Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC ĐỀ TÀI: MỐI LIÊN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI TƯ DUY VỚI ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở NƯỚC TA. Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Trần Huy Quang Sinh viên : Lê Đình Vũ Lớp : Anh 8 – Khối 3- K47-KTĐN Hà Nội, tháng 3/2009 1
  2. MỤC LỤC Trang Mở đầu................................................................................................................1 Chương 1. Lý luận và thực tiễn.......................................................................3 1.1. Khái niệm lý luận........................................................................................3 1.2. Khái niệm thực tiễn....................................................................................4 1.3. Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn......................................................6 Chương 2. Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta ...............................................................................................................................9 2.1. Lý do đổi mới...............................................................................................9 2.2. Nội dung đổi mới......................................................................................11 2.2.1. Đổi mới tư duy.........................................................................................12 2.2.2. Đổi mới kinh tế........................................................................................15 2.3. Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế..........................18 Kết luận.............................................................................................................23 2
  3. MỞ ĐẦU Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản, là linh hồn của triết học Mác - Lênin. Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, C.Mác đã phát hiện ra sức mạnh của lý luận chính là mối liên hệ của nó với thực tiễn, cũng như sức mạnh của thực tiễn là ở mối quan hệ của nó với lý luận. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là sự thống nhất biện chứng và cơ sở của sự tác động qua lại ấy chính là thực tiễn. Thực tiễn luôn luôn vận động, biến đổi, do đó lý luận cũng không ngừng đổi mới, phát triển; sự thống nhất biện chứng giữa chúng - vì thế - cũng có những nội dung cụ thể và những biểu hiện khác nhau trong mỗi thời đại, mỗi giai đoạn lịch sử. Với tư cách là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước tiến hành thành công công cuộc đổi mới, đưa nước ta bước đầu thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế. Trong công cuộc đổi mới này, Đảng xác định trước hết phải đổi mới về tư duy, trong đó, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về quá trình đổi mới ở Việt Nam, dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, chưa có nhiều công trình lý giải cặn kẽ về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta. Do đó, để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn, góp phần nghiên cứu mặt lý luận của vấn đề này, bằng những kiến thức được học từ môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin, đặc biệt là nội dung về lý luận và thực tiễn, em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa đổi mới tư duy với đổi mới kinh tế ở nước ta”. Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích vận dụng kiến thức đã học, nêu lên mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn từ đó đưa ra những nhận định, lý giải và phân tích về mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta. Đồng thời, đề tài góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học cho bản 3
  4. thân, hoàn thành chương trình học tập môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin tại trường Đại học Ngoại thương. Để đạt được mục tiêu đó, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu chung: phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp chuyên gia… Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, bố cục của đề tài bao gồm những nội dung chính sau: Chương 1: Lý luận và thực tiễn Chương 2: Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta 4
