sản xuất nước ta phát triển liên tục
không bị gián đoạn. Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm tạo ra sự cạnh tranh
giữa các thành phần kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta.
II. QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Các giai đoạn nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1. Thời kỳ cuối thập kỷ 70 đến thập kỷ 80 của thế kỷ XX: Tìm tòi và thử
nghiệm cải cách cục bộ trong khuôn khổ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung
Chúng ta đều biết rằng, việc lựa chọn mang tính khẳng định đường lối đổi mới
kinh tế, mô hình kinh tế ở Việt Nam vào cuối những năm 1980 diễn ra dưới áp lực gay
gắt của thực tiễn trong nước và ngoài nước.
Ở trong nước, mô hình kinh tế thị trường và đơn nhất thành phần kinh tế tỏ ra
kém hiệu quả.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong hoàn
cảnh một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật lạc hậu, trình độ phát triển xã hội thấp, lại bị
5
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
chiến tranh tàn phá nặng nề. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước
xã hội chủ nghĩa khác đã áp dụng mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Xôviết, mô hình kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, mà thực chất là mô hình kinh tế cứng
nhắc phi thị trường, quá đề cao vai trò của một thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa
dưới hai hình thức: kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, còn các thành phần kinh tế
khác bằng những chính sách, biện pháp hành chính, áp đặt nóng vội để đẩy nhanh tiến
độ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với chúng, với mục tiêu chính không phải là để huy
động, phát triển, mà là hạn chế thu hẹp, thậm chí xóa bỏ các thành phần kinh tế được
gọi là “phi xã hội chủ nghĩa”. Kết cục là thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc
doanh và tập thể) phát triển nhanh về số lượng, mở rộng quy mô và phạm vi hoạt
động, nhưng hiệu quả sản xuất – kinh doanh thấp và ngày càng có xu hướng giảm sút.
Mặc dù trong một thời gian tương đối dài, mô hình kinh tế này đã từng phát huy
tác dụng, tích cực trong việc thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa theo kiểu cổ điển,
tập trung được các nguồn lực, sức người, sức của đáp ứng yêu cầu của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhưng càng
về sau, nó càng bộc lộ những khiếm khuyết, mà chủ yếu là các nhu cầu của xã hội
vượt quá khả năng đáp ứng của một nền kinh tế kém hiệu quả, thiếu năng động do
thực hiện cơ chế kế hoạch tập trung, quan liêu và chế độ phân phối (về cơ bản) bình
quân chủ nghĩa. Chính điều đó đã kìm hãm, làm thui chột động lực và tính cạnh tranh
giữa các lực lượng kinh tế, không huy động và sử dụng được các nguồn lực của đất
nước để tạo đà cho sự phát triển. Cộng với công tác chỉ đạo, lãnh đạo, quản lý cũng
phạm phải một số sai lầm, mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm ấy là bệnh giáo
điều, chủ quan, duy ý chí, giản đơn, nóng vội, không tôn trọng quy luật kinh tế khách
quan; nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế của Việt Nam, khiến cho
nền kinh tế lâm vào tình trạng trì trệ kéo dài, rồi khủng hoảng kinh tế xã hội trầm
trọng và kéo dài: sản xuất phát triển chậm, kém hiệu quả và bấp bênh, tình trạng thiếu
hụt, khan hiếm hàng hóa (kể cả lương thực); lạm phát phi mã (774,7% năm 1986), đời
sống nhân dân rất khó khăn. Vì vậy, đoạn tuyệt với cơ chế kinh tế cũ, lạc hậu và phát
triển kinh tế đã trở thành đòi hỏi bức thiết và tất yếu đối với Việt Nam lúc bấy giờ.
Trên thế giới, bắt đầu từ thập niên 80 của thế kỷ XX, nhiều sức ép đối với sự
phát triển kinh tế của Việt Nam cũng đã xuất hiện và gia tăng.
Chính phủ Mỹ thi hành chính sách cấm vận kinh tế đối với Việt Nam từ cuối
thập niên 70 thế kỷ XX, nhằm đặt nền kinh tế Việt Nam vào thế cô lập, suy yếu và
dẫn tới sự sụp đổ. Dưới áp lực của Mỹ, nhiều chính phủ, tổ chức kinh tế tài chính
quốc tế, tập đoàn và công ty trên thế giới cũng buộc phải hạn chế hoặc ngừng quan hệ
với Việt Nam. Tuy chính sách này không làm cho Việt Nam bị cô lập hoàn toàn, nhưng
kéo dài thời gian thi hành chính sách cấm vận ấy đã gây ra hậu quả không nhỏ đối với
nền kinh tế Việt Nam.
Khi Việt Nam lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội thì Liên Xô, các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu và nhiều nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới cũng
lâm vào tình cảnh tương tự.
6
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
Do khủng hoảng kinh tế, các nước xã hội chủ nghĩa cũng không thể triển khai kế
hoạch hợp tác kinh tế với Việt Nam một cách bình thường. Do đó, viện trợ từ các
nước xã hội chủ nghĩa – nguồn lực phát triển hết sức quan trọng đối với Việt Nam –
bị suy giảm, hoạt động thương mại của Việt Nam đối với khu vực thị trường truyền
thống, quan trọng hàng đầu cũng bị giảm mạnh, làm trầm trọng thêm những mất cân
đối lớn vốn có của nền kinh tế.
Trong khi đó, thành công của Trung Quốc trong việc “cải cách, mở cửa” (1978)
nền kinh tế theo định hướng thị trường nhưng vẫn giữ được con đường xã hội chủ
nghĩa và nền kinh tế Trung Quốc có sự tăng trưởng phát triển nhanh1. Có thể nói đây là
những gợi ý và tham khảo trong chiến lược phát triển của Việt Nam trong bối cảnh
mới.
