Xem mẫu

Tiểu luận môn học: Tin học trong quản lý kinh tế Đề bài: Câu 1: Hãy bàn luận về sự công bằng tại đơn vị nơi anh/chị công tác? Câu 2: Lấy ví dụ (giả định theo một mẫu mà anh/chị biết, không dùng tên thực và vị trí thực của người đó) về một nhân viên trong đơn vị công tác và bình luận về nhân cách của người đó thể hiện trong công việc thông qua những thành phần cấu trúc của nhân cách nổi bật nhất, đồng thời đưa ra quan điểm ứng xử của anh/chị đối với người đó? Câu 3: Hãy tự xây dựng hoặc lấy ví dụ từ thực tế tại đơn vị công tác 4 ví dụ tình huống về kỹ năng giao tiếp của nhà quản trị và bình luận về chúng? Học viên: Phạm Vũ Linh Page 1 Tiểu luận môn học: Tin học trong quản lý kinh tế Câu 1: Hãy bàn luận về sự công bằng tại đơn vị nơi anh/chị công tác? Trả lời: Công bằng là một khái niệm luôn gây ra sự tranh cãi. Quan niệm thế nào cho đúng về sự công bằng? Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội hiện nay nói chung, cần phải nhìn nhận vấn đề công bằng như thế nào, khả năng vận dụng vào thực tế ra sao để góp phần tạo nên sự phát triển bền vững cho xã hội nói chung và cho tổ chức, doanh nghiệp nói riêng. a. Vai trò ý nghĩa của sự công bằng trong tổ chức nói chung: Khi hầu hết các triết gia, luân lý gia và lý thuyết gia pháp luật đều đã gắng sức giải thích công bằng là gì, hành động công bằng, con người công bằng và quốc gia công bằng là gì, cần phải nhận định rằng họ đã không đi đến một sự đồng thuận hay sáng tỏ nào trong vấn đề này. Bản thân tôi hiểu được rằng, sự công bằng trong tổ chức liên quan đến việc đối xử không thiên vị với con người trong tổ chức. Hay theo công thức cổ xưa, công bằng là cho mỗi người cái mà anh ta xứng đáng được hưởng. Nhưng làm thế nào ta có thể biết được mỗi người xứng đáng được hưởng điều gì? theo sự công bằng phân phối, nghĩa là liên quan đến phân chia lợi ích, hay theo sự công bằng trừng phạt, nơi các lợi ích là phản lợi ích tức các hình phạt? Suốt nhiều thế kỷ người ta đã nghiên cứu về đề tài giá cả công bằng hay mức lương công bằng. Dự án đo giá trị hàng hóa thông qua lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra thứ hàng hóa đó có vẻ công bằng, bởi mỗi nhà sản xuất sẽ nhận được tỉ lệ với công sức bỏ ra. Song dự án này bất khả thi trong kinh tế thị trường, sự chuyển đổi từ một giá trị chung chung như vậy sang giá cả là không thể. Thị trường định giá, thị trường cũng định mức lương, nhưng thị trường không công bằng và không thể công bằng (nếu ai đó khẳng định thị trường là công bằng thì phải tuyên bố rằng thị trường công bằng từ định nghĩa, song hiển nhiên một giả định như thế chẳng có gì chung với những điều ta thường nghĩ ­ mặc dù không rõ ràng ­ khi nói về sự công bằng). Cung và cầu phụ thuộc vào những vận may đỏng đảnh, những trường hợp ngẫu nhiên, khủng hoảng ở một đất nước xa xôi nào đó, những thứ mốt không thể dự đoán trước v.v..., chẳng có gì là công bằng ở đây cả. Nếu thị trường chứng khoán phải tuân thủ các qui tắc công bằng thì nó sẽ không thể tồn tại. Thị trường gây ra các cuộc phá sản và khiến nhiều người mất việc. Quả thực, trong thế giới văn minh con người không chết vì đói, người thất nghiệp có trợ cấp tối thiểu, nhưng đó là các hoạt động phi thị trường của nhà nước, là phương thuốc chữa các hậu quả xấu của cơ chế thị trường. Tương tự, các áp lực xã hội về việc trả lương cũng là phi thị trường. Không thể khác Học viên: Phạm Vũ Linh Page 2 Tiểu luận môn học: Tin học trong quản lý kinh tế được, khi mà việc loại bỏ thị trường đồng nghĩa với chế độ toàn trị cùng với mọi hệ quả chính trị và kinh tế của nó, với nghèo đói và mất tự do. Có thể nói các bảo đảm của nhà nước cho nạn nhân của thị trường là tác phẩm của công bằng được không? Có thể, với giả định mỗi người được phép có các phương tiện để tồn