Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ ­­­­­­­­­­ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TÌNH TRẠNG  THẤT NGHIỆP Ở TRUNG QUỐC VÀ BÀI  HỌC CHO VIỆT NAM  Giảng viên : Ths. Nguyễn Thị Lan Hương Sinh viên : Cao Mỹ Hạnh MSV : 18050045 Học phần: Kinh tế chính trị về cải cách kinh tế ở Trung  Quốc
  2. Hà Nội – Năm 2020 MỞ ĐẦU Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội mà hầu hết các nước  trên thế giới phải đương đầu. Trong nền kinh tế thị trường, thất  nghiệp được biểu lộ một cách rõ nét nhất, nó là hệ quả tất yếu của  phát triển công nghiệp. Giảm tỉ lệ thất nghiệp là nhiệm vụ vĩ mô được  đặt lên hàng đầu của mọi quốc gia trên thế giới.  Thất nghiệp là tình trạng một bộ phận lao động xã hội không tiếp  cận được việc làm phù hợp với khả năng của bản thân họ, mặc dù họ  đã cố gắng tìm kiếm và chấp nhận mức thu nhập mang tính thịnh hành.   Đối với người thất nghiệp là mất thu nhập, đời sống không đảm  bảo và có thể dẫn đến tha hóa, đối với xã hội là tình trạng không tạo ra  toàn dụng lao động và từ đó không tạo ra tăng trưởng kinh tế theo  mong muốn. Do đó, chính phủ các nước đặc biệt quan tâm đến vấn đề  thất nghiệp. Chính phủ các nước có trách nhiệm phải quản lý tốt tình  trạng thất nghiệp, không để thất nghiệp xảy ra quá lớn và ảnh hưởng  xấu tới nguồn lực lao động và tới đời sống của người lao động. Tuy  nhiên, việc quản lý thất nghiệp không đơn giản, vì phụ thuộc vào lợi  ích và cách hành xử của các chủ sử dụng lao động đối với việc làm, thu  nhập của người lao động trong các hoạt động kinh doanh của họ. Để  quản lý được tình trạng thất nghiệp, chính phủ phải tác động vào cả  chủ doanh nghiệp và người lao động theo hướng đảm bảo lợi ích của  cả hai phía được lâu dài để giảm thiểu tình trạng sa thải, mất việc làm  của người lao động.  2
  3. Trung quốc là quốc gia lớn thứ hai trên thế giới, nhưng lại là quốc  gia đông dân nhất thế giới. Mặc dù kinh tế Trung Quốc có những phát  triển vượt bậc nhưng người dân Trung Quốc cũng không tránh khỏi  tình trạng thất nghiệp. Chính phủ Trung Quốc đã và đang có những  chính sách, biện pháp để nỗ lực giảm tỉ lệ thất nghiệp và bảo vệ cho  những người thất nghiệp có hiệu quả trong thời gian vừa qua. Việt Nam là một quốc gia láng giềng với Trung Quốc có những nét  tương đồng trong văn hóa, lịch sử, kinh tế... Trong những năm qua, nền  kinh tế thị trường ở nước ta ngày càng phát triển, sự phát triển của các  thành phần kinh tế trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, sự  phát triển ấy kéo theo sự mất việc làm và thất nghiệp của người lao  động, sự biến động phức tạp của thị trường và sản xuất kinh doanh  đưa đến người lao động thất nghiệp.    Bài viết “ Thực trạng giải quyết tình trạng thất nghiệp ở Trung  Quốc và bài học cho Việt Nam” tìm hiểu thực trạng thất nghiệp ở  Trung Quốc và phân tích các giải pháp của Chính phủ Trung Quốc để  giải quyết vấn đề thất nghiệp. Từ đó, vận dụng vào thực tiễn của  Việt Nam để đề xuất giải pháp giúp cho Chính phủ Việt Nam có  những chính sách nhằm giảm tỉ lệ thất nghiệp và bảo vệ được người  lao động bị thất nghiệp; đặc biệt là sau đại dịch Covid­19.  3