Hơn nữa, trên thế giới cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang diễn ra với
quy mô lớn chưa từng có, đem lại cho loài người những thành tựu vô cùng to lớn. Dưới
sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, nhiều nước trên thế giới thực
hiện cơ cấu lại nền kinh tế, mở cửa nền kinh tế và phát triển kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước.
Công cuộc tìm tòi, thử nghiệm để thoát khỏi khủng hoảng (trước năm 1986)
Để đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, Việt Nam đã
phải trải qua một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, đấu tranh tư tưởng và tổng kết thực
tiễn rất gian khổ. Điều này thể hiện như sau:
Bước đột phá thứ nhất,
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa
IV (8/1979), với quan điểm “làm cho sản xuất bung ra”, có thể coi là sự “đột phá đầu
tiên” trong việc thay đổi chủ trương, chính sách trên lĩnh vực kinh tế, với ý nghĩa là
khắc phục những khuyết điểm sai lầm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ
nghĩa, điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, phá bỏ những rào cản để cho
lực lượng sản xuất phát triển. Đó là:
Ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần lương thực dôi ra được bán cho
Nhà nước theo giá khuyến khích hay thị trường tự do.
Khuyến khích mọi người tận dụng ao hồ, đất hoang hóa…
Đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức (quốc doanh, tập thể, hộ gia
đình).
Sửa lại thuế lương thực, giá lương thực để khuyến khích sản xuất phát triển.
Sửa lại chế độ phân phối trong nội bộ hợp tác xã nông nghiệp, bỏ lối phân phối
theo định suất, định lượng để khuyến khích tính tích cực của người lao động.
Điều chỉnh một số chính sách không còn phù hợp, cải tiến chính sách phân phối
lưu thông…
Những chủ trương đó đã nhanh chóng được nhân dân cả nước tiếp nhận và biến
thành hành động cụ thể trong thực tiễn kinh tế:
1
Trong khoảng 22 năm, Trung Quốc đã rút ngắn mức độ chênh lệch thu nhập bình quân đầu
người của mình so với mức bình quân trên thế giới 7,3 lần xuống còn 1,9 lần. Theo Hồ An
Cường: Trung Quốc: Những chiến lược lớn, NXB.Thông Tấn, H.2003
7
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
Sau hơn 3 tháng thực hiện, ở Hà Nội đã có 1,529 hộ đăng ký kinh doanh sản
xuất công nghiệp và thủ công nghiệp.
Kinh tế gia đình ở Thành phố Hồ Chí Minh phát triển nhanh.
Tỉnh Long An từ 1981 đã thực hiện thí điểm mô hình theo cơ chế “mua cao, bán
cao” thay cho “mua cung, bán cấp”, bù giá vào lương.
Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Nghệ An… được thí điểm hình thức khoán trong các hợp
tác xã nông nghiệp. Trên cơ sở ấy, ngày 13/1/1981, Chỉ thị 100CT/TW của Ban Bí thư
Trung ương Đảng đã ra đời. “Khoán 100” đã bước đầu tạo ra một động lực mới trong
sản xuất nông nghiệp.
Trong công nghiệp: nổi lên là các Quyết định số 25/CP và 26/CP của Chính phủ.
Trước tình trạng đình trệ trong sản xuất công nghiệp, lãnh đạo một số địa phương đã
tìm cách khắc phục. Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện giao quyền tự chủ cho các xí
nghiệp đạt được những kết quả ban đầu khích lệ. Thành phố Hải Phòng thực hiện
giao quỹ lương cho xí nghiệp đánh cá Cát Bà và cho phép khoán sản phẩm từng
chuyến đi biển. Hàng trăm cơ sở sản xuất kinh doanh khác trong khu vực nhà nước
theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị đã
làm thử việc trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng linh hoạt các hình thức
khoán tiền thưởng.
Sau khi nghiên cứu tổng kết những điểm làm thử, ngày 21/1/1981, Hội đồng
Chính phủ đã ra Quyết định số 25/CP về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát
huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tử chủ về tài chính của các xí
nghiệp quốc doanh và Quyết định số 26/CP về mở rộng hình thức trả lương khoán,
lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh
doanh của Nhà nước. Trong hai quyết định này thì Quyết định số 25/CP có tác động rõ
nhất đến tình hình sản xuất công nghiệp ở Việt Nam. Nội dung chính của Quyết định
số 25/CP là kế hoạch ba phần:
Phần Nhà nước giao có vật tư bảo đảm (kế hoạch A): Nhà nước sẽ cung ứng
vật tư và sản phẩm làm ra phải bán theo địa chỉ và giá do Nhà nước quy định.
Phần xí nghiệp tự làm (kế hoạch B): là phần mà xí nghiệp phải tự lo nguyên
liệu, vật tư (mua trên thị trường) để sản xuất thêm sản phẩm trong nhiệm vụ thiết kế
của xí nghiệp.
Phần sản phẩm phụ (kế hoạch C): xí nghiệp sản xuất ra những mặt hàng không
nằm trong diện mặt hàng Nhà nước giao từ những sản phẩm phế thải. Ví dụ, xí
nghiệp gỗ lấy gỗ thừa làm đồ chơi trẻ em, xí nghiệp bông lấy bông thừa làm chăn tiết
kiệm,…
Sau một thời gian thực hiện thì kế hoạch 3 phần bị biến dạng dần. Các phần kế
hoạch bị lẫn lộn. Các xí nghiệp đều tìm mọi cách để có lợi cho công nhân của mình.