  5. Chương I Lý luận và thực tiễn 1. Khái niệm Lý luận Nhận thức là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan vào trong bộ não người một cách năng động, tích cực, sáng tạo trên cơ sở thực tiễn. Từ khi khoa học xuất hiện, cách đây khoảng hai nghìn rưởi năm, trong tư duy loài người cùng tồn tại hai cấp độ nhận thức để phản ánh các sự vật, hiện tượng với hai tầm nông - sâu khác nhau - kinh nghiệm và lý luận. Kinh nghiệm là những khái niệm hình thành tự phát và gắn liền trực tiếp với kinh nghiệm sống của mọi người, không cần qua học tập - nghiên cứu. Do đó, kinh nghiệm mang nặng tính chất cảm tính, chưa đi sâu phản ánh bản chất và các mối liên hệ tất yếu bên trong của các đối tượng. Ví dụ: nhà, chợ, cây, con, tình yêu, căm thù... Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời thể hiện như trình độ cao của nhận thức. Các khái niệm lý luận gắn liền với những hệ thống lý luận nhất định. Nếu chúng phản ánh trung thực các mối liên hệ bản chất, các quy luật vốn có của hiện thực khách quan thì những hệ thống lý luận đó chính là các học thuyết khoa học được kiểm nghiệm bằng thực tiễn (hay thực nghiệm). Trái lại, đó là những lý luận giả khoa học và sớm muộn cũng sẽ bị bác bỏ. Lý luận học có quan hệ mật thiết với rất nhiều môn khoa học khác. Trong đó, nổi bật như với triết học, lôgíc học, chính trị học, kinh tế chính trị học, xã hội học, nhân chủng học, kinh tế học, sử học, toán học… Toán học có đối tượng nghiên cứu là các quan hệ số lượng và hình dạng trong thế giới khách quan; Triết học có đối tượng nghiên cứu là các quy luật chung nhất của thế giới và nhận thức thế giới của con người; Chính trị học có đối tượng nghiên cứu là chính trị và các hình thái của chính trị; Kinh tế học có đối tượng nghiên cứu là các quan hệ sản xuất, các quy luật chi phối quá trình sản xuất, phân phối và trao 5
  6. đổi của cải vật chất của con người … Còn đối tượng nghiên cứu của Lý luận học là tư tưởng của con người và công nghệ tư duy của con người mang tính lý luận cùng những vấn đề cơ bản của lý luận nhằm cải biến thực tế khách quan vì sự phát triển của con người và đem lại lợi ích cho con người. Thực tiễn cho thấy, nhân loại phải luôn đối mặt với vấn đề lý luận ở mọi lúc, mọi nơi. Lý luận tồn tại cùng con người, có trong con người. Con người tạo ra lý luận rồi lại dùng lý luận để làm cho hoạt động thực tiễn của mình tốt đẹp hơn… Lý luận là xuyên suốt và chi phối tư duy logic, qua đó, chi phối ngày càng mạnh mẽ mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn của đời sống xã hội. Không thể đồng nhất mọi khái niệm lý luận với chân lý vì lý luận có hai dạng - khái niệm lý luận chân chính - khoa học và khái niệm lý luận giả tạo - phản khoa học. Lý luận thường mang tính hệ thống, dù là chân chính - khoa học hay giả tạo - phản khoa học. Tính hệ thống của một lý luận phản ánh - hoặc trung thực hoặc xuyên tạc tính hệ thống vốn có ở bản thân đối tượng được phản ánh, qua đó mà phản ánh trung thực hoặc xuyên tạc cấu trúc nội tại cùng với bản chất của đối tượng. Lý luận không tự thân xuất hiện, tồn tại, vận động, phát triển (hay mất đi). Xét đến cùng, giá trị cũng như sự xuất hiện, tiêu vong của một khái niệm là ở khả năng phản ánh đời sống thực tiễn một cách trung thực, chính xác và sâu sắc như thế nào và nhờ đó, nó có khả năng định hướng cho đời sống thực tiễn như thế nào. Cách tiếp cận mácxít - Lêninnít này đối lập với mọi biểu hiện của chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa chiết trung. Về vai trò của lý luận đối với cách mạng, Lênin cho rằng: không có lý luận thì xu hướng cách mạng sẽ mất quyền tồn tại và sớm hay muộn, sẽ rơi vào tình trạng phá sản về chính trị. Có nghĩa là, nếu thiếu "dự trữ lý luận" thì các chính đảng cách mạng chỉ biết "lẽo đẽo theo sau các sự biến". Điều đó đòi 6
  7. hỏi lý luận phải không ngừng được nghiên cứu, lọc bỏ, bổ sung, tích lũy trong mối liên hệ qua lại với thực tiễn. 2. Khái niệm Thực tiễn Các nhà duy vật trước Mác đã có công lớn trong việc phát triển thế giới quan duy vật và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết bất khả tri. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều hạn chế, thiếu sót, trong đó hạn chế lớn nhất là không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức. Một số nhà triết học duy tâm, tuy đã thấy được mặt năng động, sáng tạo trong hoạt động của con người nhưng cũng chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần, chứ không hiểu nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính của con người. Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những hạn chế trong các quan điểm của các nhà triết học đi trước, Mác và Ăng-ghen đã đưa ra nhận thức đúng đắn, khoa học về thực tiễn: Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử, xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội. Thực tiễn có các đặc trưng: là hoạt động vật chất, không phải hoạt động tinh thần; mang tính mục đích và có ý thức của con người; mang tính lịch sử - xã hội, tùy thuộc bối cảnh, không gian, thời gian mà thực tiễn có cách thức, phương pháp thực hiện khác nhau; hướng tới cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và từ đó cải tạo chính bản thân con người. Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, là dạng hoạt động cơ bản và phổ biến của xã hội loài người, mang tính lịch sử-xã hội cụ thể. Con người phải lao động sản xuất, chế tạo và sử dụng công cụ lao động, để tạo ra của cải vật chất nuôi sống mình. Do đó, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của quan hệ giữa con người và thế giới. Thực tiễn có các hình thức tồn tại cơ bản: hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị-xã hội; hoạt động thực nghiệm khoa học. Trong đó hoạt 7