  4. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Thất nghiệp trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn có  việc làm mà không tìm được việc làm hoặc không được tổ chức, công ty  và cộng đồng nhận vào làm. Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người  lao động không có việc làm trên tổng số lực lượng lao động xã hội.  Các nhà kinh tế theo trường phái tự do cho rằng, thất nghiệp là vấn  đề bình thường và nó sẽ thúc đẩy bộ phận lao động đang làm việc phải  làm việc tốt hơn, có hiệu quả cao hơn và từ đó thúc đẩy kinh tế phát  triển nhanh hơn, hiệu quả hơn. Ở góc độ khác, các nhà kinh tế lại cho  rằng, thất nghiệp là tình trạng không tốt. Đối với người thất nghiệp là  mất thu nhập, đời sống không đảm bảo và có thể dẫn đến tha hóa, đối  với xã hội là tình trạng không tạo ra toàn dụng lao động và từ đó không  tạo ra tăng trưởng kinh tế theo mong muốn. Như vậy, thất nghiệp là vấn  đề mang tính 2 mặt, trong đó mặt tiêu cực là nổi trội và ảnh hưởng xấu  tới tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội và phát triển con người. Trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp lý luận rằng để giảm tỷ lệ  thất nghiệp chính phủ đã sử dụng chính sách quản lý tổng cầu, song do  tỷ lệ thất nghiệp có quan hệ ngược chiều bền vững với tỷ lệ lạm phát,  nên tăng trưởng kinh tế cao đương nhiên gây ra lạm phát. Lạm phát là  cái giá phải trả để giảm tỷ lệ thất nghiệp.     Chủ nghĩa tiền tệ đã bác bỏ lý luận nói trên của trường phái kinh tế  học vĩ mô tổng hợp. Họ cho rằng đường cong Phillips như trên chỉ là  đường cong Phillips ngắn hạn. Friedman đã đưa ra khái niệm tỷ lệ thất  nghiệp tự nhiên, theo đó khi thị trường lao động ở trạng thái cân bằng  vẫn có thất nghiệp. Hễ chính phủ áp dụng các biện pháp nhằm đưa tỷ  lệ thất nghiệp xuống dưới mức này, thì giá cả sẽ tăng lên (lạm phát).  4
  5. Sau khi lạm phát tăng tốc, cá nhân với hành vi kinh tế điển hình (hành vi  duy lý) sẽ dự tính lạm phát tiếp tục tăng tốc. Trong khi tiền công danh  nghĩa không đổi, lạm phát tăng nghĩa là tiền công thực tế trả cho họ  giảm đi. Họ sẽ giảm cung cấp lao động, thậm chí tự nguyện thất  nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp lại tăng lên đến mức tỷ lệ thất nghiệp tự  nhiên, trong khi tỷ lệ lạm phát vẫn giữ ở mức cao. Nếu nhà nước vẫn  cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức tự nhiên, cơ chế như  trên lại xảy ra. Hậu quả là, trong dài hạn, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức  tự nhiên mà tỷ lệ lạm phát lại bị nâng lên liên tục. Chính sách của nhà  nước như vậy là chỉ có tác dụng trong ngắn hạn, còn về dài hạn là thất  bại.  Các đạo luật về tiền lương tối thiểu quy định mức lương thấp nhất  mà người thuê lao động phải trả cho người lao động; thị trường lao  động phụ thuộc vào cung­ cầu. Người lao động cung ứng lao động, trong  khi đó doanh nghiệp sẽ thuê lao động (cầu lao động). Nếu không có  chính phủ can thiệp thì tiền lương sẽ điều chỉnh đến mức lương mà  lượng cung và lượng cầu bằng nhau. Ngược lại, giả sử rằng do tiền  lương tối thiểu quy định khiến tiền lương buộc phải duy trì ở mức cao  hơn tiền lương cân bằng thì lượng cung lao động tăng lên và lượng cầu  lao động giải xuống. Mức dư cung về lao động chính là số người thất  nghiệp tăng thêm. Do yêu cầu của công đoàn, tiền lương có thể tăng lên trên mức cân  bằng. Điều này khiến cho lượng cung lao động tăng và lượng cầu lao  động giảm và gây ra thất nghiệp. Theo lý thuyết tiền lương hiệu quả, doanh nghiệp sẽ hoạt động có  hiệu quả hơn nếu trả tiền lương cao hơn mức cân bằng thị trường vì  doanh nghiệp có thể có lợi nếu giữ tiền lương ở mức cao ngay cả khi có  5
