- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Tiểu luận - Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam
Xem mẫu
- Tiểu luận
Mâu thuẫn biện chứng trong quá
trình xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở việt nam
1
- Mục Lục
Lời nói đầu ................................................................................................... 3
I. Lý luận chung ........................................................................................ 4
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến. .................................... 4
2. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống nhất:..................... 5
3. Chuyển hoá của các mặt đối lập: ............................................................. 8
II. Tính tất yếu của quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở việt nam .... 9
1.Kinh tế thị trường và những đặc điểm : ..................................................... 9
2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan trong quá
trình phát triển của nền kinh tế đất nước. .................................................... 11
3. Định hướng xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. ........ 13
4. Thực trạng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay ............................................................................................................. 17
III.những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta :................................. 18
1. Một số vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác- Lênin về quan hệ giữa
kinh tế với chính trị: ................................................................................... 18
2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: ........................ 22
3. Mâu thuẫn giữa hình thái sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường: . 23
4. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây d ựng con người
XHCN ................................................................................................ ........ 27
IV. kết luận ................................................................................................ 31
D anh mục tài liệu tham khảo ................................ ...................................... 32
2
- Lời nói đầu
Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội
và tư duy con người, đặc biệt trong hoạt động kinh tế,chẳn hạn như cung cầu
, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch hoá của từng xí nghiệp, từng công ty và
tính tự phát vô chính phủ của nền sản xuất hàng hoá….Mâu thuẫn tồ tại khi
sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫn hình
thành không phải chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng
mộ t lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn nay m ất đi thì mâu thuẫn khác
lại hình thanh….
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do đảng khởi xướng và lãnh đạo đã
dành được nhiều thắng lợi bước đầu mang tính quyết định, quan trọng trong
việc chuyển nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo đ ịnh hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những
chuyển biến đó đ ã đạt nhiều thành công to lớn nhưng trong những thành
công đó luôn luôn tồ n tại những mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển của công
cuộc đổi mới. đ ỏi hỏi phải được giải quyết và nếu được giải quyết sẽ thúc
đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
V ới mong muốn tìm hiểu thêm những vấn đề của nền kinh tế, quan
điểm lý luận cũng những vướng mắc trong giải pháp, quy trình xử lý các vấn
đề chính trị – x ã hộ i có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc
chuyển nền kinh tế tôi chọn “Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hộ i chủ nghĩa ở việt
nam” làm đề tài cho tiểu luận triết học Mác – Lê nin
3
- I. Lý luận chung
Tất cả các sự vật , hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt
trái ngược nhau. Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân, trong sinh vật có
đồ ng hoá và d ị hoá, trong kinh tế thị trường có cung và cầuhàng và tiền…
những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọ i là mặt đối
lập: ở đ ây tôi chia làm 4 phần.
+Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
+Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đố i lập.
+Sự chuyển hoá của các mặt đố i lập.
+Các mặt mâu thuẫn.
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
Đối lập với các quan đ iểm của triết học cũ , phép biện chứng duy vật
khẳng đ ịnh rằng tất cả các sự vật, hiện tượng tồ n tại trong thực tại khách
quan đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn .sự hình thành và phát triển của
mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật ,hiện tượng
quy định. Mâu thuẫn tồ n tại không phụ thuộc vào b ất cứ hiện tượng siêu
nhiên nào, kể cả ý chí của con người. Mỗi sự vật, hiện tượng đang tồn tại
đều là một thể thống nhất các khuynh hướng, các thuộc tính phát triển ngược
chiều nhau, đối lập nhau. Sự liên hệ, tác động qua lại, đấu tranh chuyển hoá,
bài trừ và phủ địn lẫn nhau, tạo thành động lực bên trong của mọi quá trình
vận động và phát triển khách quan của chính bản thân các sự vật hiện tượng.
Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất c ả các lĩnh vực: tự n hiên, xã
hộ i và tư duy của con người. Khoa học tự nhiên hiện đ ại chứng minh rằng
thế giới vi mô là sự thống nhất giữa những thực thể có đ iện tích trái dấu, hạt
và trường, hạt và phản hạt. Trong sinh học có hấp thụ và bài tiết, di truyền
và biến dị. Xã hội loài người có những mâu thuẫn phức tạp hơn, đó là mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng; giữa các giai cấp đối kháng giữa chủ nô và nô lệ, nông dân
4
- và địa chủ, tư sản và vô sản. Ho ạt động kinh tế mâu thuẫn cũng mang tính
phổ biến, chẳng hạn như cung và cầu , tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch
hoá của từng xí nghiệp, Công ty với tính vô chính phủ của nền kinh tế hàng
hoá,…Trong tư duy của con người cũng có những mâu thuẫn như chân lý và
sai lầm,…
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật mới xuất hiện cho tới khi sự vật kết
thúc. Trong mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ có một mà có
thể có nhiều mâu thuẫn, vì sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều m ặt đối
lập. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác hình thành. Ăngghen chính sự
vận độ ng đơn giản nhất của vật chất cũng là mộ t mâu thuẫn. V ật chất tồ n tại
ở hình thức vận động cao hơn, mâu thuẫn càng rõ nét hơn. Nó gắn liền với
sự vật, xuyên suốt quá trình phát sinh phát triển và diệt vong của sự vật. Đó
chính là những thuộc tính quy định tính khách quan và phổ biến của mâu
thuẫn.
2. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một thể thống
nhất:
Trong phép biện chứng duy vật, khái niêmk mặt đ ối lập là sự khái
quát những thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau cùng tồn tại
trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật, hiện tượng đó. Do đó cần
phân biệt rằng không phải b ất kỳ hai mặt đối lập nào cũng thành mâu thuẫn.
Bởi vì trong cùng một sự vật hiện tượng khách quan không chỉ tồn tại hai
mặt đối lập. Trong cùng một thời điểm cùng tồn tại nhiều mặt đỗi lập. Chỉ
có mặt đối lập là cùng tồn tại thố ng nhất trong cùng một sự vật như một
chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, phủ định và
chuyển hoá lẫn nhau(sự chuỷen hoá này trở thành nguồn gốc động lực, đồng
thời quy định bản chất khuynh hướng phát triển của sự vật) thì có hai mặt
đố i lập như vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu thuẫn. “ Thống nhất” của hai
mặt đối lập được hiểu không phải chúng đứng cạnh nhau mà nương tựa vào
nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng như liên hệ phụ thuộ c, quy định và ràng
5
- buộc lẫn nhau. Mặt đố i lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồ n tại
của mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đố i lập chính tạo thành
sự vật thị nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất
của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất
kỳ sự vật hiện tượng nào.
Sự thố ng nhất này là do những đặc điểm riêng có của b ản thân sự vật tạo
nên.
V í dụ: Lực lượng sản xuất- quan hệ sản xuất trong phương thức sản
xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng phát triển.
H ai điểu kiện này chính là đ iểu kiện tiền đ ề cho sự phát triển của phương
thức sản xuất. Nhưng trong quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất phải thoả mãn một số yêu cầu sau.
- Thứ nhấ t: Đó phải là mộ t khái niệm chung nhất được khái quát từ
các mặt phù hợp khác nhau phản ánh đ ược b ản chất của sự p hù hợp của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
- Thứ hai: Đ ó phải là một khái niệm “ động” phản ánh được trạng thái
biến đổi thường xuyên của sự vận động, phát triển trong quan hệ của quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
- Thứ ba: Đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngoài ý
nghĩa nhận thực, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất được coi là tho ả đáng phải có tác d ụng định hướng, chỉ đạo cho
việc xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả
năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên, khái niệm thống nhất này chỉ mang tính tượng đối. Bản
thân nội dung khái niệm đã nói lên tính chất tương đối của nó: thống nhất
của các đối lập, trong thống nhất đã bao hàm và chứa đ ựng trong nó sự đối
lập.
Đ ấu tranh các mặt đối lập:
6
- Sự thống nhất của các mặt đối lập trong cùng một sự vật hiện tượng
không tách rời đấu tranh chuyển hoá giữa chúng. Bởi vì các m ặt đối lập
cùng tồ n tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng
không nằm yên bên nhau mà điểu chỉnh chuyển hoá, bài trừ, phủ định lẫn
nhau tạo thành đ ộng lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển
hoá, bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
V í dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai cấp có đối
kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc
hậu kìm hãm nó diễn ra quyết liệt và gay gắt. Chỉ thông qua các cuộc cách
mạng xã hội b ằng rất nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới giải quyết nó một
cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đố i lập được chia thành nhiểu giai đo ạn.