  8. động sản xuất vật chất giữ vai trò trung tâm, tuy nhiên, các hoạt động chính trị- xã hội và thực nghiệm khoa học cũng có tính độc lập tương đối của mình. Có một số quan điểm nhầm lẫn giữa thực tiễn và hoạt động. Một số quan điểm dựa vào câu nói của C.Mác - "Đời sống xã hội, về thực chất, là có tính chất thực tiễn" - để đồng nhất hai khái niệm "thực tiễn" và "hoạt động". Tuy nhiên, hoạt động hiểu theo nghĩa chung nhất là phương thức tồn tại và phát triển hiện thực lịch sử. Câu nói mang tính nguyên tắc trên của C .Mác cần phải được hiểu là: Thực tiễn là phương thức mà con người tác động qua lại với thế giới và cải tạo thế giới đó. Mác đem quan điểm đó đối lập lại với quan điểm của chủ nghĩa duy vật trực quan của Phoiơbắc. Có quan điểm cho rằng, bất kỳ hình thức hoạt động nào cũng đều có liên quan đến thực tiễn xã hội, phục tùng nó, phát triển trên cơ sở của nó. Quan điểm khác lại coi bản thân hoạt động lý luận là thực tiễn. Thực tiễn bao giờ cũng là sự vật chất hóa các ý niệm, là phương thức chuyển cái ý niệm thành cái vật chất, còn hoạt động lý luận là quá trình ngược lại, mặc dù nó bắt nguồn từ thực tiễn. Không phải lý luận, mà chính thực tiễn là cái tạo thành bản chất của các mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên ở trong lòng xã hội. Bản thân quan hệ lý luận cần được tách biệt và lý giải dưới dạng một thành tố không thể tách rời được của thực tiễn. Song, không nên đồng nhất bản chất của quá trình với bản thân quá trình. Qua đó có thể kết luận rằng phạm trù "hoạt động", xét về ngoại điên, là rộng hơn phạm trù "thực tiễn". Vậy, vấn đề quan hệ giữa hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn với tư cách là hai lĩnh vực cơ bản nhất của hoạt động xã hội phải được hiểu như thế nào? 3. Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn Trước hết, thực tiễn là cơ sở, mục đích và động lực chủ yếu, trực tiếp của nhận thức và do đó, cũng là của lý luận. Thực tiễn cung cấp tài liệu cho nhận thức, lý luận. Mọi tri thức, lý luận, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn. Ngày nay khi khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, mối quan 8
  9. hệ này cũng không thay đổi. Bản thân khoa học chỉ có khả năng đem lại hình ảnh về thế giới với những đặc trưng, bản chất của nó. Lực lượng sản xuất vẫn tồn tại với tư cách là đối tượng của khoa học, còn khoa học vẫn tiếp tục là hình thức hoạt động tinh thần của con người, là sự phản ánh hiện thực. Lý luận luôn phục tùng thực tiễn, phục vụ thực tiễn và phát triển trên cơ sở cải tạo thực tiễn xã hội. Chỉ khi được đưa vào thực tiễn, ý niệm, tư tưởng, lý luận mới có thể "cải tạo" thế giới. Nếu dừng lại trong lĩnh vực ý thức, chúng không có khả năng cải biến một cái gì ngoài khả năng ý thức. Các tư tưởng, tự chúng, không phải là thực tiễn, mô hình lý tưởng về xã hội tương lai thiếu sự cải tạo vật chất chỉ là mô hình lý luận. Lý luận hoàn thành một chức năng nào đó trong xã hội không phải là ở ngoài khuôn khổ của thực tiễn, mà là ở bên trong bản thân thực tiễn xã hội. “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau. Lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận "như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì trong hoạt động thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hóa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động thực tiễn. “Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234 - 235). "Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 47). Làm mò mẫm chính là biểu hiện của bệnh kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới 9