  6. tình trạng dư cung về lao động. Trên một số phương diện, thất nghiệp  nảy sinh từ tiền lương hiệu quả  do việc tiền lương cao hơn mức cho  phép của cân bằng thị trường lao động. 2. Thực trạng thất nghiệp của Trung Quốc. Tình trạng khó khăn về kinh tế đang dần trở thành một cuộc khủng  hoảng chính trị đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc, đặc biệt là sức ép  phải thúc đẩy tăng trưởng hỗ trợ cho quốc gia với hơn 1,4 tỷ dân. Tỷ lệ  thất nghiệp thực tế của Trung Quốc cao hơn nhiều so với tỷ lệ chính  thức và khi được đo lường một cách chính xác, gần hơn nhiều so với tỷ  lệ thất nghiệp ở các quốc gia khác có cùng trình độ phát triển. Nghiên  cứu ước tính rằng tỷ lệ thất nghiệp thực tế trong năm 2002­2009 trung  bình là gần 11%, trong khi tỷ lệ chính thức trung bình thấp hơn một nửa.  Hơn nữa, bất chấp một số báo cáo ngược lại, đến năm 2009, thị trường  lao động của Trung Quốc vẫn chưa phục hồi sau tình trạng sa thải quá  lớn xảy ra vào cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000 khi đất  nước chuyển đổi từ nền kinh tế do chính phủ kiểm soát sang một nền  6
  7. kinh tế tư nhân và lực lượng thị trường. nhiều hơn ở chơi. Các nhà nghiên cứu Shuaizhang Feng, Yingyao Hu và Robert Moffitt  viết: “Chuỗi tỷ lệ thất nghiệp chính thức đối với Trung Quốc là không  thể tin được và là một ngoại lệ trong việc phân bổ tỷ lệ thất nghiệp  giữa các quốc gia được xếp hạng theo giai đoạn phát triển của họ”.  "Chúng tôi thấy rằng vào khoảng năm 2002, tỷ lệ thất nghiệp ở Trung  Quốc thực sự cao hơn so với các nước có thu nhập cao, hoàn toàn trái  ngược với những gì được ngụ ý trong loạt bài chính thức." Các tác giả mô tả ba giai đoạn rõ rệt trên thị trường lao động Trung  Quốc. Giai đoạn đầu ­ từ năm 1988 đến 1995 ­ được đặc trưng bởi một  nền kinh tế do các doanh nghiệp nhà nước (SOEs) thống trị. Tỷ lệ thất  nghiệp thấp: ước tính của họ cho thấy mức trung bình là 3,9% trong khi  mức trung bình chính thức là 2,5%. Sau đó, trong giai đoạn 1995­2002, tỷ  lệ thất nghiệp tăng nhanh chóng, một điểm phần trăm mỗi năm, do các  7
  8. DNNN loại bỏ một lượng lớn lao động và người di cư từ nông thôn tràn  ra các thành phố để tìm kiếm việc làm. Các DNNN đã đi từ việc sử  dụng 60% lực lượng lao động của Trung Quốc vào năm 1995 xuống  30% vào năm 2002. 3. Giải pháp giải quyết tình trạng thất nghiệp của Chính phủ Trung  Quốc Trước những thách thức lớn về tình trạng thất nghiệp gia tăng, Chính  phủ Trung Quốc đã thực hiện hàng loạt các biện pháp để giải quyết kịp  thời: Thứ nhất, phát triển ngành nghề tạo ra nhiều việc làm. Tận dụng  nguồn nguyên liệu dồi dào trong nước Trung Quốc đã phát triển ngành  nghề có thể tạo ra nhiều vị trí việc làm như ngành dệt may gia công linh  kiện để mở rộng xuất khẩu Thứ hai,phát triển kinh tế phi công hữu, cổ phần hóa DNNN. Việc  phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tập trung nhiều lao động hiện nay,  chính phủ Trung Quốc nỗ lực hỗ trợ và giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và  nhỏ về các mặt đầu tư vốn dịch vụ kỹ thuật mở rộng thị trường tư vấn  thông tin bồi dưỡng.  Chính phủ Trung Quốc đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài.  Đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng lớn nhất đến tăng trưởng kinh tế  Trung Quốc và giải quyết việc làm. Để thúc đẩy các doanh nghiệp nước  ngoài đầu tư vào trong nước, Trung Quốc đã hình thành và khuyến khích  các công ty xuyên quốc gia tăng cường vốn đầu tư trong nước khuyến  khích các nhà đầu tư nước ngoài tăng cường vốn cho các ngành nền tảng  như giao thông, năng lượng nguyên vật, nhằm tạo môi trường đầu tư  thuận lợi bằng cách duy trì ổn định các chính trị xã hội, điều chỉnh hệ  8
  9. thống pháp luật, giảm bớt các thủ tục pháp luật, giảm bớt các thủ tục  đầu tư phức tạp  Thứ ba, đầu tư phát triển nguồn nhân lực nâng cao trình độ văn hóa và  chuyên môn cho người lao động. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nêu rõ  mục tiêu chiến lược phát triển động thúc đẩy việc sáng tạo nghề nghiệp  và tạo ra việc làm và khẳng định việc làm là gốc của dân sinh và hoàn  thiện chính sách ủng hộ tự chủ sáng nghiệp, tự tìm việc làm. Tăng  cường giáo dục xây dựng nguồn nhân lực là những điều quan trọng để  biến một đất nước Trung Quốc đông dân thành một cường quốc về  nguồn nhân lực. Đây cũng là giải hệ pháp cơ bản để giải quyết vấn đề  việc làm hiện nay. Vì thế giải quyết vấn đề việc nào không có nghĩa là  bố trí một cách thụ động việc làm cho người lao động mà còn coi là quá  trình chủ động thông qua xây dựng nguồn lực nhân lực chất lượng cao. Thứ tư, kiểm soát tốc độ tăng trưởng nóng của nền kinh tế.Gần đây,  Trung Quốc đã diễn ra tình trạng mất cân bằng kinh tế; tăng trưởng  nhưng lại thiếu việc làm, tạo ra thất nghiệp ở Trung Quốc hiện nay.  Trung Quốc chủ trương thay đổi tình trạng tình trạng trong các ngành  dịch vụ giải quyết  mâu thuẫn bất hợp lý trong cơ cấu kinh tế thực hiện  các mục tiêu thông qua tăng trưởng và mở rộng việc làm. Thứ năm, Trung Quốc đầu tư quỹ bảo hiểm thất nghiệp; đảm bảo  tiêu dùng cho người lao động trong thời gian thất nghiệp. Bảo hiểm thất  nghiệp không chỉ là công cụ giải quyết vấn đề thất nghiệp trong xã hội  mà còn là chính sách giúp ổn định xã hội một cách tốt nhất; có chức năng  bảo vệ, bù đắp những tổn thất về mặt tài chính cho người lao động và  giúp họ có khả năng cũng như cơ hội quay lại thị trường làm việc. Bảo  hiểm này thất nghiệp còn có chức năng khuyến khích giúp hạn chế sự ỷ  lại của người lao động, khuyến khích họ chăm chỉ làm việc, sẵn sàng  9