Thông thường, khi nó mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung
khắc gay gắt người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên không phải
bất kỳ sự khác nhau nào cũng được coi là mâu thuẫn, chỉ có những khác
nhau cùng tồn tại trong cùng một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát
triển ngược chiều nhau, tạo thành đ ộng lực bên trong của sự phát triển thì
hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối
lập của một mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến
thành độ c lập, sự vật cũ mất đi sự vật mới hình thành. Sau khi giải quyết
được mâu thuẫn sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới
đấu tranh chuyển hoá thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật
mới xuất hiện. Cứ như thế, đấu tranh giữa các mặt đố i lập làm cho sự vật
biến đổ i không ngừng từ thấp lên cao. Chính vì vậy, Lênin khẳng định “sự
phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đố i lập”.
K hi bàn về mối quan hệ giữa sự thố ng nhất và đấu tranh của các mặt
đố i lập, Lênin chỉ ra rằng: “ mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn
tại với ý nghĩa là chính nó- nhờ có sự thố ng nhất của các mặt đối lập mà
7
- chúng ta nhận biết đ ược sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan.
Song bản thân của sự thố ng nhất chỉ là tương đối và tạm thời. Đấu tranh
giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên, liên tục
trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự vật ổn định ,
cũng như chuyển hoá nhảy vọt về chất. Lênin viết “ sự thống nhất ( phù hợp,
đồ ng nhất, tác d ụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm
thời, thoáng qua trong tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đố i lập bài trừ
lẫn nhau là tuyệt đố i cũng như sự phát triển, sự vận động tuyệt đối”.
3. Chuyển hoá của các mặt đối lập:
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đố i lập đều dẫn đến sự
chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đố i lập phát triển
đến một trình độ nhất định, hội đ ủ các đ iểu kiện cần thiết mới dẫn đến
chuyển hoá giữa chúng, bài trừ và phủ định lẫn nhau. Trong giới tự nhiên,
chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong
xã hội, chuyển hoá của các mặt đố i lập nhất thiết phải thông qua hoạt động
có ý thức của con người.
Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt đối lập
chỉ là sự hoán đ ổi vị trí m ột cách d ơn giản máy móc. Thông thường thì mâu
thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
+ Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối
lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.
V í dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu
tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới là quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất m ới ở trình độ cao hơn.
+ Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để
thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
8
- Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hộ i chủ nghĩa.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, b ất kỳ
sự vật hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những
thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh
chuyển hoá của các mặt đố i lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến trên thế giới. Mâu thuẫn
được giải quyết, sự vật cũng mất đi sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại
nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để
tạo thành sự vật mới hơn. cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan thường xuyên và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn
là nguồn gố c và động lực của mọ i quá trình phát triển.
II. Tính tất yếu của quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường ở việt nam .
1.Kinh tế thị trường và những đặc điểm :
*Khái niệm “kinh tế thị trường” Có hai ý kiến khác nhau về kinh tế
thị trường :
Một là xem “kinh tế thị trường “ là phương thức vận hành kinh tế lấy
thị trường hình thành do trao đổi và lưu thông hàng hoá làm người phân
phối các nguồn lực chủ yếu ;lấy lợi ích ,cung cầu thị trường và mua bán
giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. nó là phương thức
tổ chức vận hành kinh tế –xã hội .kinh tế thị trường là phương thức ,phương
tiện ,công cụ vận hành nền kinh tế có hiệu quả .tự nó không mang tính giai
cấp –xã hội , không tố t mà cũng không xấu .tố t hay xấu là do người sử d ụng
nó. Quan niệm này kinh tế thị trường là v ật “trung tính “;là công nghệ sản
xuất ai sử dụng cũ được .
9
- Hai là xem “kinh tế thị trường “là m ột quan hệ kinh tế - x ã hội-chính
trị ,nó in đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ trị trường .kinh tế thị
trường là một phạm trù kinh tế hoạt độ ng ,có chủ thể của quá trình hoạt
độ ng đó ,có sự tác động lẫn nhau của các chủ thể hoạt động .trong xã hộ i có
giai cấp ,chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trường không phải là cái nhân
riêng lẻ ,đó còn là những tập đoàn xã hội, những giai cấp. Sự tác động qua
lại của các chủ thể ho ạt động đó có thể có lợi cho người này, tầng lớp hay
giai cấp này; có hại cho tầng lớp hay giai cấp khác. Cho nên, kinh tế thị
trường có mặt tích cực, có mặt tiêu cực nhất định. Không thể nhấn mạnh chỉ
mộ t mặt trong hai mặt đó.