Trên lĩnh vực cải tạo xã hội chủ nghĩa, tư tưởng sử dụng các thành phần kinh tế
đã được đặt ra, từ hiệu quả kinh tế mà vận dụng các hình thức sản xuất kinh doanh
phù hợp, chính sách đối với kinh tế cá thể từng bước được điều chỉnh cho phù hợp với
thực tế…
8
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
Tóm lại, những tư tưởng đột phá về kinh tế trong Nghị quyết Trung ương 6 khóa
IV của Đảng, trong Chỉ thị 100CT/TW và trong các quyết định của Chính phủ Việt
Nam trong thời kỳ này là:
Đây là những ý tưởng ban đầu, tuy còn sơ khai, chưa cơ bản và toàn diện,
nhưng đó là “sự mở đầu” có ý nghĩa quan trọng.
Điểm nổi bật trong những tìm tòi thử nghiệm là “giải phóng lực lượng sản
xuất” mà tư tưởng “làm cho sản xuất bung ra” là tiền đề, trên cơ sở khắc phục những
sai lầm, khuyết điểm trong quản lý kinh tế, trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, tạo ra động
lực cho sản xuất, chú ý kết hợp ba lợi ích, quan tâm hơn đến lợi ích thiết thân của
người lao động.
Tác động thực tiễn của những tìm tòi, thử nghiệm ban đầu ấy có nhiều hạn
chế. Tuy vậy, nó đã đặt những cơ sở đầu tiên cho sự đổi mới toàn diện, sâu sắc này.
Tuy nhiên, những tìm tòi đổi mới ban đầu đó đã phải trải qua những thử thách rất
phức tạp. Trước những khó khăn về kinh tế và đời sống, cũng như khuynh hướng
muốn quay lại với quan niệm và cách làm cũ. Hội nghị Trung ương 5 khóa V (12/1983)
vẫn xem sự chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân
của tình trạng khó khăn về kinh tế xã hội và chủ trương phải đẩy mạnh hơn nữa
công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xóa bỏ thị
trường tự do về lương thực và các nông, hải sản quan trọng; thống nhất quản lý giá,
bảo đảm cung cấp đủ 9 mặt hàng theo đúng định lượng cho người ăn lương, lập cửa
hàng cung cấp…
Trong hợp tác xã nông nghiệp thì quản lý, điều hành chặt chẽ tất cả các khâu theo
kế hoạch. Hội nghị Trung ương 6 khóa V (7/1984) vẫn tiếp tục chủ trương “đẩy
mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa”, đẩy mạnh thu mua, nắm nguồn hàng, cải tạo thị
trường tự do… Điều đó cho thấy, sự đổi mới tư duy là không đơn giản, quan niệm cũ
về cải tạo xã hội chủ nghĩa còn ăn sâu, bám rễ trong nhiều người. Trên thực tế khủng
hoảng kinh tế xã hội ngày một nghiêm trọng, đời sống nhân dân, nhất là người làm
công ăn lương ngày càng khó khăn”2
Bước đột phá thứ hai,
Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6/1985) đánh dấu bước đột phá thứ hai bằng chủ
trương dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện cơ chế một giá,
xóa bỏ chế độ cung cấp hiện vật theo giá thấp; chuyển mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; chuyển ngân hàng sang
nguyên tắc kinh doanh. Điểm quan trọng là Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương khóa V, đã thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của kinh tế hàng hóa.
Tháng 9/1985, cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền được thực hiện.
Đợt điều chỉnh giá – lương – tiền được tiến hành sau Hội nghị Trung ương 8.
Điều chỉnh giá, lương, tiền đồng thời một lúc, bắt đầu từ ngày 1/10/1985. Nhà nước
thực hiện một giá kinh doanh, xóa bỏ hoàn toàn giá cung cấp và chế độ tem phiếu, chỉ
Đảng Cộng sản Việt Nam – Ban Chấp hành Trung ương – Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận:
2
Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (19862006), Nxb.
Chính trị quốc gia, H.2005, tr.4546
9
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
giữ lại sổ gạo cho cán bộ, công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang, đối tượng chính
sách để bảo hiểm khi giá lương lực có đột biến. Tổng điều chỉnh toàn bộ hệ thống giá
nhà nước chỉ đạo, lấy giá lúa thị trường tháng 8/1985 đưa toàn bộ mặt hàng giá chỉ đạo
lên khoảng 10 lần so với trước tháng 10/1985. Tiền lương được tính lại trên cơ sở
mức giá mới, theo mức tăng giá. Quyết định đổi tiền ngày 4/9/1985 đưa mệnh giá tiền
mới gấp 10 lần tiền cũ. Đây là cuộc tổng điều chỉnh giá – lương – tiền, tiến hành toàn
diện trong một thời gian ngắn đã gây ra cú sốc cho nền kinh tế cũng như đời sống, tâm
lý xã hội. Hệ quả làm cho “giá cả thị trường có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng
không tốt đến nhiều hoạt động kinh tế xã hội. Lạm phát phi mã. Sự chênh lệch giữa
giá và lương, giữa lương danh nghĩa và lương thực tế quá lớn. Chính vì vậy, đầu năm
1986, lại phải lùi một bước: Thực hiện chính sách hai giá. Trên lĩnh vực phân phối lưu
thông, làm phát ở mức 3 con số trong nhiều năm, đỉnh cao là 774,7% năm 1986. Lượng
lưu thông tiền tệ cuối năm 1984 bằng 8,4 lần cuối năm 1980. Nhiều vấn đề nóng
bỏng, phức tạp chưa được giải quyết, có mặt ngày càng trầm trọng hơn. Đây là những
sai lầm trong việc đổi tiền, muốn tăng giá trị đồng tiền khi cơ sở đảm bảo cho việc
tăng đó chưa có (quan hệ tiền – hàng mất cân đối nghiêm trọng).