  10. làm việc. Nhờ có bảo hiểm lao động, khi người lao động bị mất việc,  chủ doanh nghiệp không phải mất phí trợ cấp mất việc làm cho người  lao động nên họ sẽ sử dụng nguồn lao động thoải mái hơn, tạo động lực  phát triển sản xuất. 4. Bài học cho Việt Nam Thứ nhất, cần ban hành Luật để quy định cụ thể về chính sách việc  làm của Nhà nước. Trong đó, Nhà nước không chỉ có trách nhiệm tạo  việc làm mà phải có trách nhiệm định hướng phát triển việc làm hướng  tới thúc đẩy và bảo đảm việc làm bền vững cho người lao động; có  những quy định về các giải pháp cụ thể của Nhà nước.       Thứ hai, cần gắn kết chính sách việc làm với chính quá trình và kế  hoạch tổng thể về tái cấu trúc kinh tế theo hướng hiện đại và phát triển  bền vững. chủ động phát triển có tổ chức các thị trường lao động có  nhiều tiềm năng và hiệu quả kinh tế cao, nhất là thị trường lao động  chất lượng cao về kinh tế nông nghiệp, kinh tế biển, công nghệ thông  tin và xuất khẩu lao động.         Thứ ba, chính sách việc làm cần được thực hiện trong đồng bộ và  đồng thời, thậm chí đi trước một bước với các chính sách kinh tế khác.  Đặc biệt, công tác đào tạo nghề cần bám sát nhu cầu thị trường và đi  trước, đón đầu các quy hoạch phát triển kinh tế­ xã hội ở các địa  phương, nhất là những địa bàn có tốc độ đô thị hóa và tốc độ tái cấu trúc  kinh tế­xã hội nhanh.         Sớm bổ sung các chính sách việc làm mới, trong đó đặc biệt chú ý  phát triển nguồn nhân lực trình độ cao trong các ngành, lĩnh vực quan  trọng, có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả tăng trưởng kinh tế cao, như  kinh tế nông nghiệp sử dụng công nghệ cao, kinh tế biển, công nghệ  thông tin và xuất khẩu lao động có kỹ thuật, cũng như khai thác tốt đội  10
  11. ngũ lao động từ nước ngoài trở về nước sau khi kết thúc hợp đồng lao  động ở nước ngoài. Mặt khác, cần tạo môi trường áp lực cao để người  lao động Việt Nam khắc phục ảnh hưởng của lao động trong nền sản  xuất nhỏ, tiểu nông, manh mún, được học tập và rèn luyện trong các  trường dạy nghề trọng điểm chất lượng cao, trường đại học đẳng cấp  quốc tế, được quản lý theo mục tiêu bảo đảm chất lượng đào tạo và  gắn với nhu cầu của xã hội. Để việc triển khai dạy nghề, học nghề có hiệu quả kinh tế thực sự,  tránh hình thức và lãng phí xã hội trong quá trình triển khai các đề án đào  tạo nghề, cần bảo đảm đầu tư đủ mức theo yêu cầu dậy và học nghề,  tránh tư tưởng bình quân chủ nghĩa như kiểu “phát chẩn”, cửu đói. Mặt  khác, cần tăng cường công tác tuyên truyền, linh hoạt và thiết thực về  nội dung và phương thức đào tạo nghề, gắn với thực tế đối tượng học  nghề, cũng như gắn với chương trình việc làm cụ thể của mỗi địa  phương, để các đối tượng lao động nông thôn ở vùng sâu, vùng xa, nhất  là vùng núi không bị lúng túng trong việc xác định nghề học, sắp xếp  thời gian học. Hơn nữa, cần chú ý dạy nghề theo hướng tạo việc làm tại  chỗ, trong đó có đáp ứng nhu cầu phát triển nông nghiệp công nghệ cao,  hoặc thúc đẩy quá trình tái cấu trúc toàn diện kinh tế và xã hội nông thôn  theo tinh thần “ly nông bất ly hương”, để người lao động sống ở nông  thôn sau khi tốt nghiệp các khóa đào tạo nghề có thể tăng khả năng và  chủ động tìm kiếm, tạo lập công việc, thu nhập ngay tại quê nhà, không  phải đi xa, giảm bớt áp lực quá tải, phi kinh tế lên các đô thị.           Thứ tư, chính sách việc làm phải phát huy được các nguồn lực của  xã hội vào việc tạo việc làm và đảm bảo việc làm. Tăng cường huy  động các nguồn vốn của doanh nghiệp và các tổ chức cho đào tạo nâng  cao trình độ người lao động. Thực hiện các cơ chế, chính sách ưu để  11