K inh tế thị trường có sự phát triển từ thấp lên cao, đ ỉnh cao nhất
trong sự phát triển của nó ở giai đ oạn đ ã qua đạt được trong chủ nghĩa tư
bản, được xã hội đó sử dụng triệt đ ể. Đó là cơ sở để trước đây nhiều người
đồ ng nhất nền kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản. Quan điểm đó được
củng cố thêm còn do quáư trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, hầu
hết các nước Xã hội chủ nghĩa đ ều kỳ thị với kinh tế thị trường, tuyệt đối
hoá nền kinh tế kế ho ạch mang tính tập trung quan liêu. Do vậy có sự đối
lập giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội. Kết quả nghiên cứu lý luận
và hoạt động thực tiễn trong những năm gần đây đã cho phép khẳng định
rằng, nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộ i phải là nền kinh tế
thị trường. Sự ra đ ời và tồ n tại của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá
độ trước hết và chủ yếu do trong thời kỳ này còn tồn tại nhiều thành phần
kinh tế, do có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh ngay trong
mộ t thành phần kinh tế, do còn có sự p hân công lao động… làm cho các đơn
vị kinh tế trở thành những người sản xuất hàng hoá và những người kinh
doanh hàng hoá độ c lập( hoặc tương đố i độc lập). Vì th, trong nền kinh tế
nhất định sẽ hình thành quan hệ hàng hoá và trao đổi hàng hoá, làm cho nền
kinh tế đó vận hành trong môi trường kinh tế thị trường.
10
- 2. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách
quan trong quá trình phát triển của nền kinh tế đất nước.
Thực tiễn vận độ ng của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho
thấy, mô hình phát triển nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung
tâm, trong bố i cảnh ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả. Mô hình này, về
đại thể có thể đáp ứng những thách thức của sự phát triển.
N ước ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là
nộ i dụng của công cuộ c đổ i mới mà hơn thế nưa còn là công cụ, là phương
thức để nước ta đi tới m ục tiêu xây dựng CNXH.
N ền kinh tế nước ta hiện nay chỉ có thể nó đang trong giai đoạn quá
đô, chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh
tế thị trường có sự q uản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN. Do
vậy, những đ ặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta, đ ương
nhiên là một vấn đề rất có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận
thức được những đ ặc đ iểm phức tạp của giai đoạn quá độ, chi phố i những
đặc đ iểm đó, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan nóng vội, duy ý
chí hoặc những khuynh hướng cực đoan, máy móc,sao chép, chấp nhận
nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài vào.
N hư chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung , bao cấp, mọi chức
năng kinh tế- xã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế
ho ạch hoá ở cấp độ quố c gia. Tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt
độ ng của sản xuất lưu thông, phân phối… khá nặng nề, ở nước ta trước đ ây,
chế độ hạch toán, trên thực tế còn nặng v ề hình thức. Lợi ích kinh tế, đ ặc
biệt là lợi ích cá nhân người lao động, mộ t động lực trực tiếp của hoạt động
xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, sự vận động của nền kinh tế
nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
K ể từ đại hội Đ ảng lần thú VI (12/1986) đến nay, theo đường lối đổi
mới, đất nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định
hướng Xã hội chủ nghĩa. Và điều đ ó có ý nghĩa là chúng ta đã đạt được
11
- những thành tựu hết sức quan trọng, những thành tựu cho phép chúng ta “
điều chỉnh và b ổ sung nhận thức, làm cho quan nịêm về chủ nghĩa xã hội
ngày càng cụ thể: đường lối chủ trương, chính sách ngày càng đ ồng bộ, có
căn cứ khoa học và thực tiễn”. Những thành tựu đó, trong mộ t chừng mực
nhất định cũng gián tiếp khả năng của nền kinh tế thị trường trong việc
năng động hoá nền kinh tế đất nước.
K inh tế thị trường, như chúng ta đã biết là một quan hệ kinh tế – xã
hộ i mà trong đó sản xuất và tái sản xuất gắn liền với thị trường, tức là gắn
chặt với quan hệ hàng hoá- tiền tệ, với quan hệ cung- cầu … Trong nền kinh
tế thị trường , nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hộ i quan hệ
hàng hoá.
N ếu như trước đây, nền kinh tế nước ta ch ỉ có một kiểu sở hữu tương
đố i thuần nhất với hai thành phần tập thể và quốc doanh, thì nay, cùng với
thành phần sở hữu chủ đạo là sở hữu Nhà nước, còn tồn tại nhiều hình thức
sở hữu khác. Những hình thức sở hữu đó, trong thực tế vận hành của nền
kinh tế, không hẳn đã đồ ng bộ với nhau, đôi khi chúng còn có mâu thuẫn với
nhau. Song về tổ ng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế,
có khả năng đáp ứng những đòi hỏ i đa dạng và năng động của nền kinh tế
thị trường.
Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc chúng ta bước
đầu sử dụng thị trường như là một công cụ, phương thức, trên thực tế đã
đem lại những kết quả tích cực cả về p hượng thức, trên thực tế đã đem lại
những kết quả tích cực cả về p hương diện thực tiễn và phương diện nhận
thức.
Mỗi hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng
ta sản xuất hàng hoá cùng với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường, hiện đ ã được chúng ta hiểu là không đối lập với CNXH.
V ới tính cách là sản phẩm của văn minh nhân loại, một cơ hội đ ể các cộng
12
- đồ ng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khách
quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, thị trường là căn
cứ, vừa là đối tượng của công tác kế hoạch hoá. Việc điều tiết vĩ mô đối với
thị thường, một mặt làm cho nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị
trường thống nhất- thố ng nhất trong cả nước và thống nhất với thị trường thế
giới- m ặt khác còn có tác dụng làm cho mỗi đơn vị kinh tế p hải tự khẳng
định khả năng và vai trò của mình trong thị trường.
Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng
ta lại cũng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của
đởi sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của
phát triển xã hội; nó có khả năng tạo ra đ iều kiện để giải quyết các vấn đề xã
hộ i. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhấ t thiết đ i liền với xã hộ i. Do vây,
những quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng CNXH với
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hộ i công bằng văn minh, nền kinh tế thị
trường nhất thiết phải có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa.
3. Định hướng xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta
hiện nay.
Chúng ta đang phấn đ ấu xây dựng mộ t nền kinh tế thị trường định
hướng xã hộ i chủ nghĩa đạt trình đ ộ kinh tế thị trường phát triển với đ ặc
trưng:
- Hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ :thị trường hàng hoá và
dịch vụ ;thị trường công nghệ , các dịch vụ thông tin ,tư vấn ,tiếp thị , p háp
lý, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, bảo lãnh; thị trường sức lao
độ ng; thị trường lao động, thị trường khoa học, kỹ thuật, công nghệ, thị
trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường chứng khoán …. Tất cả các
loại thị trường đó liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành một chỉnh thể hữu cơ.
13
- H ệ thố ng này trở thành đầu m ối mọ i tác động qua lại của hoạt động kinh tế-
xã hội.
- Mỗi thực thể kinh tế có lợi ích riêng (bao gồm xí nghiệp, tập đoàn
xã hội và cá nhân) và là chủ thể của thị trường, tham gia hoạt độ ng của thị
trường và cạnh tranh với nhau.
- Việc vận hành kinh tế-xã hộ i được thực hiên trong sự kết hợp giữa
đường lối chủ trương, chính sách, kế hoạch …. Với việc sử dụng các loại
tín hiệu kinh tế mà thị trường cung cấp, việc lưu thông tài nguyên đ ược đ iều
tiết bởi thông tin thị trường và kế hoạch cân đối sản xuất.
- Dựa trên quy luật thị trường thống nhất mà hình thành một trật tự
thị trường, sản xuất xã hội lưu thông, phân phố i và tiêu dùng với sự liên hệ
và điều tiết của đầu mối thị trường, hình thành mạng lưới sản xuất xã hộ i có
trật tự.
- Dựa vào đường lố i, hiến pháp, pháp luật và quy luật vận hành của
kinh tế thị trường, chính phủ thực hiện việc điều chỉnh và khống chế vĩ mô
cần thiết, hữu hiệu; vận hành chính sách kinh tế, pháp luật kinh tế,chỉ đạo kế
ho ạch và phương pháp hành chính cần thiết để hướng d ẫn sự phát triển của
kinh tế thị trường.
K inh tế thị trường có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế –xã hội
,không vì thế mà “kinh tế thị trường” là tất cả. thực tế đ ổi mới 12 năm qua
cho thấy ,bên cạnh tác động tích cực là cơ bản,những tác động tiêu cực do
mặt trái của kinh tế thị trường gây ra cũng hết sức nghiêm trọng, đặc biệt
trên phương diện tư tưởng, đạo đức, lối sống. Không xem trọng cuộc đấu
tranh nhằm hạn chế; khắc phục những tác động tiêu cực của kinh tế thị
trường, không làm rõ giới hạn cần có của lĩnh vực có thể “thị trường hoá”
cũng là chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
*V ề nội dung dữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh
tế và nội dung khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay,có thể suy ra đ ặc đ iểm của kinh tế thị trường định hướng
14
- xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: mọ i thành phần kinh tế đều bình đẳng trước
pháp luật; nền kinh tế ấy lấy các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu xã hội
và sở hữu tập thể làm nền tảng, lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo; lấy việc
thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh làm
mục tiêu. Muố n vậy nền kinh tế
ấy phải đảm bảo:
- Có tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, ổn định
- Giải quyết vấn đề công bằng xã hộ i phù hợp từng bước với sự tăng
trưởng kinh tế;.