Bước đột phá thứ ba,
Tháng 5/1986, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam khóa V khẳng định một lần nữa tính đúng đắn của Nghị quyết Trung ương 8
(6/1985), trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI của Đảng,
Bộ Chính trị đã nêu ra những kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh
tế:
1/ Trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, phải lấy nông nghiệp làm mặt trận
hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng được phát triển có
chọn lọc.
2/ Trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là
một đặc trưng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
3/ Trong cơ chế quản lý kinh tế, lấy kế hoạch làm trọng tâm, đồng thời phải vận
dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa, tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu
bao cấp, chính sách giá phải vận dụng quy luật giá trị, tiến tới thực hiện cơ chế một
giá. Đây là bước đột phá thứ ba, có ý nghĩa lớn trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Tóm lại, dưới áp lực của thực tiễn, thời kỳ cuối thập niên 70 đầu thập niên 80
thế kỷ XX, trong nền kinh tế nước ta đã diễn ra những cải cách cục bộ theo hướng
bước đầu thừa nhận thị trường là công cụ bổ sung cho kế hoạch, chủ yếu để tổ chức
hoạt động kinh doanh ở cấp vi mô. Với sự thừa nhận này, thị trường không bị coi là
đối lập với chủ nghĩa xã hội và có thể chấp nhận trong quá trình xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa.
Tuy có sự chuyển biến nhận thức và thực tiễn quan trọng nhưng những cuộc thử
nghiệm, tìm tòi ấy chưa đủ sức mang tính đột phá để tạo ra bước ngoặt căn bản trong
quan điểm lý luận và thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vì:
10
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
1/ Thị trường chỉ được coi là công cụ bổ sung cho kế hoạch, công cụ chủ yếu để
quản lý, tổ chức và điều hành nền kinh tế vẫn là kế hoạch pháp lệnh;
2/ Về thực chất, những cải cách cục bộ ấy vẫn trong khuôn khổ của cơ chế kế
hoạch hóa tập trung và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế vận hành theo cơ chế
đó;
3/ Giá cả một số mặt hàng thiết yếu (gạo, chất đốt, thịt…) và yếu tố đầu vào
của sản xuất, như lương (giá cả sức lao động), lãi suất, tỷ giá hối đoái… vẫn là giá phi
thị trường;
4/ Trong nhận thức lý luận vẫn chưa thừa nhận đa sở hữu, đa thành phần, kinh tế
tư nhân còn bị phân biệt đối xử, doanh nghiệp nhà nước chưa được tự chủ về tài
chính, tự chủ kinh doanh; nền kinh tế vận hành không theo quy luật kinh tế thị trường,
phủ nhận thị trường, giá cả thị trường, cạnh tranh… nền kinh tế giẫm chân tại chỗ,
lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Chủ trương công nghiệp hóa là đúng, nhưng đường
lối và phương pháp tiến hành không hợp lý. Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986
nhận định: “Trên thực tế chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa trong khi
chưa có đủ tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lý lỗi thời”. Chúng
ta thiên về xây dựng công nghiệp nặng, không tập trung sức phát triển nông nghiệp,
công nghiệp nhẹ, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và tổ chức lại sản xuất
công nghiệp, chủ quan nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa và bảo thủ, trì trệ trong
quản lý kinh tế, lực lượng sản xuất bị kìm hãm; quan hệ sản xuất trở thành lực cản
phát triển do chậm đổi mới3
1.2. Đại hội lần thứ VI của Đảng thực sự là đại hội của những quyết sách
lớn nhằm xoay chuyển tình hình và tạo ra một bước ngoặt cho sự phát triển của
đất nước
Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội VI đã chỉ rõ: Đó là thời
kỳ lâu dài, khó khăn, gồm nhiều chặng đường; một thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc, toàn diện và triệt để. Nước ta phải xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Đại hội VI cũng đã khẳng định phải từ bỏ quan niệm giản đơn, tư tưởng nóng
vội chủ quan, duy ý chí, muốn đốt cháy giai đoạn.
Đại hội VI của Đảng đã giữ lại luận điểm về chặng đường đầu tiên của thời kỳ
quá độ mà Đại hội V nêu ra và quyết định phải đi tiếp chặng đường đầu tiên, đồng
thời xác định nhiệm vụ bao trùm và mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của
chặng đường đầu tiên là “ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng
những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong
chặng đường tiếp theo”4
3
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự Thật,
H.1987, tr.19
4
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật,
H.1987, tr.42
11
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
Từ nhiệm vụ bao trùm và mục tiêu tổng quát nêu trên, Đại hội VI đã xác định 5
mục tiêu cụ thể về kinh tế xã hội.
1/ Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy
2/ Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý nhằm phát triển sản xuất.
3/ Xây dựng và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất.
4/ Tạo ra chuyển biến tốt về mặt xã hội.
5/ Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh5.
Và rút kinh nghiệm của Đại hội lần thứ V, Đại hội VI đã không đề ra một thời
hạn nhất định khi nào kết thúc chặng đường đầu tiên, mà “cái mốc đánh dấu chặng
đường đầu tiên kết thúc là đạt được năm mục tiêu nói trên. Độ dài của chặng đường
đầu tiên tùy thuộc một phần quan trọng vào việc vận dụng những bài học đã rút ra từ
thực tiễn mười năm qua, để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xã hội trong thời
gian tới”6.