  12. khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư cho đào tạo với các  hình thức khác nhau như đặt hàng với các cơ sở đào tạo, tự tổ chức đào  tạo nhân lực trong doanh nghiệp và thành lập các cơ sở đào tạo trong  doanh nghiệp để đào tạo nhân lực cho bản thân doanh nghiệp và cho xã  hội. Huy động các nguồn vốn của dân để đầu tư xây dựng cơ sở đào  tạo, tổ chức các loại quỹ khuyến học, khuyến tài... Thứ năm, sau đại dịch Covid – 19, Việt Nam là quốc gia có các biện  pháp phòng và dập dịch kịp thời, ổn định tốt nền kinh tế; tạo ra ấn  tượng tốt trên thế giới. Bên cạnh đó, sau đại dịch xuất hiện xu hướng  dịch chuyển các cơ sở, công ty sản xuất và Việt Nam là một trong những  thị trường tốt để doanh nghiệp nước ngoài đầu tư. Vì vậy, chính phủ  Việt Nam cần có những chính sách phù hợp để thu hút các nguồn đầu tư  chất lượng cao, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Tuy nhiên,  cũng cần phải chọn lọc các nguồn đầu tư về công nghệ cao nhằm nâng  cao chất lượng lao động Việt Nam. Đảm bảo hài hòa giữa sự phát triển  của doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước  ngoài. 12
  13. KẾT LUẬN Bài viết tổng hợp thực trạng thất nghiệp hiện nay tại Trung Quốc đã được  cải thiện rất nhiều từ sau năm 1990; tỉ lệ thất nghiệp giảm, nhiều người dân  có công việc hơn. Trung Quốc là một quốc gia với dân số hàng đầu thế giới  phải đứng trước rất nhiều áp lực để có thể giải quyết được tình trạng thất  nghiệp; đó là nhờ Chính phủ Trung quốc đã có những biện pháp phù hợp và  kịp thời để xử lí tình trạng thất nghiệp. Bài viết đã tìm hiểu và phân tích các  chính sách mà Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện để giải quyết vấn đề việc  làm cho người dân trong thời gian qua. Việt Nam là một quốc gia có nhiều nét tương đồng về kinh tế ­ xã hội với  Trung Quốc; chúng ta cũng đang đứng trước thách thức về vấn đề giải quyết  việc làm cho người dân. Bài viết “ Thực trạng giải quyết tình trạng thất  nghiệp ở Trung Quốc và bài học cho Việt Nam” từ việc phân tích các biện  pháp của Chính phủ Trung Quốc đã rút ra một số bài học cho Việt Nam nhằm  giảm tỉ lệ thất nghiệp, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống  cho người lao động. Đặc biệt sau đại dịch Covid – 19 không chỉ là thách thức,  khó khăn cho Việt Nam mà nó còn mở ra nhiều cơ hội mới cho quốc gia. Nó  làm dịch chuyển chuỗi sản xuất hàng hóa trên thế giới; Việt Nam cần phải  chủ động, tích cực hội nhập sâu rộng vào chuỗi sản xuất ấy để tăng thêm  việc là cho người lao động và giảm tỉ lệ thất nghiệp. 13
  14. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Kim Dũng, Nguyễn Văn Công (2016), Giáo trình Kinh tế học tập  2, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 2. Nguyễn Mai Phương (2009),  Giải pháp cho vấn đề thất nghiệp ở  Trung Quốc hiện nay, Viện nghiên cứu Trung Quốc. 3. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải  quyết việc làm ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Việt  Nam. 4. Nguyễn Hữu Dũng (1995), Luận cứ khoa học cho việc xây dựng  chính sách giải quyết việc làm của nước ta khi chuyển sang nền kinh  tế hàng hóa nhiều thành phần, Việt Nam. 14
nguon tai.lieu . vn