- Đ ặt giơi sự lãnh đạo của đ ảng cộng sản giơi sự q uản lý của một nhà
nước thực sự của dân;
- Lấy việc giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu đ ể hoạch định
cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu;
- Làm cho kinh tế nhà nước phát triển trước hết là về chất để đóng vai
trò chủ đ ạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền
tảng;
- Xác lập, củng cố và nâng cao đ ịa vị làm chủ của người lao động
trong nền kinh tế thị trường, thực hiện công bằng xã hội ngày càng tốt hơn.
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chủ yếu là
tạo điều kiện công bằng trong phát triển con người; vừa không bình quân,
vừa phải chú trọng đến tầng lớp dễ tổn thương, những vùng khó khăn;
-Thực hiện nhiều hình thức phân phối,lấy phân phối theo kết quả lao
độ ng và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu.
H ơn nữa nền kinh tế đó phải góp phần phát huy mọi tiềm năng, mọi
sức lực xã hội; tạo đ iều kiện cho mỗi cá nhân làm giàu cho mình và cho toàn
xã hội; chấp hành mọi pháp luật,kinh doanh có văn hoá; cạnh tranh và hợp
tác một cách văn minh…
15
- Q ua nội dung trên cho thấy,tính đ ịnh hướng xã hộ i chủ nghĩa trong sự
phát triển kinh tế ở nước ta liên quan tới cả kiến trúc thượng tầng lẫn cơ sở
hạ tầng,liên qua tới cả q uan hệ sản xuất lẫn lực lượng sản xuất …..
Đ ể dữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta, nhân tố nào có ý nghĩa quyết định ? trả lời vấn
đề này có người cho rằng nhà nước là yếu tố chủ đạo trong sự phát triển của
kinh tế th ị trường. Bởi vì không thể lấy cái b ộ phận (kinh tế nhà nước) của
cái toàn thể (nền kinh tế thị trường nhiều thành phần) để định hướng sự p hát
triển của cái toàn thể đ ó. Bằng hệ thố ng pháp luật, chính sách, hệ thống
độ ng lực kích thích mà nhà nước thực hiện vai trò chủ đ ạo đố i với sự p hát
triển của nền kinh tế thị trường. Trong hệ thống công cụ đ ể nhà nước thực
hiện vai trò chủ đạo đố i với sự vận động của kinh tế, kinh tế nhà nước chỉ là
mộ t công cụ, dù có thể được xem là công cụ qua trọng nhất. Do vậy không
nên xem kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Trong giai đoạn ngày nay của thời đại, mọi nhà nước đ ều tham gia
quản lý kinh tế, định hướng phát triển kinh tế,cho nên nói vai trò chủ đạo
của nhà nước là xoá nhoà ranh giới giữa kinh tế thị trường đ ịnh hướng xã
hộ i chủ nghĩa và kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Thiết ngh ĩ, phải tìm yếu tố chủ đạo trong sự p hát triển chung của nền
kinh tế (có vai trò dẫn dắt sự phát triển c ủa các thành phần kinh tế, định
hướng sự phát triển của chúng…) ngay trên lĩnh vực kinh tế. Bởi vì, trong
khi không phủ nhận vai trò tác động mạnh m ẽ của nhà nước tơi kinh tế,
nhưng suy cho cùng sức mạnh nhà nước cũng do sức mạnh của kinh tế quyết
định. Trong đ iều kiện cụ thể ở nước ta, bộ phận chủ đạo đó là kinh tế nhà
nước, Vấn đ ề căn bản nhất, chủ chốt nhất và khó khăn nhất là làm sao kinh
tế nhà nước vươn lên năm được vai trò chủ đ ạo ? điều đó được đặt ra trong
khi kinh tế nhà nước hiện nay vẫn còn yếu kém ngay cả trên những phương
diện chủ yếu nhất cuả nó: năng suất, chất lượng, hiệu quả. Để góp phần khắc
phục tình hình đó, kinh tế nhà nước phải làm sao kết hợp được trong bản
16
- thân mình cái mạnh của tập thể, của cộng đồng và cái mạnh của cá nhân xét
cả với tư cách động lực lợi ích kinh tế, cả với tư cách thực thể-con người
kinh tế. then chốt của vấn đề này là tìm một cơ chế thích hợp vơi nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và có một đội ngũ cán bộ có đủ đức
đủ tài.
“vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước” được hiểu là : làm đòn bẩy đẩy nhanh
tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hộ i ;mở đường, hướng
dẫn,hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật
chất đ ể nhà nước thực hiện chức năng đ iều tiết và quả lý vĩ mô;tạo nền tảng
cho chế độ xã hội mới.
4. Thực trạng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay
Chúng ta đã chuyển m ột bước quan trọng sang kinh tế thị trường, nhưng
chưa kết thúc bước chuyển đó. Do vậy còn đ an xen những yếu tố của nền
kinh tế chuyển đổi. Những yếu tố của nền kinh tế thị trường văn minh còn ít
hơn là yếu tố sơ khai. Mặt khác trong xã hội chủ đã xuất hiện một số yếu tố
đi quá xa(vượt khỏi giới hạn )khuôn khổ của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Những nhân tố của nền kinh tế maphia, tính trạng
thương mại hoá giáo d ục, nhân phẩm …là những thí dụ cho sự q uá đà như
vậy.
Trình độ thấp kém, chưa đạt tới trình độ hoàn chỉnh của kinh tế thị
trường ở nước ta hiện nay biểu hiện ở chỗ : giá cả hàng hoá dịch vụ b ị bóp
méo, độ c quyền còn quá lớn, tỷ giá chưa phải do trị thường quy định; tiền
lương chưa có tính thị trường …quyền kinh doanh trên thị trường còn hạn
chế nhiều nên mất khả năng cạnh tranh. Các loại thị trường còn thiếu và
chưa đồng bộ, trước hết là thiếu thị trường lao động, thị trường tiền tệ theo
đúng nghĩa của nó. Các thể chế cho thị trường quá thiếu ; không it những thể
chế đã có chưa phù hợp, thậm chí trái với yêu cầu của thị trường, sự can
thiệp của nhà nước vào thị trường chưa thật phù hợp thậm chí trái với yêu
17
- cầu của thị trường, có tình trạng liên kết giữa bộ p hận thoái hoá trong bộ
máy nhà nước với những yếu tố tiêu cực của thị trường gây ra tham nhũng,
nợ nần chồ ng chất.
III.những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta :
1. Một số vấn đề lý luận chung của chủ nghĩa Mác- Lênin
về quan hệ giữa kinh tế với chính trị:
Theo các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lênin thì kinh tế quyết định
chính trị: “ chínhtrị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Trong lịch sử phát
triển xã hộ i loài người không phải bao giờ cũng có vấn đ ề về chính trị. Xã
hộ i nguyên thuỷ chưa có giai cấp, chưa có vấn đề chính trị. Từ khi xã hội
xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp và Nhà nước thì vấn đề chính trị mới
hình thành. Vấn đ ề chính trị là vấn đề thuộc đ ấu tranh giai cấp và đấu tranh
giai cấp. Trung tâm của chính trị là đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp, các
lức lượng xã hộ i nhằm giành và giữ chính quyền nhà nước và sử d ụng công
cụ đó làm công cụ để xây dựng và bảo vệ chế độ xã hộ i phù hợp với lợi ích
của giai cấp cầm quyền. Bản thân vấn đề chính trị ra đời hoàn toàn là do
kinh tế q uyết định. Chính trị không phải là mục đ ích, mà chỉ là phương tiện
để thực hiện mục đích kinh tế, F.Engen
Đ ã khẳng định “bạo lực chỉ là phương tiện, còn lợi ích kinh tế là mục
đích”. Trong tác phẩm “Lútvích Phoibăc và báo cáo chung của triết học cổ
điển Đức”, F.Engen đã chỉ rõ “đ ể thoả thuận lợi ích kinh tế thì quyền lực
chính trị chỉ đ ược sử d ụng là mộ t phương tiện đơn thuần.
Q uyền lực chính trị là công cụ mạnh mẽ nhất để b ảo vệ chế độ xã hội.
Sự thốngtrị về chính trị của một giai cấp nhất định là đ iều kiện đảm bảo cho
giai cấp đó thực hiện được sự thố ng trị về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, về
thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thông qua đấu tranh chính trị.