  10. bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng không thể hiểu được bản chất và cũng không thể vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng không sát thực tế không phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên, Lý luận phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, "Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 235); "Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách" (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5 tr. 234). Mối liên hệ của thực tiễn với lý luận còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý, lấy thực tiễn để kiểm tra lý luận. Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý. Nhận thức khoa học còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn logic. Nhưng tiêu chuẩn logic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng, nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn. Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận là một quá trình mang tính lịch sử - xã hội cụ thể. Quan hệ giữa chúng là quan hệ biện chứng. Nắm bắt được tính chất biện chứng của quá trình đó, là tiền đề quan trọng giúp chúng ta có được lập trường thực tiễn sáng suốt, tránh được chủ nghĩa thực dụng thiển cận, cũng như chủ nghĩa giáo điều máy móc và bệnh lý luận suông. 10
  11. Chương II Mối liên hệ giữa đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay 1. Lý do đổi mới Theo Tiến sĩ Vũ Minh Khương (Đại học Havard): để vượt qua một thách thức hoặc trắc trở, con người ta thường hành động theo một trong ba mẫu thức căn bản: (I) Nỗ lực cao hơn về lượng (thời gian, nguồn lực), nhưng giữ nguyên phương cách hành động và lối tư duy cũ; (II) Đưa ra những phương cách hành động mới với nỗ lực cao hơn, nhưng vẫn giữ nguyên về căn bản lối tư duy cũ; và (III) Đổi mới tư duy, từ đó tìm thấy những phương cách hành động mới và nguồn sinh lực mới, trên cơ sở đó, có nỗ lực cao hơn hẳn về chất. Thực tiễn chỉ ra rằng, hành động của con người ta thường dừng ở mẫu thức I, một số vượt lên mẫu thức II, và chỉ rất ít đạt tới mẫu thức III. Thêm nữa, người ta thường chỉ hành động theo mẫu thức III khi đã rơi vào tình thế vô cùng khó khăn, khủng hoảng; khi mà, hành động theo mẫu thức III là không còn là sự lựa chọn tùy ý nữa mà đã trở thành mệnh lệnh bức thiết cho sự sống còn. Hành động theo mẫu thức ba, nghĩa là, đổi mới sâu sắc tư duy để tìm ra phương cách và sinh lực dồi dào cho những nỗ lực mới có ý nghĩa nền tảng và là bước đi then chốt nhằm tạo nên cục diện phát triển mới với những thuận lợi và thời cơ mà trước đó khó có thể hình dung được. Các Mác từng nhấn mạnh tầm quan trọng của đổi mới tư duy khi khẳng định rằng, chúng ta phải “căng tầm mắt đại bàng của tư duy” để suy xét và hành động, một khi tình thế đã thay đổi. Ngạn ngữ phương tây cũng có câu: “Đổi mới tư duy, Đổi thay thế giới”. Sau thắng lợi lịch sử mùa Xuân 1975, nhân dân ta tiếp tục nêu cao chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và đã đạt những thành tựu to lớn: thiết lập chính quyền nhân dân ở cả miền Nam, thống nhất nước nhà; khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh; từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới và cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; bảo vệ vững chắc Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc tế. 11
  12. Trong giai đoạn sau giải phóng, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương; công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng. Những sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan này đã dẫn đến khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội ở Việt Nam những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Tình hình kinh tế - xã hội có những khó khăn gay gắt: sản xuất tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối, lưu thông có nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp, có mặt gay gắt hơn; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống nhân dân lao động gặp nhiều khó khăn; hiện tượng tiêu cực xảy ra ở nhiều nơi và có nơi nghiêm trọng. Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu tổng quát do Đại hội lần thứ V đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Không đánh giá thấp những khó khăn khách quan, Đại hội VI nghiêm khắc chỉ ra rằng nguyên nhân chủ quan của tình hình trên đây là những sai lầm, khuyết điểm trong sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Chúng ta có khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất nước, trong việc xác định mục tiêu và bước đi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong 5 năm 1976-1980, trên thực tế đã chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết; vừa nóng vội, vừa buông lỏng trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa; chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế không còn phù hợp. Trong 5 năm 1981-1985, đã không nghiêm chỉnh thực hiện những kết luận đúng đắn của Đại hội lần thứ V của Đảng về cụ thể hoá đường 12