Báo cáo chính trị tại Đại hội VI cũng chỉ rõ: để thực hiện được những nhiệm vụ,
mục tiêu của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên thì điều quan trọng hàng
đầu là phải đổi mới chính sách kinh tế, đồng thời với việc đổi mới chính sách xã hội,
đặt hai loại chính sách này trong mối tương quan mật thiết cùng tác động và thúc đẩy
lẫn nhau. Và muốn đổi mới chính sách kinh tế và chính sách xã hội, nhất thiết phải đổi
mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường
lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra những quan niệm mới: phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần với những hình thức kinh doanh phù hợp, coi trọng việc kết hợp lợi ích cá
nhân, tập thể và xã hội; chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người, có nhận thức
mới về chính sách xã hội.
Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3/1989) phát triển thêm một bước đã đưa ra quan
điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ
nghĩa xã hội, coi “chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có
tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội” và thực hiện tinh thần dân chủ
về kinh tế, đảm bảo cho mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần, với nhiệm
vụ bao trùm và mục tiêu tổng quá của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là
ổn định mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết
cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở giai đoạn tiếp sau. Trong lúc
tình hình kinh tế xã hội đang mất ổn định, Đại hội VI xác định nhiệm vụ ổn định là
hoàn toàn đúng, có ổn định mới phát triển được, có phát triển mới tạo ra sự ổn định cao
5
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật,
H.1987, tr.43
6
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật,
H.1987, tr.4546
12
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
hơn, ổn định gắn liền với phát triển trong quá trình đổi mới, tiến lên phía trước của
nước ta.
Trên cơ sở nhiệm vụ bao trùm và mục tiêu tổng quát mà tiến hành cơ cấu lại
nền kinh tế, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư. Đại hội VI chỉ rõ “nền kinh tế quốc dân có
một cơ cấu hợp lý là nền kinh tế mà trong đó các ngành, các vùng, các thành phàn, các
loại hình sản xuất có quy mô và trình độ kỹ thuật khác nhau phải được bố trí cân đối,
liên kết với nhau, phù hợp với điều kiện kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển
ổn định” và “phải xây dựng được một cơ cấu kinh tế hợp lý, trước hết là cơ cấu các
ngành kinh tế”. Do đó, “trong toàn bộ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể cả
chặng đường hiện nay, không được tách rời nông nghiệp với công nghiệp, không thể
coi trọng nông nghiệp hay công nghiệp”. Trong chặng đường hiện nay phải “tập trung
sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, gắn công nghiệp
nhẹ và tiểu thủ công nghiệp với sản xuất nông nghiệp, gắn nông nghiệp với chế biến
nông, lâm, thủy, hải sản. Ngành dịch vụ cũng được đặt ra để chú ý phát triển
Đại hội VI xây dựng và tập trung nguồn lực cho thực hiện ba chương trình mục
tiêu: lương thực – thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Ba chương trình mục
tiêu này cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Bước đầu
sản xuất có tính yếu tố đầu vào, đầu ra, thị trường và nhu cầu tiêu dùng, cũng như là
tiềm năng, thế mạnh của các ngành, vùng, tổ chức kinh tế.
Như vậy, Đại hội VI của Đảng đặt ra vấn đề phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời hướng tới phát triển một cơ cấu
kinh tế đa sở hữu với vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, thực
hiện hoạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Các khái niệm của kinh tế thị trường
như: cung – cầu, lỗ, lãi, giá cả thị trường… bắt đầu được làm quen và bắt đầu được
sử dụng. Sự tồn tại của kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được Nhà
nước thừa nhận và có chính sách khuyến khích phát triển. Cơ chế kế hoạch hóa tập
trung dần dần được thay thế bằng cơ chế quản lý hoạch toán kinh doanh. Các chỉ tiêu
pháp lệnh và chế độ phân phối qua tem phiếu dần dần được loại bỏ.
Những thay đổi về tư duy kinh tế và những đổi mới về cơ chế kinh tế, điều hành
vĩ mô đã được nền kinh tế từng bước thoát ra khỏi khủng hoảng và giải phóng một
bước lực lượng sản xuất. Song trong giai đoạn này vẫn còn hạn chế cả về tư duy kinh
tế và thực tiễn vận hành nền kinh tế theo cơ chế mới. Đó là:
+ Nhận thức về kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường chưa đầy đủ, dẫn đến các
bước tiến hành cải cách trong thực tiễn chậm chạp và ngập ngừng.
+ Các thị trường chưa hình thành, hoặc sơ khai, tự phát. Hệ thống pháp luật cho
sự phát triển một nền kinh tế hàng hóa và sự vận hành của thị trường chưa được ban
hành đầy đủ.