Theo F.Engen, “ bất cứ cuộc đấu tranh giai cấp nào cũng đều là đấu tranh
18
- chính trị, xét đến cùng, đều xoay quanh vấn đ ề giải phóng về kinh tế”. Để
nhấn m ạnh vai trò của chính trị V.I.Lênin đã khẳng định “ chính trị không
thể chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”. Khẳng đ ịnh đó của Lênin không
có nghĩa là phủ nhân hoàn toàn vai trò quyết đ ịnh của kinh tế đ ối với chính
trị, mà muốn nhấn m ạnh tác động tích cực của chính trị đối với kinh tế. V ấn
đề kinh tế không thể tách rời với chính trị mà nó được xem xét giải quyết
theo một lập trường chính trị nhất định. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng
kinh tế p hát triể n theo lập trường chính trị riêng của giai cấp đó nhằm phục
vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Và lập trường chính trị đúng hay
sai sẽ thúc đẩy hoặc kìm hãm sự p hát triển của nền kinh tế, V.I.Lênin còn
khẳng định “ không có mộ t lập trường chính trị đúng thì m ột giai cấp nhất
định nào đó không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó
cũng không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng
không thể hoàn thành được nhiệm vụ cuả mình trong lĩnh vực sản xuất”. Khi
thể chế chính trị không phù hợp với yêu cầ u phát triển kinh tế thì kinh tế tất
yếu sẽ mở đường đi. Khi đó việc thay đổi thể chế chính trị cho phù hợp với
yêu cầu phát triển của kinh tế là điều kiện quyết định để thúc đẩy kinh tế
phát triển. Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị là
thố ng nhất và biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định là kinh tế. Đ ây
là cơ sở phương pháp luận quan trọ ng trong việc nhận thức xã hội nói
chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói riêng.
Từ Đ ại hội đ ại biểu toàn quố c lần thứ VII( tháng 6 năm 1991). Đảng
ta đ ã khẳng định: “ về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị,
phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách
của nhân dân về đ ời số ng, việc làm và nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở
vật chất kỹ thuận của CNXH, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi
mới tổ chứcvà phương thức ho ạt độ ng của hệ thố ng chính trị, phát huy ngày
càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh vực
chính trị kinh tế, văn hoá, xã hội. Vì chính trị đụng chạm đến tất cả các mối
19
- quan hệ đặc biệt nhạy cảm và phức tạp trong xã hội, nên việc đổi mới hệ
thố ng chính trị nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn b ị rất nghiêm
túc, không cho phép gây mất ổ n đ ịnh chính trị dẫn đ ến rối loạn. Nhưng
không vì thế mà tiến hành chậm trễ đổi mới chính trị, nhất là về tổ chức bộ
máy và các bộ, các mối quan hệ giữa Đ ảng và Nhà nước và các đoàn thể
nhân dân, bởi đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hộ i và thực hiện
dân chủ”. Đ iều đó cho thấy Đảng ta đ ã không tách rời đổi mới kinh tế và
đồ ng thời đổi m ới chính trị. Đ ảng ra khẳng đ ịnh rằng phải tập trung sức làm
tốt đổi mới kinh tế và đồng thời với đổi kinh tế phải tiến hành từng bứơc đổi
mới chính trị, những phải thận trọng không gây mất ổn đ ịnh về chính trị.
Tư tưởng đã được tiếp tục phát triển một cách rõ ràng hơn ở Đ ại hội
đại biểu của toàn quố c lần thứ VIII( tháng 7 năm 1996) của Đảng ta. Khi
tổng kết các bài học của 10 năm đổi mới, Đảng ta khẳng định phải kết hợp
chặt chẽ ngay từ đ ầu đổ i mới kinh tế với đổ i mới chính trị. Đây là một bải
họ c khái quát mới, hoàn toàn khoa học. Nó vừa phù hợp với lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin vừa phù hợp với thực tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta.
Trong khi đề ra đổ i m ới chính trị, Đ ảng ta luôn nhấn mạnh phải ổn
định chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này
tưởng như một nghịch lý nhưng hoàn toàn có lý và khoa học.
ôn định về chính trị, nói cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải tăng
cường quyền lực chính trị của mình; Nhà nước của giai cấp đó phải m ạnh và
có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh; chế độ xã hộ i đã xác lập phải được
giữ vững. Đố i với nước ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ
vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng , tăng cường vai trò củ N hà
nước XHCN, bảo vệ và xây dựng thành công CNXH.
Thực tiễn thế giới cho thấy, ổn định chính trị là đ iều kiện hết sức cơ
bản để phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi trường để thu hút nguồn đầu tư trong
nước và trên thế giới, tạo đ iều kiện phát triển sản xuất kinh doanh. Những
thành tựu trong 10 năm đổi mới vừa qua ở nước ta cũng khẳng định đ iều
20
nguon tai.lieu . vn