  13. lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên, chưa kiên quyết khắc phục chủ quan nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, lại phạm những sai lầm mới, nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông, đã buông lỏng chuyên chính vô sản trong quản lý kinh tế, xã hội, trong đấu tranh tư tưởng, văn hoá, trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù. Những sai lầm nói trên là sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và về tổ chức thực hiện. Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là những biểu hiện của tư tưởng tiểu tư sản vừa "tả" khuynh, vừa “hữu” khuynh. Những sai lầm và khuyết điểm trong lĩnh vực kinh tế, xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong công tác tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Trong lĩnh vực tư tưởng, đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và sự yếu kém về vận dụng các quy luật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Về tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là thiếu quy hoạch và chậm đổi mới cán bộ; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng, phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu; tổ chức bộ máy quá lớn, chồng chéo và kém hiệu lực; giáo dục và quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ. Trong hoàn cảnh ấy, vấn đề sống còn là đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng. Mặt khác, chính trị thế giới có nhiều biến động phức tạp, tiềm ẩn những bùng nổ, thay đổi bất lợi cho sự phát triển của nước ta theo cơ chế lúc bấy giờ. Trong tình thế cần lựa chọn, điều chỉnh, thay đổi, bằng kinh nghiệm lãnh đạo sáng suốt nhìn thẳng vào sự thật, tin tưởng vào lực lượng 13
  14. quần chúng và trách nhiệm lớn lao trước vận mệnh của Tổ quốc, Đảng ta đã kiên quyết đổi mới trên tất cả các lĩnh vực, trước hết là đổi mới về tư duy và trọng tâm là đổi mới về kinh tế. 2. Nội dung đổi mới tư duy và đổi mới kinh tế Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội lần thứ VI của Đảng đánh dấu một bước chuyển hướng và đổi mới quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cũng đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế lẫn lĩnh vực chính trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là trọng tâm. 2.1. Đổi mới tư duy, Đảng ta đã đổi mới nhận thức về: Mục tiêu, bản chất của chủ nghĩa xã hội: Đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Làm thế nào để xây dựng được chủ nghĩa xã hội? Mỗi quốc gia, dân tộc đều phải suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để làm sao vừa theo đúng quy luật chung vừa phù hợp với điều kiện, đặc điểm của nước mình. Hiện nay, nước ta còn đang ở thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, có rất nhiều vấn đề cần được nhận thức, vận dụng đúng đắn, phù hợp với thực tế và quy luật khách quan; không thể nôn nóng, giáo điều, máy móc. Chúng ta đã nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, từng bước khắc phục được một số quan niệm đơn giản, ấu trĩ, sai lầm trước đây như: nhấn mạnh một chiều vai trò của quan hệ sản xuất, của chế độ công hữu, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản, coi nhẹ những giá trị, thành tựu mà nhân loại đạt được trong chủ nghĩa tư bản; muốn nhanh chóng xóa bỏ sản xuất hàng hóa, xóa bỏ sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, v.v.. 14
  15. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Để thực hiện được mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trong thời kỳ quá độ, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; mà muốn xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội thì nhất thiết phải phát triển được lực lượng sản xuất, giải phóng triệt để sức sản xuất; đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay, giải phóng và phát triển sức sản xuất, bảo đảm cho kinh tế tăng trưởng nhanh, phát triển bền vững phải là nhiệm vụ chính trị trọng đại số một, nhiệm vụ trọng tâm. Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Đảng ta đã dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường, mô hình kinh tế tập trung bao cấp, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội: Một trong những thành tựu quan trọng đổi mới tư duy của Đảng ta là đã nhận rõ sự thống nhất biện chứng giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Tại Đại hội VI lần đầu tiên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã đặt đúng tầm vấn đề xã hội trong mối quan hệ với kinh tế. Và càng về sau Đảng ta càng khẳng định phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, coi đây là một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng mang tính quy luật của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội: Phát triển văn hóa đồng bộ và tương xứng với tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, tiến bộ chính trị, là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức mới, sự phát triển tư duy lý luận của Đảng ta. Trong nhiều nghị 15
  16. quyết, Đảng đã xác định phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, khoa học - công nghệ là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Giữ vững môi trường hòa bình, hữu nghị vì sự phát triển của đất nước: Chúng ta đã nhận thức rõ hơn các vấn đề về nội dung, tính chất thời đại, về đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước. Trong khi tiếp tục khẳng định mặc dù chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào nhưng điều đó không làm thay đổi tính chất của thời đại, chúng ta đồng thời làm rõ thêm một số nội dung chủ yếu của giai đoạn hiện nay, như vai trò của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại; toàn cầu hóa kinh tế; kinh tế tri thức; đặc điểm mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại; tính chất phức tạp và gay gắt của cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới; xu thế hòa bình hợp tác và nguy cơ chiến tranh; cục diện mới của thế giới và khu vực... Chúng ta đã đổi mới nhận thức về tình hình thế giới và khu vực; chuyển từ cách nhìn thế giới chỉ dưới góc độ một vũ đài đấu tranh sang cách nhìn toàn diện hơn; coi thế giới như môi trường tồn tại và phát triển của Việt Nam; đổi mới tư duy đối ngoại theo tinh thần "thêm bạn bớt thù", "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, độc lập và phát triển"; chủ động hội nhập và lấy việc bảo đảm lợi ích quốc gia là nguyên tắc tối cao của hội nhập. Xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa: Chúng ta từng bước nhận thức sâu sắc hơn, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa kinh tế và quốc phòng - an ninh - đối ngoại; nhận thức toàn diện hơn về khái niệm "an ninh quốc gia" và "bảo vệ Tổ quốc". An ninh quốc gia không chỉ là an ninh chính trị mà còn là an ninh kinh tế, an ninh văn hóa, an ninh tư tưởng, an ninh xã hội,... Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới... Chúng ta cũng đã bước đầu xây dựng hệ quan điểm mới về chiến tranh nhân dân, về hậu 16
  17. phương trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao; làm sáng tỏ nội dung mới của chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quốc phòng toàn dân. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị ở nước ta. Báo cáo Chính trị tại Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ: Thực chất của công cuộc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Nâng cao vai trò lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của công cuộc đổi mới cũng như toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo đúng đắn và có hiệu quả, Đảng càng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đây là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. 2.2. Đổi mới kinh tế Quan điểm Đổi Mới về kinh tế đã được hoàn thiện dần trong quá trình thực hiện. Ngày nay, Đổi Mới về kinh tế được định nghĩa là: Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể: Một là, từ quan niệm về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một nền kinh tế chủ yếu có hai thành phần xã hội chủ nghĩa (kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể) đã đi đến quan niệm về một nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế này, ngoài hai thành phần nói trên, còn có: kinh tế tư nhân (bao gồm cả cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế ấy đều là bộ phận của nền kinh tế quốc dân, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu dài, cùng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Thay đổi quan trọng nhất là kinh tế tư nhân chẳng những không bị 17
  18. kỳ thị, mà còn được thừa nhận là có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Hai là, từ quan niệm cho rằng, để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phải nhanh chóng hoàn thành cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể, tiểu chủ là những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, đã đi đến quan niệm cho rằng việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất thiết phải phù hợp với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất. Tiêu chuẩn căn bản đánh giá hiệu quả xây dựng quan hệ sản xuất mới không phải ở chỗ cải tạo nhanh hay không các thành phần kinh tế tư nhân nói trên mà là ở chỗ làm sao giải phóng và phát huy được mọi năng lực sản xuất, đẩy nhanh phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Ba là, từ quan niệm chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế độ công hữu về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) đã đi đến quan niệm về một nền kinh tế nhiều sở hữu (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân). Trong đó, không chỉ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất được thừa nhận, mà ngay chế độ công hữu cũng được hiểu không phải về tất cả các tư liệu sản xuất mà chỉ là về các tư liệu sản xuất chủ yếu để làm chỗ dựa cho nền kinh tế quốc dân. Bốn là, từ quan niệm kinh tế quốc doanh (các doanh nghiệp nhà nước) là chủ đạo đã đi đến quan niệm kinh tế nhà nước (bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và những bộ phận khác như dự trữ quốc gia, ngân sách nhà nước...) là chủ đạo. Chủ đạo không có nghĩa là các doanh nghiệp nhà nước phải chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh, độc quyền chi phối thị trường, mà là ở chỗ kinh tế nhà nước phải giữ vững vị trí then chốt trong nền kinh tế; phải mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho xã hội mới. Về hình thức sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức kinh tế phổ biến, 18
  19. thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu. Các doanh nghiệp nhà nước, kể cả các tổng công ty nhà nước, đều cần đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả, trọng tâm là cổ phần hóa. Năm là, từ quan niệm hợp tác xã thuần túy là kinh tế tập thể, cho rằng tập thể hóa tư liệu sản xuất càng mạnh, tỷ trọng sở hữu tập thể càng cao thì hợp tác xã càng gần chủ nghĩa xã hội, do đó mà gò ép những người lao động cá thể vào hợp tác xã, đã đi đến quan niệm hợp tác xã là một tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở người lao động tự nguyện góp sức, góp vốn và quản lý dân chủ, với quy mô và mức độ tập thể hóa tư liệu sản xuất khác nhau. Hình thức tổ chức các hợp tác xã trong nông nghiệp và trong các ngành hoạt động phi nông nghiệp cũng khác nhau. Ngay trong nông nghiệp, giữa các hợp tác xã nghề trồng trọt, chăn nuôi, nghề cá, nghề muối, nghề rừng cũng khác nhau. Các hợp tác xã nông nghiệp không quản lý toàn bộ các khâu trong quá trình sản xuất, kinh doanh mà phát huy vai trò tự chủ của hộ xã viên và thực hiện chức năng chủ yếu làm dịch vụ, hỗ trợ, hướng dẫn xã viên. Sáu là, từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với việc xóa bỏ nhanh các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu, đã là nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn cho hai thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, thì phải trải qua một quá trình xây dựng, củng cố và phát triển hai thành phần đó với những bước đi thích hợp. Bảy là, từ quan niệm Nhà nước phải chỉ huy nền kinh tế theo một kế hoạch tập trung với những chỉ tiêu pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến quan niệm phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh; chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản công là thuộc Nhà nước, còn chức năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp. Từ chỗ tuyệt đối hóa vai trò của kế hoạch, phủ nhận vai trò của thị trường đã đi đến thừa nhận thị trường vừa là căn cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch; kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt quan trọng trên 19
  20. bình diện vĩ mô, còn thị trường giữ vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn hình thức hoạt động và phương án tổ chức sản xuất kinh doanh. Quan niệm về hàng hóa và thị trường cũng được mở rộng, bao gồm cả tư liệu sản xuất, vốn, sức lao động, bất động sản, công nghệ, các dịch vụ như thông tin, tư vấn, tiếp thị, pháp lý, tài chính, ngân hàng, kiểm soát, bảo hiểm,... Tám là, từ quan niệm chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân phối theo lao động, đã đi đến quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Công bằng xã hội không phải thể hiện ở chủ nghĩa bình quân trong phân phối, mà là ở sự phân phối hợp lý tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Không ngăn cấm làm giàu mà trái lại, khuyến khích mọi người làm giàu một cách hợp pháp, đồng thời thực hiện xóa đói, giảm nghèo, hạn chế phân cực giàu - nghèo quá đáng. Chín là, từ quan niệm thị trường xã hội chủ nghĩa đối lập với thị trường tư bản chủ nghĩa, hạn chế quan hệ kinh tế quốc tế, đã đi đến quan niệm về một nền kinh tế mở, thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu (gia nhập WTO là đỉnh cao nhất gần đây); kết hợp nội lực với ngoại lực, lấy phát huy nội lực là chính, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực để tạo nên sức mạnh tổng hợp; thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế nhưng vẫn giữ được tính độc lập tự chủ, giữ được độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Mười là, từ chỗ quan niệm đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa đã đi đến quan niệm coi sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản, mà là thành quả phát triển qua nhiều phương thức sản xuất mặc dù đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế thị trường phát triển đến mức điển hình. Sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường 20
nguon tai.lieu . vn