tại, rằng sẽ là tương phản với công bằng nếu ai đó chết vì đói khi có thể ngăn ngừa được điều này. Nhưng nếu không thể ngăn ngừa được, nếu hàng nghìn người chết đói vì nội chiến hay vì sự sụp đổ của mọi cấu trúc xã hội thì sao? Khi đó từ công bằng mất nghĩa. Đối với người lao động, công bằng trong tổ chức được họ hiểu rằng: đó là tỷ lệ giữa đầu vào mà một cá nhân đóng góp cho doanh nghiệp và đầu ra là thứ mà anh ta nhận được từ doanh nghiệp trên cơ sở sự đóng góp đó. Đầu vào của nhân viên bao gồm kinh nghiệm, giáo dục, các kỹ năng đặc biệt, nỗ lực, và thời gian làm việc. Đầu ra bao gồm lương, phúc lợi, sự thăng tiến, sự công nhận hoặc bất kỳ các phần thưởng nào khác nhận được từ tổ chức. Các cá nhân sử dụng một tiến trình phức tạp để xác định điều gì là công bằng. Đầu vào thường xuyên được so sánh với đầu ra; các kỹ năng đặc biệt và các nỗ lực được so sánh với lương và sự công nhận của tổ chức mà họ cống hiến. Các cá nhân xem xét việc họ có được đối xử công bằng hay không, bằng cách so sánh tỷ lệ đầu vào/đầu ra của họ với tỷ lệ đầu vào/đầu ra của người khác. Những người khác này có thể có công việc giống nhau hoặc khác nhau, trong cùng công ty hoặc khác công ty, trong cùng ngành hoặc khác ngành. Các cá nhân sẽ luôn tạo ra các nỗ lực nhằm làm dịu đi tình trạng căng thẳng xuất phát từ việc các cá nhân nhận thức sự không công bằng. Một nhân viên có thể nhận thức được tỷ lệ phần thưởng và các nỗ lực của anh ta là ít được cân nhắc hơn tỷ lệ của người khác. Người nhân viên có thể cố gắng điều chỉnh sự bất công theo nhiều cách: giảm thiểu các nỗ lực, phối hợp với đồng nghiệp nhằm vận động cho việc tăng thêm những thù lao, đãi ngộ từ người sử dụng lao động, hoặc tìm công việc mới có lương được trả cao hơn. Khi người nhân viên được thưởng nhiều hơn so với người khác, cá nhân có thể làm việc chăm chỉ hơn những gì anh ta đã làm trước đó hoặc tình nguyện nhận thêm nhiệm vụ mới để xoá bỏ sự bất công. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sự động viên từ việc được trả thù lao cao hơn thường chỉ tồn tại trong khoảng thời gian ngắn. Cuối cùng, sự công bằng trong tổ chức dù là một doanh nghiệp, một đơn vị hành chính, quốc gia hay một tổ chức quốc tế, đóng vai trò là phương thức, cách thức làm hài lòng số đông của tổ chức hoặc các cá nhân lãnh đạo tổ chức. Nó có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển hay suy vong của tổ chức đó, điều này tùy thuộc theo từng khu vực, vùng miền và tính chất hay tôn chỉ mà tổ chức đó theo đuổi. Học viên: Phạm Vũ Linh Page 3 Tiểu luận môn học: Tin học trong quản lý kinh tế *) Liên hệ: Đối với đơn vị đang công tác là Công ty TNHH MTV 86, một đơn vị thành viên của Tổng Công ty Đông Bắc ­ Bộ Quốc Phòng, với hai nhiệm vụ chính là kinh tế và quốc phòng. Sự công bằng trong đơn vị đóng vai trò quan trọng và luôn được lãnh đạo, chỉ huy quan tâm, các thỏa ước lao động tập thể giữa người lao động và lãnh đạo chỉ huy luôn được ký kết và duy trì thực hiện hàng năm, các Quyết định khen thưởng hay kỷ luật đều dựa trên những quy định đã được ban hành, được phổ biến rộng rãi và nhận được sự đồng thuận của đa số cán bộ, công nhân viên. Sự công bằng được quan tâm đã tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các cá nhân, tập thể góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của đơn vị trong năm 2015. b. Một số những biểu hiện của sự công bằng tại Công ty TNHH MTV 86 Công bằng được biểu hiện trên hai khía cạnh chủ yếu là công bằng trong phân phối và công bằng trong thủ tục. Công bằng trong phân phối tại Công ty TNHH MTV 86 được thể hiện như sau: người lao động luôn được trả lương hàng tháng đúng thời gian quy định; mức tiền lương tiền công của người lao động được quy định rõ ràng theo thang bảng lương hệ số và ngày công, nếu