+ Còn có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế qua cơ chế, chính sách
giá cả, thuế, lãi suất… công bằng xã hội chưa được quan tâm và xử lý có hiệu quả
+ Nhà nước kiểm soát trực tiếp trên phạm vi lớn các yếu tố thị trường (giá cả, lãi
suất, tỷ giá…). Mức độ cạnh tranh thấp… Nhà nước có ảnh hưởng to lớn đến thị
13
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
trường nhưng trên thực tế không có khả năng điều tiết các hoạt động kinh tế qua thị
trường bằng công cụ kinh tế do thiếu nguồn lực và thiếu năng lực quản lý kinh tế…
1.3. Những năm 1990: Dứt khoát chuyển sang kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam với sự kiên định chủ trương:
“phát triển kinh tế xã hội theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại
trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có kỷ cương, có văn hóa, xóa bỏ áp bức,
bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc” , có
điều kiện phát triển7 đã xác định mô hình kinh tế nước ta là “nền kinh tế có nhiều
thành phần với nhiều dạng sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp
với trình độ của lực lượng sản xuất, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển có hiệu quả nền
sản xuất xã hội”8 và “nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác”, với các tiêu chí:
“Mọi đơn vị kinh tế không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự
chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau bình đẳng trước pháp luật”
+ “Khuyến khích tính năng động sáng tạo đi đôi với thiết lập trật tự, kỷ cương
trong hoạt động kinh tế”
+ “Hiệu quả kinh tế xã hội là tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự phát triển”
+ “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển
văn hóa, bảo vệ môi trường”9
Từ đó đã chỉ rõ: “Đổi mới kinh tế là chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cấp,
tự túc sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước” nhằm “vừa giải phóng và phát huy được tiềm năng sản xuất
trong xã hội”, vừa khắc phục những hạn chế và tiêu cực của kinh tế thị trường10
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6/1996) đã xác định rõ hơn mô hình kinh tế tổng
quát của nước ta. Đó là “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”11. Và đề ra mục tiêu đến năm 2020, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Về quan hệ sản xuất, chế độ sở hữu, cơ chế quản lý và
chế độ phân phối gắn kết với nhau. Về đời sống vật chất và văn hóa, nhân dân có
7
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, Nxb.Sự thật, H.1991, tr.8
8
Đảng Cộng sản Việt Nam: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000,
Nxb.Sự thật, H.1991, tr.8
9
Đảng Cộng sản Việt Nam: Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000,
Nxb.Sự thật, H.1991, tr.8,9
10
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb.Sự thật,
H.1991, tr.2326
11
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Chính trị
quốc gia, H.1996, tr.82
14
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
cuộc sống no đủ, có nhà ở tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về học hành, đi lại,
chữa bệnh, có mức hưởng thụ văn hóa khá.
Đại hội VIII xác định rõ hơn mô hình kinh tế tổng quát ở nước ta là ở chỗ: Đại
hội VIII làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Chúng ta đều biết, vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa đã được nêu từ Đại hội VII
của Đảng. Để làm rõ thế nào là định hướng xã hội chủ nghĩa trong xây dựng nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
Đại hội VIII đã nêu ra 6 điểm:
+ “Thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên
trong và bên ngoài để công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã
hội, cải thiện đời sống nhân dân, làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát
triển các thành phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
+ Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế
hợp tác xã, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần
trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh
tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa
kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. Áp dụng phổ
biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
+ Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản
xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.
+ Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn
lực khác với kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Thừa
nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức thuê mướn lao động nhưng không để biến
thành quan hệ thống trị dẫn tới sự phân hóa xã hội hình thành hai cực đối lập. Phân
phối và phân phối lại hợp lý các thu nhập; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với
xóa đói giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ
phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư.
+Tăng cường lực lượng quản lý vĩ mô của Nhà nước, khai thác triệt để vai trò
tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ
chế thị trường. Bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của mọi
doanh nghiệp và cá nhân không phân biệt thành phần kinh tế.
+ Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ
kinh tế với bên ngoài”12
Nắm vững sáu nội dung trên thì nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần mà chúng
ta xây dựng và phát triển sẽ không chệch sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Dĩ nhiên,
thực hiện được những nội dung trên hoàn toàn không đơn giản và qua thực tiễn kiểm
nghiệm, những nội dung trên cần phải được cụ thể hóa, phải được điều chỉnh, bổ
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb.Chính trị
12
quốc gia, H.1996, tr.9192
15
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
sung để việc định hướng cho nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ngày càng vững chắc.
1.4. Đại hội lần thứ IX của Đảng là Đại hội khẳng định mô hình kinh tế
nước ta là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam (4/2001) đã chỉ rõ: “Thực hiện
nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Với sự xác
định như vậy, Đại hội IX của Đảng đã tiến một bước dài trong việc định hình và cụ
thể hóa mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Đại
hội xác định “mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, “phát huy cao độ nội lực, đồng
thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát
triển nhanh, hiệu quả, bền vững; tăng trưởng kinh tế gắn liền với phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường thiên nhiên; kết hợp phát
triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh”; và chủ trương “sử dụng
cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế
thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn
chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường”13.
Đại hội X của Đảng (2006) nêu rõ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là để “thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”. Đại hội khẳng định “Quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh
doanh được pháp luật bảo hộ”, mọi công dân có quyền bình đẳng trong đầu tư kinh
doanh, tiếp cận cơ hội, nguồn lực kinh doanh” và lần đầu tiên xác định “kinh tế tư
nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Doanh
nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ biến,
thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu”. Để nâng cao hiệu lực quản lý của
nhà nước, Đại hôi yêu cầu “Tách chức năng quản lý hành chính nhà nước khỏi chức
năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xóa bỏ “chế độ chủ quản”; tách hệ thống
cơ quan hành chính công khỏi hệ thống cơ quan sự nghiệp”14 …
Đại hội XI của Đảng (2011) xác định hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là một trong ba đột phá chiến lược để phát triển đất nước.
Đại hội chỉ rõ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa “là một hình thức
kinh tế thị trường vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên
cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã
hội” và yêu cầu “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại”. Đối với
13
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị
quốc gia, H.2005, tr.635637.
14
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Hà Nội, Nxb
CTQG, 2006, tr.77, 86, 83, 79
16
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
kinh tế tư nhân, Đại hội chủ trương “Tạo điều kiện hình thành một số tập đoàn kinh
tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”. Về hội nhập kinh
tế quốc tế, Đại hội chủ trương “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ
vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế” . Tiếp tục đổi mới quản lý nhà
nước về kinh tế, Đại hội yêu cầu “Phân định rõ hơn chức năng quản lý kinh tế của
nhà nước và chức năng của tổ chức kinh doanh vốn và tài sản của nhà nước” , “nghiên
cứu hình thành các tổ chức quản lý đầu tư, kinh doanh có hiệu quả các nguồn vốn, tài
sản của nhà nước, khắc phục tình trạng bộ máy quản lý hành chính tham gia trực tiếp
vào các hoạt động kinh doanh thông qua các mệnh lệnh hành chính”. Đại hội đã đưa
vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) quan điểm “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa” và xác định đây là một trong tám phương hướng cơ bản của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam15.
Tổng kết 30 năm đổi mới đất nước, Đại hội XII của Đảng thể hiện những nhận
thức mới nhất, đầy đủ nhất (cho đến hiện nay) về nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam
“là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,
đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của đất nước, là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, có sự quản lý
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo,
nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” ; “trong đó, kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền
kinh tế. Thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực
nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị
trường”. Đại hội yêu cầu “Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu,
quyền tài sản; hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường” ;
đổi mới tổ chức, quản lý doanh nghiệp nhà nước phù hợp với chuẩn mực quốc tế; chủ
động lựa chọn dự án đầu tư nước ngoài có công nghệ hiện đại, liên kết với doanh
nghiệp trong nước, có vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu; phát triển đồng bộ các yếu tố
thị trường và các loại thị trường, “thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường”, “không
lồng ghép các chính sách xã hội trong giá”, thực hiện cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm
định giá; “tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của nhà nước và chức năng quản lý
nhà nước. Xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, ủy ban nhân
dân đối với vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Thành lập một cơ quan chuyên
trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước”16.
2. Đánh giá khái quát
15
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Hà Nội, Nxb
CTQG, 2011, tr.107, 209, 205, 207,215.
16
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Hà Nội,
VPTW, 2016, tr.102, 103, 105, 106, 109.
17
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
Trong hơn 30 năm đổi mới, nhận thức, quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà
nước ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã từng
bước hình thành, được bổ sung, phát triển ngày càng hoàn thiện, phù hợp với quy luật
khách quan, thực tiễn của đất nước và xu hướng chung của thế giới, của thời đại. Cụ
thể là:
2.1. Nhận thức chung về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Từ nhận thức, quan điểm phủ nhận kinh tế thị trường, xem kinh tế thị trường là
đặc trưng riêng có của chủ nghĩa tư sản, đối lập kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã
hội, Đảng đã từng bước thừa nhận sự tồn tại khách quan, tất yếu, cần thiết của kinh
tế thị trường trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Quá trình này kéo dài
15 năm, từ Đại hội VI đến Đại hội IX của Đảng, đi từ thừa nhận, cho phép tồn tại,
phát triển nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đến thừa nhận phát triển
nền kinh tế hàng hóa; từ xác định đó là nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch, kế hoạch là
“tính thứ nhất”, hàng hóa là “tính thứ hai” của nền kinh tế, tới xác định đó là nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thừa nhận cơ chế thị trường, nhưng chưa thừa
nhận kinh tế thị trường. Chỉ đến Đại hội IX của Đảng (năm 2001), 15 năm sau khi bắt
đầu sự nghiệp đổi mới, Đảng mới xác định nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cho rằng
kinh tế thị trường là sản phẩm chung của văn minh nhân loại; trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở một nước nghèo, kinh tế kém phát trển, chưa qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa như nước ta, nhất định phải phát triển nền kinh tế thị trường,
sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được Đảng xác định là mô hình
kinh tế tổng quát ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng
được nhận thức ngày càng rõ, được bổ sung, phát triển ngày càng hoàn thiện qua các
nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Đại hội XII của Đảng thể hiện rõ, đầy đủ nhất (đến thời
điểm hiện nay) quan điểm của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ,
đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; đồng thời, có sự quản lý của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước, nhằm mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2.2. Nhận thức về vai trò và chủ trương phát triển đa dạng các hình thức sở
hữu, các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Từ chỗ thừa nhận, cho phép tồn tại, phát triển hai hình thức sở hữu toàn dân (nhà
nước) và tập thể về tư liệu sản xuất, hai thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước và
kinh tế tập thể, Đảng đã thừa nhận sự tồn tại, khuyến khích phát triển nhiều hình thức
18
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Quyền sở hữu, quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh được bảo vệ. Các hình
thức sở hữu, các thành phần kinh tế được khẳng định tồn tại lâu dài, là yêu cầu khách
quan, tất yếu, là đặc trưng của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều tự chủ, hợp tác, cạnh tranh
bình đẳng theo pháp luật.
Đối với kinh tế tư nhân, từ chủ trương phát triển kinh tế hộ gia đình trong nông
nghiệp, Đảng ta thừa nhận sự tồn tại lâu dài, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân
trong các lĩnh vực, các ngành kinh tế, rồi đi tới xác định kinh tế tư nhân có vai trò quan
trọng, là một động lực của nền kinh tế. Hiện nay, kinh tế tư nhân được xác định là
một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Doanh nghiệp tư nhân được kinh doanh ở mọi ngành, lĩnh vực mà pháp luật không
cấm. Nhà nước tạo điều kiện, khuyến khích hình thành, phát triển các tập đoàn kinh tế
tư nhân và tư nhân góp vốn, mua cổ phần của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Cùng với
phát triển kinh tế tư nhân trong nước, Đảng chủ trương thu hút mạnh đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI), thu hút vốn, công nghệ, phương pháp quản lý hiện đại, mở rộng thị
trường xuất, nhập khẩu để phát triển kinh tế. Trong những năm gần đây, việc thu hút
đầu tư nước ngoài yêu cầu phải được chọn lọc, ưu tiên thu hút những dự án đầu tư có
trình độ công nghệ cao, thân thiện với môi trường, có liên kết, chuyển giao công nghệ
cho doanh nghiệp trong nước, tạo cơ hội cho doanh nghiệp trong nước tham gia vào
các chuỗi giá trị toàn cầu.
Kinh tế nhà nước được xác định có vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể từng
bước trở thành nền tảng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đồng
thời, Đảng yêu cầu phải tăng cường quản lý tài sản công, các nguồn lực nhà nước (đất
đai, tài nguyên, vốn nhà nước); cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả đầu tư công và đẩy
mạnh sắp xếp lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước. Doanh
nghiệp nhà nước được yêu cầu sắp xếp lại, đổi mới bằng việc cho giải thể, phá sản,
bán lại tài sản đối với các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, ở những lĩnh vực không cần
thiết phải có doanh nghiệp nhà nước; thoái vốn khỏi những ngành, lĩnh vực có hiệu
quả thấp, không phải là lĩnh vực kinh doanh chính của doanh nghiệp; chuyển doanh
nghiệp nhà nước thành các công ty trách nhiệm hữu hạn và nhất là đẩy mạnh cổ phần
hóa để trở thành các công ty cổ phần có vốn nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước, nhất
là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, trong những năm gần đây, được cơ cấu lại,
định hướng tập trung vào các ngành, lĩnh vực then chốt, thiết yếu, những địa bàn quan
trọng và quốc phòng, an ninh. Tổ chức bộ máy và phương thức quản lý, quản trị doanh
nghiệp được đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường, các thông lệ, chuẩn mực quốc tế.
Tách bạch nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và nhiệm vụ chính trị công ích.
Đối với các tổ chức kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, Đảng chủ trương đổi mới
cả về tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp với cơ chế thị trường. Các hợp tác
xã phải hình thành trên cơ sở liên kết tự nguyện của các thành viên, làm chức năng
cung cấp dịch vụ cho các thành viên, hỗ trợ cho các thành viên trong vay vốn, ứng dụng
tiến bộ khoa họccông nghệ, tiêu thụ sản phẩm… để giảm chi phí, nâng cao năng suất,
19
- Tiểu luận Lịch sử kinh tế Việt Nam Văn Công Vũ
chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đối với các đơn vị sự nghiệp công, Đảng
chủ trương đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động, chuyển sang cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về tổ chức bộ máy, biên chế, về tài chính và thực hiện xã hội hóa lĩnh vực
dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực này.
2.3. Nhận thức về phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị
trường
Từ chỗ tất cả giá cả sản phẩm hàng hóa mua bán, lưu thông đều do Nhà nước
quyết định, khi chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa, ban đầu, Đảng chủ trương
thực hiện cơ chế hai giá, một giá vẫn do Nhà nước quyết định (đối với một số hàng
hóa có ảnh hưởng, tác động lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân) và một giá do
người sản xuất, kinh doanh quyết định (đối với các hàng hóa do họ sản xuất kinh
doanh). Sau đó, cùng với phát triển kinh tế thị trường, giá cả cũng được chuyển sang
thực hiện theo cơ chế thị trường đối với hầu hết các hàng hóa, chỉ trừ một số hàng
hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước (điện, xăng dầu,…) và dịch vụ xã hội
cơ bản như y tế, giáo dục. Các quyền tự do kinh doanh, tự do lưu thông hàng hóa, cạnh
tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được thực hiện.
Cơ chế đấu thầu, đấu giá, thẩm định giá được mở rộng. Phạm vi giá cả hàng hóa do
nhà nước quy định ngày càng thu hẹp. Các tổ chức sự nghiệp công lập được chuyển
sang cơ chế tự chủ và việc cung cấp các dịch vụ công được xã hội hóa; giá các dịch vụ
xã hội cơ bản, như y tế, giáo dục cũng từng bước chuyển sang cơ chế thị trường,
không lồng ghép các chính sách xã hội trong giá; chuyển từ cơ chế cấp phát sang cơ
chế đặt hàng, từ hỗ trợ cho đơn vị cung cấp dịch vụ sang hỗ trợ trực tiếp cho đối
tượng hưởng thụ.
Đảng chủ trương phát triển đồng bộ, theo hướng hiện đại, vận hành thông suốt
các loại thị trường. Phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ đa dạng, theo các phương
thực giao dịch, mua bán ngày càng hiện đại (sàn giao dịch, siêu thị, thương mại điện tử,
…), bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, nhất là về giá cả, chất lượng hàng hóa, vệ
sinh an toàn thực phẩm, các dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng sau bán hàng; bảo vệ thị
trường trong nước, không để nước ngoài thâu tóm. Phát triển thị trường tài chính đồng
bộ, có cơ cấu hoàn chỉnh, cả thị trường tài chính, thị trường tiền tệ, thị trường chứng
khoán, thị trường cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ tài chính phái sinh, thị trường cho
thuê tài sản, mua bán nợ, thị trường các dịch vụ kế toán, kiểm toán, thẩm định giá, tư
vấn thuế… Cơ cấu lại thị trường tài chính, bảo đảm lành mạnh hóa hệ thống tài
chính, tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Phát triển
thị trường bất động sản, bao gồm quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với
đất, làm cho đất đai trở thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển; yêu cầu việc phân
bổ và sử dụng đất đai phải theo quy hoạch, kế hoạch, thông qua đấu thầu, đấu giá
cạnh tranh để sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả. Phát triển thị trường sức lao động; thực
hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; đa dạng hóa các hình thức giao dịch việc làm,
phát triển hệ thống thông tin về thị trường lao động, bảo đảm quyền lợi của cả người
lao động và sử dụng lao động; hoàn thiện chính sách tiền công, tiền lương, bảo hiểm,
20
nguon tai.lieu . vn