một người thợ bậc cao 7/7, cùng ngày công làm việc với người thợ mới, bậc 4/7 nhưng sẽ có mức đãi ngộ tiền công, tiền lương cao hơn do sự cống hiến cũng như kinh nghiệm của họ trong công việc; một người nhân viên lâu năm hoặc hoạt động ở vị trí quan trọng hơn cũng sẽ có mức tiền công, tiền lương cao hơn so với những người nhân viên làm ở vị trí ít quan trọng hơn. Đối với các cá nhân, tập thể lao động tiên tiến, điển hình, có những thành tích luôn được khen thưởng kịp thời, đúng quy định, đối với những cá nhân vi phạm thì đều bị kỷ luật học lại an toàn, nội quy hoặc sa thải chấm dứt hợp đồng. Công bằng trong thủ tục tại Công ty TNHH MTV 86 được thể hiện ở chỗ: Hàng năm Công ty đều ban hành thỏa ước lao động tập thể, tất cả người lao động, kỹ sư mới ra trường luôn được tạo điều kiện để lao động, làm việc, học tập trong môi trường phù hợp với chuyên môn, ngành nghề mà mình được đào tạo. Đối với Công ty TNHH MTV 86 bên cạnh việc tăng lương theo định kỳ 3 năm/lần, hay qua các kỳ thi nâng bậc thợ, thì với đặc thù là đơn vị thuộc Tổng Công ty Đông Bắc ­ Bộ Quốc Phòng, những người lao động có cống hiến, có thành tích tốt trong công việc, muốn gắn bó với đơn vị lâu dài sẽ được xem xét chuyển chế độ sang CNVQP, QNCN và cao hơn nữa là Sỹ quan. Và tất cả việc trên đều được cả hội đồng gồm nhiều thành viên quan trọng của Công ty xem Học viên: Phạm Vũ Linh Page 4 Tiểu luận môn học: Tin học trong quản lý kinh tế xét, đánh giá dựa trên những quy định đã ban hành của cấp trên và của Công ty, được phổ biến cho mọi người lao động trong toàn đơn vị. c. Phân tích thực trạng sự công bằng tại Công ty TNHH MTV 86 và tác dụng của nó đối với hoạt động sản xuất đơn vị. d. Những đề xuất hoàn thiện. Câu 2: Lấy ví dụ (giả định theo một mẫu mà anh/ chị biết, không dùng tên thực và vị trí thực của người đó) về một nhân viên trong đơn vị công tác và bình luận về nhân cách của người đó thể hiện trong công việc thông qua những thành phần cấu trúc của nhân cách nổi bật nhất, đồng thời đưa ra quan điểm ứng xử của anh/ chị đối với người đó. Trả lời: Nhân cách của một người có thể được coi là toàn bộ những đặc điểm tâm lý đã ổn định của cá nhân tạo nên giá trị xã hội, hành vi xã hội của cá nhân. Khi sinh ra cá nhân chưa phải là một nhân cách mà nhân cách được hình thành trong quá trình cá nhân sống và lớn lên trong xã hội. Tùy theo điều kiện sống mà nhân cách sẽ phát triển theo chiều hướng nào. Thông thường khi ý thức phát triển dến một trình độ nào đó thì nhân cách mới bắt đầu hình thành, và phát triển theo quá trình của con người. Sự hình thành và phát triển của nhân cách phụ thuộc vào các yếu tố như: Các đặc điểm bẩm sinh di truyền, giáo dục của cả gia đình và xã hội đóng một vai trò chủ đạo, hoạt động của cá nhân, qua hoạt động giao lưu. Theo cách nhìn quen thuộc của người Việt Nam, cấu trúc nhân cách gồm hai mặt có mối liên hệ thống nhất với nhau: đức và tài hay phẩm chất và năng lực. Ví dụ về một nhân cách ở đơn vị: Anh tên Nguyễn Văn An, sinh năm 1976, là Trưởng Phòng An toàn lao động Công ty, là một người cán bộ, phụ trách mảng an toàn lao động của Công ty, Anh luôn gương mẫu chấp hành tốt mọi nội quy, quy định của công ty về giờ giấc làm việc, lễ tiết tác phong, kỷ luật trong quân đội, Trong đời sống hàng ngày thì giản dị, gần gũi, luôn quan tâm tới anh em, bạn bè, đồng nghiệp, luôn nhiệt tình với công việc, chịu khó tìm tòi những cách làm hay, sáng tạo để áp dụng vào đơn vị. và đã đạt được nhiều thành tựu, được lãnh đạo chỉ huy đơn vị tin tưởng, anh em đồng nghiệp quý mến. Tôi nhớ có lần, khi đơn vị đang gặp khó khăn trong việc nâng cao sản lượng để đáp ứng tiến độ, anh đã chủ động tìm tòi qua các tài liệu, các đơn vị Học viên: Phạm Vũ Linh Page 5 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn