- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Tiểu luận Lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản với việc sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong doanh nghiệp của nhà nước
Xem mẫu
- Tiểu luận
Lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản
với việc sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn trong doanh nghiệp của nhà nước
1
- MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ......................................................................................................................... 1
A. Lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản ............................................................ 2
I. Lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản. ...................................................... 2
1.Các giai đoạn biến hoá hình thái của tư bản. .......................................................... 2
1.1. Khái niệm .................................................................................................... 2
1.2. Sự vận động của tư bản ................................................................................ 2
2.Sự thống nhất của ba hình thái tuần hoàn .............................................................. 3
2.1. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ ............................................................................. 3
2.2. Tuần hoàn của tư bản sản xuất ......................................................................... 3
2.3. Tuần hoàn của tư bản hàng hóa ......................................................................... 4
II. Chu chuyển của tư bản ................................................................................. 4
1.Chu chuyển của tư bản và thời gian chu chuyển tư bản ......................................... 4
1.1. Khái niệm .................................................................................................... 4
1.2. Thời gian chu chuyển của tư bản ................................................................. 4
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chu chuyển tư bản..................................................... 7
2.1.Quá trình sản xuất .............................................................................................. 7
2.2. Quá trình lưu thông ........................................................................................... 8
3. Biện pháp đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tư bản ................................................... 8
B. Biện pháp nâng cao việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong DNNN ........... 10
I. DNNN. Vai trò của DNNN. Thực trạng còn tồn tại .......................................... 10
1. DNNN. Vai trò của DNNN. ............................................................................... 10
1.1. Khái niệm .................................................................................................. 10
1.2. Vai trò của DNNNN .................................................................................. 10
2. Những thực trạng còn tồn tại.............................................................................. 11
II. Vốn. Việc sử dụng vốn trong DNNN............................................................... 14
1. Vốn cố định ............................................................................................... 14
1.1. Hao mòn hữu hình ......................................................................... 15
1.2. Hao mò vô hình .............................................................................. 15
2. Vốn lưu động. Sử dụng vốn lưu động................................................................ 18
Kết luận................................................................................................................. 21
2
- MỞ ĐẦU
Trước năm 1986 nền kinh tế nước ta chỉ gồm hai thành phần kinh tế: Kinh tế nhà
nước và kinh tế hợp tác xã. Từ sau khi mở cửa đến nay Việt Nam đã mở rộng với sáu
thành phần kinh tế. Tuy giảm về mặt số lượng nhưng các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) luôn chứng tỏ được vai trò chủ đạo của mình, là động lực của sự phát triển nền
kinh tế.
Sự phát triển của DNNN có vai trò rất quan trọng, nó định hướng nền kinh tế theo
hướng xã hội chủ nghĩa. Và để làm được điều đó các DNNN phải thể hiện được ưu thế
vượt trội của mình so với các loại hình khác. Ưu thế vượt trội thể hiện ở việc làm ăn có
hiệu quả.
Sử dụng nguồn vốn có hiệu quả, đó là vấn đề mang tính quyết định sự phát triển
của DNNN và ảnh hưởng sự phát triển của đất nước ta. Nhìn vào sự phát triển của
DNNN ta có thể nhận biết được nền kinh tế đang hoạt động có năng động không. Đó là
lý do vì sao em quyết định chọn đề tài:"Lý luận tuần hoàn và chu chuyển tư bản với việc
sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong doanh nghiệp của nhà nước". Qua đề tài này
em muốn tìm hiểu rõ hơn về DNNN trong việc sử dụng vốn, về những thành quả đã đạt
được và những hạn chế còn tồn tại. Từ đó làm sáng tỏ hiểu biết của mình về một vấn đề
đang rất được quan tâm hiện nay.
Trong quá trình làm đề án, do còn hạn chế trong nhận thức và thời gian có hạn
nên em không thể tránh khỏi những thiếu xót. Em mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của thầy để bài đề án của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy!
3
- A. LÝ LUẬN TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN TƯ BẢN
I. TUẦN HOÀN TƯ BẢN
1. Các giai đoạn biến hoá của tư bản
1.1. Khái niệm
Tư bản là quan hệ sản xuất xã hội và nó luôn luôn vận động và lớn lên không
ngừng. Trong quá trình tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau và liên tục chuyển từ hình
thái này sang hình thái khác. Đó là sự tuần hoàn tư bản.
1.2. Sự vận động của tư bản
Tư bản vận động qua ba giai đoạn.Giai đoạn 1: Lưu thông: T- H
Đây là giai đoạn dùng tiền mua hàng hoá trên thị trường gồm tư liệu sản xuất và
sức lao động. Tư bản xuất hiện dưới hình thái tiền là tư bản tiền tệ. Đây là đặc trưng cơ
bản nhất của sản xuất tư bản chủ nghĩa khi sức lao động trở thành hàng hoáđặc biẹt có
thể trao đổi trên thị trường. Do vậy không phải tiền đẻ ra quan hệ sản xuất TBCN, mà
ngược lại quan hệ sản xuất TBCN làm cho tiền có thể trở thành tư bản.
Giai đoạn 2: Sản xuất: H- SX-…-H':Tư bản tồn tại dưới hình thái hai yếu tố tư
liệu sản xuất và sức lao động là tư bản sản xuất. Đây là giai đoạn sử dụng các yếu tố đã
mua để tổ chức quá trình sản xuất TBCN mà trong quá trình này công nhân tạo ra giá trị
và giá trị thặng dư do quá trình sản xuất tạo ra.Quá trình này cần chú ý sự kết hợp giữa
lao động và tư liệu sản xuất để đạt lợi nhuận tối đa.
Giai đoạn 3: H- T: Lưu thông: Hàng hoá so quá trình sản xuất TBCN tạo ra là tư
bản hàng hoá trong đó không phải chỉ có giá trị tư bản ứng trước mà cả giá trị thặng dư
do quá trình sản xuất tạo ra. Khi tồn tại dưới hình thái hàng hoá, tư bản chỉ thực hiện
được chức năng của hàng hoá khi nó được ván đi tức là chuyển hoá được thành tiền với
T > t.
Mỗi giai đoạn thực hiện một chức năng Tư bản tiền tệ_Tư bản sản xuất_ Tư bản
hàng hoá. Sự vận động của tư bản là một chuỗi những biến hoá khình thái của tư bản. Sự
vận động của tư bản chỉ được tiến hành bình thường khi các giai đoạn của nó diễn ra liên
tục, các hình thái tồn tại và đuợc chuyển hoá hình thái một cách đều đặn.Mỗi loại tư bản
đóng vai trò khác nhau.
Tư bản tiền tệ: Trả lương và mua nguyên liệu
Tư bản sản xuất: Tiền dùng để mua máy móc và nguyên vật liệu
Tư bản hàng hoá: Sản phẩm trong kho chờ bán
Mỗi sự gián đoạn ở một giai đoạn nào đều gây rối loạn hay đình trệ cho sự vận
động của tư bản. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến sự đình trệ đó. Tuy nhiên, trong mỗi
ngành, ở mỗi thời kì nhất định, có một mức trung bình xã hội . Thu hẹp hay kéo dài các
thời gian đó đêù ảnh hưởng tới hiệu quả của tư bản. Có thể thấy rằng các cuộc khủng
hoảng dầu mỏ, năng lượng, nguyên liệu, những trở ngại trong việc cung cấp các yếu tố
đầu vào của sản xuất, sự cố kỹ thuật, cuộc khủng hoảng về tiêu thụ sản phẩm… đều làm
4
- cho sự chuyển hoá hình thái của tư bản trong mỗi giai đoạn bị cản trở, ảnh hưởng tới hiệu
quả của tư bản.
2. Sự thống nhất của ba hình thái tuần hoàn
Trong các loại tư bản chỉ có tư bản công nghiệp mới có hình thái tuần hoàn đầy
đủ gồm ba giai đoạn, tư bản lần lượt mang lấy và trút bỏ ba hình thái của nó. Tư bản
công nghiệp là hình thái tư bản duy nhất không chỉ chiếm đoạt giá trị thặng dư mà còn
tạo ra giá trị thặng dư. Trong sự vận động của tư bản công nghiệp mỗi hình thái của tư
bản đều có thể làm điểm mở đầu và kết thúc của tuần hoàn tư bản, tạo nên các hình thái
tuần hoàn khác nhau của tư bản công nghiệp
Tuần hoàn tư bản tiền tệ:
Tuần hoàn tư bản sản xuất:
Tuần hoàn tư bản hàng hoá
2.1. Tuần hoàn của tư bản tiền tệ: T- T: Mở đầu và kết thúc đều là tiền. Sự vận
động của tư bản biểu hiện ra là sự vận động của tiền. Hàng hoá hay sản xuất chỉ là các
yếu tố trung gian không thể tránh được. Đây là hình thái đặc trưng nhất nổi bật nhất, nêu
rõ được mục đích của tuần hoàn TBCN là làm tăng giá trị và tạo ra giá trị thặng dư.
Nhưng đây là hình thái phiến diện nhất, che giấu quan hệ bóc lột TBCN.
2.2. Tuần hoàn tư bản sản xuất: SX- ….-SX. Mở đầu và kết thúc quá trình tuần
hoàn là sản xuất, vận động của tư bản biểu hiện ra là sự vận động khồng ngừng của sản
xuất hàng hoá, và tiền tệ chỉ là yếu tố trung gian, toàn bộ quá trình lưu thông H- T- H chỉ
là điều kiện cho sản xuất. Tuần hoàn của tư bản không chỉ ra được động cơ, mục đích
vận động của tư bản là tăng giá trị và tạo ra giá trị thặng dư, nhưng lại làm rõ được nguồn
gốc của tư bản. Nguồn gốc đó là lao động công nhân tích luỹ lại. Nếu chỉ xét riêng tư bản
sản xuất ta có thể bị nhầm lẫn mục đích của tư bản là sản xuất, trung tâm của vấn đề là
sản xuất nhiều và rẻ, có trao đổi là trao đổi sản phẩm để sản xuất được liên tục
2.3. Tuần hoàn tư bản hàng hoá: H-H: Mở đầu và kết thúc giai đoạn là hàng
hoá. Vận động của tư bản biểu hiện ra là sự vận động của hàng hoá. Hình thái tuâng hoàn
này nhấn mạnh vai trò của lưu thông hàng hoá và tính liên tục của lưu thông. Quá trình
sản xuất và lưu thông của tiền tệ chỉ là điều kiện cho lưu thông hàng hoá.
Quá trình tuần hoàn tư bản hàng hoá bộc lộ mối quan hệ giữa những người sản
xuất hàng hoá với nhau. Nó vạch rõ sự lưu thông hàng hoá là điều kiện thường xuyên của
sản xuất và tái sản xuất, song quá nhấn mạnh vai trò của lưu thông hàng hoá: mọi yếu tố
của quá trình sản xuất đều do lưu thông hàng hoá và chỉ gồm có hàng hoá.
Sự vận động của tư bản chủ nghĩa
Đó là sự thống nhất của ba hình thái tuần hoàn. Nếu chỉ xét riêng từng hình thái
tuần hoàn tư bản thì chỉ phản ánh phiến diện, làm nổi bật mặt này và che giấu mặt khác.
Vì vậy cần xem xét ba hình thái tuần là một thể chặt chẽ trong mối quan hệ của chúng.
II. CHU CHUYỂN TƯ BẢN
1. Chu chuyển tư bản và thời gian chu chuyển.
5
- 1.1. Khái niệm
Chu chuyển tư bản là tuần hoàn tư bản nếu ta coi đó là một quá trình định kỳ, đổi
mới và lặp đi lặp lại không ngừng. Nghiên cứu tuần hoàn tư bản là ta nghiên cứu mặt
chất của vận động của tư bản. Nghiên cứu chu chuyển là nghiên cứu mặt lượng của vận
động tư bản.
1.2. Thời gian chu chuyển của tư bản.
Là thời gian từ khi nhà tư bản ứng tư bản ra dưới một hình thái nhất định cho đến
khi thu về cũng dưới hình thái ban đầu, có kèm theo giá trị thặng dư. Tuần hoàn của tư
bản bao gồm quá trình sản xuất và quá trình lưu thông nên thời gian chu chuyển cũng do
thời gian sản xuất và thời gian lưu thông cộng lại.
Thời gian = Thời gian
+ Thời gian
chu chuyển sản xuất lưu thông
a. Thời gian sản xuất
Thời gian tư bản nằm trong giai đoạn sản xuất. Gồm : Thời gian lao động và thời
gian dự trữ sản xuất.
Thời gian lao động là thời gian người lao động tác động vào đối tượng lao động
để tạo ra sản phẩm. Đây là thời gian có ích, vì nó tạo ra giá trị cho sản phẩm.
Thời gian gián đoạn lao động là thời gian đối tượng lao động , dưới dạng bán
thành phẩm nằm trong lĩnh vực sản xuất, nhưng không có sự tác động của lao động của
tự nhiên. Thời gian gián đoạn lao động xó thể xen kẽ hoặc tách ra thành thời kì riêng biệt
với thời gian lao động và nó thể rút ngắn, dài khác nhau.
Thời gian dự trữ sản xuất là thời gian các yếu tố sản xuất đã được mua về và sẵn
sàng thời gian sản xuất, nhưng chưa thực sự được đưa vào quá trình sản xuất, còn ở dạng
dự trữ. Đó là điều kiện để quá trình sản xuất được liên tục. Trong ba thời gian trên thì chỉ
có thời gian lao động là tạo ra giá trị, nhưng thời gian dự trữ sản xuất và thời gian gián
đoạn lao động là không tránh khỏi, Vì vậy rút ngắn được thời gian này là điều kiện cơ
bản để nâng cao hiệu quả sản xuất của tư bản.
b. Thời gian lưu thông
Là thời gian tư bản nằm trong quá trình lưu thông. Thời gian lưu thông gồm thời
gian mua nguyên nhiên vật liệu và thời gian bán hàng hoá, kể cả thời gian vận chuyển.
Thời gian lưu thông phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : Tình hình thị trường, quan
hệ cung- cầu, giá cả trên thị trường, khoảng cách tới thị trường, trình độ phát triển giao
thông vận tải.....Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, không
tạo ra giá trị cho sản phẩm và giá trị thặng dư cho tư bản. Tuy nhiên, không thể thiếu sự
tồn tại của nó, vì đó là đầu vào và đầu ra của sản xuất. Rút ngắn được thời gian lưu thông
sẽ làm rút ngắn thời gian chu chuyển, làm cho quá trình sản xuất đựơc lặp lại nhanh hơn,
làm tăng hiệu quả của tuần hoàn tư bản. Ta có :
Thời gian lưu thông = Thời gian bán hàng + Thời gian mua hàng
c. Tốc độ chu chuyển tư bản
6
- Thời gian chu chuyển tư bản chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố nên thời gian
chu chuyển trong cung một ngành và giữa những ngành khác nhau là rất khác nhau. Để
so snáh được cần tính tốc độ chu chuyển tư bản. Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản có ý
nghĩa quan trọng trong việc tăng hiệu quả họat động của tư bản.
Trước hết tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cố định sẽ tiết kiệm được chi phí bảo
quản, sửa chữa tư bản cố định trong quá trình hoạt động, tránh được hao mòn vô hình và
hao mòn hữu hình, cho phép đổi mới nhanh máy móc, thiết bị có thể sử dụng quỹ khấu
hao làm quỹ dự trữ sản xuất để mở rộng sản xuất mà không cần có tư bản phụ thêm.
Đối với tư bản lưu động, việc tăng tốc độ chu chuyển hay rút ngắn thời gian chu
chuyển sẽ cho phép trết kiệm được tư bản ứng trước khi quy mô sản xuất như cũ hay có
thể mở rộng thêm sản xuất mà không cần có tư bản phụ thêm.
Ví dụ , một tư bản có thời gian chu chuyển là `10 tuần gồm 5 tuần sản xuất và 5
tuần lưu thông. Quy mô sản xuất đòi hỏi một lượng tư bản lưu động cho 5 tuần sản xuất
là: 100x5=500. Nhưng sau đó sản phẩm làm ra phải qua 5 tuần lưu thông. Do vậy, để sản
xuất liên tục phải cần một lượng tư bản lưu động khác cho 5 tuần là 100x 5 = 500, tổng
cộng là 1000. Nếu do những nhuyên nhân nào, thời gian chu chuyển rút ngắn lại còn 9
tuần với quy mô sản xuất không đổi thì tư bản lưu động cần thiết cho sản xuất cần thiết
cho sanr xuất liên tục chỉ là 100x9 = 900, tiết kiệm được 100 tư bản ứng trước. Chính vì
vậy khi mới bắt đầu kinh doanh, thực lực kinh tế còn yếu, tư bản thường được đầu tư vào
những ngành có thời gian chu chuyển ngắn như công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực
phẩm…. Chỉ khi đã trưởng thành, có vốn lớn thì tư bản với đầu tư vào những ngành có
chu kỳ kinh doanh dài như công nghiệp nặng. Đối với tư bản khả biến, việc tăng thêm tỷ
suất giá trị thặng dư hàng năm.
Ví dụ: có hai tư bản A và B, đều có tỷ suất giá trị thặng dư là m = 100%, chỉ khác
nhau ỏ thời gian chu chuyển tư bản. Tư bản A là 5 tuần ( ngành dệt) còn tư bản B là 50
tuần ( ngành đóng tàu). Để sản xuất liên tục, tư bản A cần một lượng tư bản khả biến ứng
trước là100x5 = 500, còn tư bản khả biến ứng trước là 100x 50 = 5000. Cùng với m =
100, sau 5 tuần, tư bản A tạo ra một giá trị thặng dư là 5x100= 500, sau 50 tuần tạo ra giá
trị thặng dư là 100x50= 5000( hay 500x10 vòng=5000), nhưng luôn luôn chỉ cần một
lượng tư bản khả biến ứng trước là 500 còn tư bản B, sau 50 tuần cũng tạo ra niith gúa trị
thặng dư là 100x 50 =5000, nhưng cần một lượng tư bản khả biến ứng trước là 5000.
Tỷ suất giá trị thặng dư hang năm là M với tư bản khả biến ứng trước V.
M' =M/V x100% = mxn/Vx 100% =m'.n
Trong đó: m là giá trị thặng dư tạo ra trong 1 vòng chu chuyển
m/v là tỷ suất giá trị thăngh dư thực tế
n: là số vòng chu chuyển trong năm
Ở tư bản Am tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm là:
M' = 5000/500 x 100%= 100%
7
- Như vậy mặc dù có tỷ suất giá trị thặng dư m' phản ánh trình độn bóc lột ở tư bản
A và B như nhau, nhưng tỷ suất giá trị thăng dư hàng năm M' phản ánh hiệu quả hoạt
động của hai tư bản đó lại khác nhau. Bởi vậy, việc lựa chọn ngành có thời gian chu
chuyển chắn hơn và tìm mọi cách rút ngắn thời gian của một vòng chu chuyểnlà một
trong những biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng của các doanh nghiệp. Điều đó gây
ra ảo tưởng rằng lưu thông cũng tạo ra giá trị thặng dư dho tư bản. Song thực tế không
phải vậy, chu chuyển nhanh vì do đã thu hút được nhiều lao động hơn, nhờ đó mà tạo ra
được nhiều giá trị mới trong đó có giá trị thặng dư.
Tốc độ chu chuyển tư bản bằng số vòng chu chuyển thực hiện được trong một
khoảng thời gian nhất định, ví dụ như một năm.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chu chuyển tư bản.
Gồm : Quá trình sản xuất và quá trình lưu thông
2.1 Quá trình sản xuất
Quá trình sản xuất chịu rất nhiều ảnh hưởng bởi hai nhân tố: Tư bản cố định và tư
bản lưu động.
a. Tư bản cố định
Tư bản cố định là bộ phận tham gia vào toàn bộ quá trình sản xuất nhưng giá trị
của nó được chuyển dần vào từng phần của sản phẩm lao động bao gồm : Nhà máy, máy
móc, các công trình phục vụ sản xuất. Đặc điểm của tư bản cố định là hiện vật, nó luôn
luôn bị cố định trong quá trình sản xuất, chỉ có giá trị của nó là thời gian vào quá trình
lưu thông cùng sảnphẩm và nó vũng chỉ lưu thông từng phần, còn một phần vẫn bị cố
định trong tư liệu lao động, phần này không ngừng giảm xuống cho tới khi nó chuyển hết
giá trị vào sản phẩm
b. Tư bản lưu động
Là bộ phận tư bản khi tham gia vào quá trình nó chuyển hoá oang bộ giá trị sang
sản phẩm. Đó là bộ phận tư bản bất biến dưới hình thái nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu
phụ, và đặc biệt quan trọng là sức lao động
Bộ phận tư bản này có thể hoàn lại hoàn toàn cho nhà tư bản dưới hình thái tiền tệ sau
khi đã bán hàng hoá xong
Tư bản cố định và tư bản lưu động đều có ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ chu
chuyển tư bản, cũng có nghĩa là ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất của tư bản.
Vậy hai yếu tố càng hoàn hảo thì quá trình chu chuyển tư bản càng gặp thuận lợi, tốc độ
chu chuyển tư bản càng nhanh. Và ngược lại sự không hoàn hảo của từng yếu tố sẽ cản
trở tốc độ chu chuyển.
2.2. Quá trình lưu thông
Đây là giai đoạn không tạo ra sản phẩm nhưng là quá trình không thể thiếu được.
Càng rút ngắn được quá trình này tốc độ chu chuyển của tư bản càng nhanh chóng. Quá
trình lưu thông bao gồm qúa trình bán hàng và mua hàng.Quá trình mua hàng: mua các
nguồn đầu vào, các nguyên vật liệu, lao động. Quá trình này nhanh hay chậm phụ thuộc
8
- vào khoảng cách từ nguồn cung cấp đầu vào đến nơi sản xuất, thông thường các công ty
thường xây dựng xí nghiệp sản xuất ở ngay tại nơi cung cấp nguồn nguyên liệu để hạn
chế chi phí vận chuyển cũng như thời gian vận chuyển. Quá trình bán hàng là quá trình
hàng hoá sản xuất lưu thông trên thị trường, quá trình này phụ thuộc vào chất lượng hàng
hoá và khả năng quảng cáo của từng công ty. Công việc đó càng thuận lợi thì hàng hoá
lưu thông càng nhanh. Nhưng trong giai đoạn hiện nay do toàn cầu hoá, phân công lao
động quốc tế diễn ra rất mạnh mẽ nên xuất hiện các công ty đa quốc gia, các công ty
xuyên quốc gia. Sản phẩm không chỉ lưu thông trong một quốc gia, một khu vực mà nó
còn tràn ngập trên toàn thế giới. Ví dụ như: Các sản phẩm nước giải khát Cocacola, Pepsi
của Mỹ. Các sản phẩm điện tử của Nhật rất được nhiều tiêu dùng trên toàn thế giới yêu
thích. Cũng do khoảng cách về không gian rất rộng, nên quá trình lưu thông sẽ diễn ra
chậm hơn so với ngày trước, nhưng đó không phải là điều thể hiện sự đi xuống của kinh
tế mà nó là hiện tượng khách quan, cũng như sự phát triển lớn mạnh của các tập đoàn
kinh tế.
3. Biện pháp đẩy nhanh tốc độ chu chuyển tư bản
Trong quá trình sản xuất cần rút ngắn thời gian gián đoạn lao động và thời gian
dự trữ sản xuất.Đây là thời gian không tạo ra gía trị cho sản phẩm, nhưng không thể thiếu
được. Trong thời gian gián đoạn sản xuất và thời gian dự trữ lao động có thể xảy ra hao
mòn vô hình và hao mòn hữu hình. Vì vậy càng rút ngắn được quá trình này càng hạn
chế được thiệt hại do hai loại hao mòn này gây ra, và rút ngắn được thời gian chu chuyển
tư bản. Còn thời gian sản xuất thì cần rút ngắn bằng cách nâng cao năng suất lao động và
hiệu quả lao động. Để tăng được năng suất lao động cần phải sử dụng máy móc phù hợp
với mục đích kinh doanh để đạt được hiệu quả cao nhất. Máy móc không được quá lạc
hậu nhưng cũng không quá hiện đại mà không có khả năng khai thác hết chức năng của
nó. Trong quá trình sản xuất cần tạo ra khâu sản xuất liên hoàn, như vậy sẽ hạn chế được
"thời gian chết". Vì như vậy sẽ đánh vào trách nhiệm của mọi người hơn, chỉ cần nghẽn ở
một khâu thôi sẽ gây ra cả quy trình sản xuất bị đình trệ, nên sẽ nâng cao được hiệu quả
sản xuất. Đối với thời gian lưu thông để tăng tốc độ chu chuyển cần rút ngắn khoảng
cách từ nơi cung cấp đầu vào đến nơi sản xuất. Và hàng hoá sản xuất ra lưu thông thông
suốt, không bị dư thừa, ế ẩm. Muốn làm vậy phải nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc
nâng cao chất lượng sản phẩm đóng vai trò quyết định nhưng bên cạnh đó cần chú trọng
khâu bán hàng. Để bán hàng được thuận lợi cần quan tâm đến Marketing, quảng cáo. Đây
là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng
trong giai đoạn hiện nay khi mà hàng hoá tràn ngập thị trường, có rất nhiều sự lựa chọn
cho người tiêu dùng. Vì vậy để người tiêu dùng biết đến sản phẩm và tin tưởng về chất
lượng sản phẩm đòi hỏi phải thực hiện tốt khâu này. Trong khâu này cần chú ý đến đặc
điểm tôn giáo, phong tục của từng địa phương, từng quốc gia để phù hợp được với người
sử dụng. Đó là bí quyết thành công của các doanh nghiệp.
9
- B. GIẢI PHÁP NÂNG CAO VIỆC SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ NGUỒN VỐN CỦA
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I. DOANH NGHIỆP NHÀ NỨƠC (DNNN). VAI TRÒ CỦA DNNN VÀ THỰC
TRẠNG CÒN TỒN TẠI Ở VIỆT NAM
1. DNNN. Vai trò của DNNN
1.1. Khái niệm
DNNN là các tổ chức kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh dưới sự quản lý của
nhà nước bằng các công cụ trực tiếp ( mệnh lệnh hành chính) hoặc các công cụ gián tiếp (
các công cụ kinh tế ) để định hướng sự phát triển của doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu ,
đòi hỏi của đất nước.
1.2. Vai trò của DNNN
Là lực lượng nòng cốt, chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, biểu hiện ở mặt số
lượng, chất lượng và loại hình. Hoạt động của DNNN giữ vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế. Nó là bộ phận nắm giữ cơ sở vật chất chủ yếu, huyết mạch chính của nền kinh tế
quốc dân, nơi tập trungchủ yếu những công trình, những cán bộ quản lú của đất nước, nơi
đưa lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước.
Hiện nay nứơc ta có khoảng 5280 DNNN với tổng số vốn gần 116 tỉ đồng. Xét về
mặt số lượng chỉ chiếm khoảng 17% tổng số doanh nghiệp nhưng hàng năm đóng góp từ
40%-46% trong tỉ trọng GDP cả nước. Các DNNNlà lực lượng nắm hầu hết các nguồn
lực cơ bản trong xã hội: 86,6% tổng số vốn, 85% tài sản cố định, 100% mỏ, 80% rừng,
90% lao động được đào tạohệ thống và nhận được hầu hết các ưu đãi của nhà nước so
với các thành phần kinh tế khác. Lực lượng DNNN đang là lực lượng then chốt trong sản
xuất công nghiệp, trong hoạt đọng xuất- nhập khẩu, trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng-
tín dụng. Và trong một số ngành khác như: Bưu chính viễn thôngm diện..... DNNN giữ
vai trò độc quyền
Vài năm trở lại đây, xét về mặt số lượng thì số DNNN giảm đi nhiều nhưng về
mặ chất lượng lại tăng lên đáng kể do sự năng động hơn trong cơ cấu quản lý. DNNN
luôn thể hiện vai trò chủ đạo của mình, là động lực của sự phát triển kinh tế của nứơc ta.
DNNN gồm có hai loại hình hoạt động với hai mục đích khác nhau. Doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh với mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Doanh nghiệp công ích
đặt lợi ích phục vụ xã hội là chủ yếu. Nhưng trong quá trình hoạt động cũng phải hạch
toán kinh tế, tránh làm ăn thua lỗ để nhà nước phải bù lỗ. Cần xem xét một cách toàn
diện giữa lợi ích của xã hội và lợi ích kinh tế.Như hiện nay, hoạt động của ngành vận tải
xe buýt. Với phương tiện giao thông này vừa rẻ và thuận tiện cho người dân, đồng thời
giảm ách tắc giao thông, ít gây ô nhiễm môi trường....nó đã mang lại rất nhiều lợi ích cho
xã hội. Xét trên khía cạnh kinh tế thì hàng năm nhà nước phải bù lỗ vài trăm tỉ đồng để
dịch vụ này có thể đưa vào sử dụng. Nhưng so sánh giữa lợi ích xã hội đạt được và chi
phí kinh tế bỏ ra thì lợi ích xã hội thu lại nhiều hơn. Và vì vậy, nên vừa qua nhà nước
10
- mới đầu tư thêm 20 chiếc xe nữa đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng thêm của ngươì dân
đối với dịch vụ tiện ích này.
Có thể thấy rằng DNNN đóng vai trò rất quan trọng, là động lực của sự tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
2. Những thực trạng còn tồn tại.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, các doanh nghiệp vẫn còn những tồn tại
Hiện nay, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì còn có nhiều
doanh nghiệp làm ăn không hiệu qủa và những doanh nghiệp còn lại thì bị thua lỗ nặng .
Đến năm 1999 theo báo cáo củaTổng Cục quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh
nghiệp (nay là Cục quản lý doanh nghiệp trực thuộc bộ tài chính , năm 1998 chỉ có 37%
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả; 46,6%hoạt độngkhông hiệu quả, còn lại thua lỗ. Năm
1999 số doanh nghiệp làm ăn hiệu quả chỉ còn 20%. Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở
hữu của doanh nghiệp giảm dần: 95: 19,1%; 97: 10,6%; 98: 8%. Con số trên chứng tỏ
khả năng mở rộng sinh lợi của các DNNN thấp và có xu hướng ngày càng giảm dần. ở
các doanh nghiệp tình trạng ứ đọng hàng hoá phổ biến; khả năng mở rộng sản xuất và đổi
mới công nghệ để sản xuất ra các mặt hàng có giá trị cao hơn, có khả năng xuất khẩu là
rất ít. Sản phẩm giá thành còn cao, gía xuất xưởng của nhiều loại sản phẩm chủ yếu của
nước ta cao hơn hẳn giá sản phẩm nhập khẩu. Hàng hoá của nước ta thiếu tính cạnh tranh
ngay cả trên sân nhà. Hàng năm nhà nước phải bù lỗ rất nhiều cho các doanh nghiệp nhà
nước để duy trì hoạt động. Phần lớn các DNNN vẫn chờ đợi sự bảo trợ của nhà nước,
chưa chủ động khẩn trương chuẩn bị những biện pháp thích ứng với yêu cầu hoà nhập
quốc tế theo nguyên tắc va lịch trình Chính phủ đã cam kết.So với năm 95, các chỉ tiêu
về tăng trưởng kinh tế, lợi nhuận, nộp ngân sách, khả năng cạnh tranh của DNNN có dấu
hiệu trì trệ. Trên 60% doanh nghiệp có mức vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng, trong đó 25%
có vốn dưới 1 tỷ đồng. Mức đóng góp ngân sách còn thấp xa so với nguồn lực bỏ ra, mức
nộp của từng doanh nghiệp chênh lệch nhau rất lớn, thậm chí có nhiều doanh nghiệp mức
nộp ngân sách thấp nhiều so với ngân sách hỗ trợ. Nếu quy về mặt bằng giá năm 1995
thì các chỉ tiêu lợi nhuận, nộp ngân sách của DNNN năm 97 đều giảm sút trầm trọng.
Nếu tính đủ giá đầu vào ( tài sản cố định, điện, nước…)giảm sự bảo hộ của nhà nước thì
nhiều doanh nghiệp đầu đàn như xi-măng, đường, thép, dệt, may,giấy…đều không cạnh
tranh nổi với doanh nghiệp của nước ngoài, còn các DNNN khác lại càng khó khăn hơn.
Hà Nội là một thành phố có nhiều DNNN. Năm 97 so với năm 95 doanh thu của DNNN
tăng 12,56%, nhưng mức tăng này giảm dần từ 10,1% năm 96 xuống còn 2,2% vào năm
97. Tổng lãi thực hiện của các DNNN năm 97 chỉ bằmg 78% của năm 95. Lỗ cộng dồn
năm 97 tuy có giảm 6% so với năm 96, nhưng tăng 2,3 lần so với năm 95. Tổng nộp ngân
sách của DNNN ở Hà Nội năm 97 chỉ bằng 92,76% so với 95, trong khi đó, trong ba năm
95-97 mức tăng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp là 25,22% và mức tăng của vốn
ngân sách là 43,54%, nhưng mức đóng ngân sách lại giảm, thấp hơn năm 95 là 7%. Điều
đáng chú ý là, việc tăng đóng góp vào ngân sách chủ yếu sà do tăng phần thuế tiêu thụ
11
- đặc biệt, về thực chất , là thuế do doanh nghiệp đóng hộ người tiêu dùng, không phải do
hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp. Phần thuế lợi tức thể hiện hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp thì giảm gần 19%. Hiện nay doanh nghiệp vẫn còn nhiều về số
lượng, nhỏ về quy mô và còn có sự dàn trải không cần thiết vượt quá khả năng nguồn lực
của nhà nước hiện có. Số doanh nghiệp có vốn nhà nước dưới 5 tỷ đồng chiếm khoảng
72,5%, trong đó số doanh nghiệp dưới 1 tỷ đồng chiếm 26%, và chỉ xó 19,81%số doanh
nghiệp có vốn nhà nước trên 10 tỷ đồng. Qua đó ta thấy quy mô DNNN nước ta nhỏ bé
như thế nào. Ta có bảng số liệu sau về hoạt động của DNNN:
12
- 1995 1996 1997 1998
Tỷ trọng GDP của DNNNtrong toàn bộ 40,18 40,48 40,47 40,21
nền kinh tế (%)
Tỷ trọng DNNN bị lỗ (%) 16,49 22,00 24,50 16,9
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn (%) 0,16 0,12 0,12 0,11
Tỷ suất nộp ngân sách trên vốn(%) 0,27 0,33 0,28 0,26
Tình trạng thiếu vốn của các DNNN là khá phổ biến. Có tới 60% số DNNN
không đủ vốn pháp định theo quy định tại nghị định 50/CP. Vốn thực tế hoạt động chỉ đạt
80%. Ví dụ: Tổng công ty 90 vốn nhà nước bình quân của một tổng công ty là 268 tỷ
đồng, bằng 8% mức vốn nhà nước bình quân của tổng công ty 91.Tại Hà Nội, năm 97
vốn kinh doanh bình quân của một DNNN trên địa bàn và bằng 26,3% mức vốn kinh
doanh bình quân của các doanh nhgiệp trung ương trên địa bàn ( 34,45%).
Có rất ít các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, nhưng đại đa số các doanh nghiệp
này dựa trên sự bảo hộ của nhà nước về độc quyền. Vì vậy xét thực chất thì chưa chắc
"có lãi" dựa trên năng lực thực sự về sự quản lý có hiệu quả của các doanh nghiệp.Các
doanh nghiệp này được sự ưu đãi về thuế, thương mại, dịch vụ, tín dụng, giải quyết nợ
tồn đọng, cấp giấy phép đầu tư, giao đất, quy định giá cả.... Đó là các doanh nghiệp độc
quyền trong ngành điện, bưu chính viễn thông, vận chuyển hàng không... Những doanh
nghiệp dựa trên sự độc quyền của mình tạo ragiá cả rất cao so với các nước trong khu
vực. Ví dụ: Gía điện cao hơn 50%, giá nước cao hơn 70%, thép xây dựng cao hơn
20USD/tấn, chi phí điện thoại quốc tế cao hơn so với Singapo.....
Một hiện tượng tồn tại thứ hai ở DNNN đó là : "Lãi giả, lỗ thật". Trên giấy tờ có
những doanh nghiệp làm ăn có lãi, nhưng thực ra chỉ đến khi tình trạng không thể che
giấu, bị phá sản thì mới vỡ lẽ. Và cuối cùng thì ai gánh trách nhiệm, chẳng ai cả và nhà
nước lại là người bù lỗ. Những doanh nghiệp nhà nứơc hiện nay vẫn còn nặng tư tưởng
của công, vì vậy từng cá nhân luôn đặt lợi ích của mình lên đầu tiên.Đó là hiện tượng "
Cha chung không ai khóc".Trong quá trình hoạt động không phân rõ trách nhiệm của
từng cá nhân cũng như quyền lợi của họ nếu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình,đây cũng
là nguyên nhân chính để diễn ra tình trạng đó.
II. VỐN. SỬ DỤNG VỐN CỦA DNNN.
Trong các DNNN đặc biệt doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thì tư liệu sản xuất
không mang hình thái tư bản, nó mang hình thái vốn bao gồm: Vốn cố định và vốn lưu
động.
Vốn cố định ứng với tư bản cố định, vốn lưu động ứng với tư bản lưu động
1. Vốn cố định bao gồm : Nhà xưởng, máy móc, các công trình phục vụ sản
xuất....
13
- So với những năm trước đây, DNNN hiện nay có cơ sở vật chất hạ tầng, máy
móc, trang thiết bị hiện đại hơn nhiều. Đó là điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp làm
ăn hiệu quả hơn. Tuy vậy so với các quốc gia trên thế giới, kinh tế Việt Nam còn lạc
hậu. Có những công nghệ ở các nước phát triển đã khâú hao được hết giá trị vào sản
phẩm nhưng ta vẫn nhập khẩu để sản xuất vì những công nghệ vẫn còn hiện đại đối với
nước ta, trong khi các quốc gia này tiếp tục đổi mới công nghệ, như vậy khoảng cách về
công nghệ của nước ta với các quốc gia phát triển ngày càng nới rộng. Từ đó, Việt Nam
đã chủ trương kết hợp công nghiệp hoá với hiện đại hoá nền kinh tế. Còn đối với các
doanh nghiệp thì cần cố gắng bằng nội lực đổi mới công nghệ vì đây là điểm tựa quan
ttọng để phát triển doanh nghiệp hiện đại,dù ở nước ta khả năng còn hạn chế.Quá trình
này bao gồm phát minh, sử dụng sản phẩm mới , phát triển công dụng mới của sản phẩm,
giành nguồn nguyên liệu mới hoặc mở ra thị trường mới , áp dụng công nghệ sản xuất
mới hoặc ứng dụng phương pháp quản lí mới…Đổi mới công nghệ là quá trình nhất thể
hoá khoa học kỹ thuật với kinh tế, chuyển hoá khoa học , công nghệ thành lực lượng sản
xuất đồng thời sáng tạo ra sản phẩm thương mại hoá để thoả mãn nhu cầu nhiều mặt của
thụ trường hiện đại. Do thuộc tính nội tại của kinh tế thụ trường lợi ích của doanh nghiệp
và sức cạnh tranh là nguyên nhân thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Vì vậy các
DNNN để nâng cao sức cạnh tranh thì cần phải tích cực đổi mới công nghệ. Để đổi mới
công nghệ, phải đào tạo đội ngũ cán bộ doanh nghiệp mới. Đổi ngũ những người đổi mới
công nghệ bao gồm các nhà quản lý doanh nghiệp, các cán bộ khoa học công nghệ và
công nhân lành nghề. Thiếu một vế trong đội ngũ này thì việc đổi mới công nghệ không
thể thực hiện được.
Trong quá trình hoạt động, tư bản cố định bị hao mòn đi. Xảy ra hai loại hao mòn: Hao
mòn vô hình và hao mòn hữu hình.
1.1. Hao mòn hữu hình
Hao mòn hữu hình là sự hao mòn của các tư liệu lao động do việc sử dụng chúng
trong quá trình sản xuất hoặc do sự tác động của tự nhiên. Sự hao mòn này làm tư bản cố
định mất giá trị cùng giá trị sử dụng. Vì vậy để khắc phục được tình trạng này nhằm sử
dụng có hiệu quả vốn cần tận dụng cách triệt để công suất của máy khi đưa vào hoạt
động, tránh"thời gian chết", đồng thời phải lập quỹ khấu hao để bảo dưỡng, sửa chữa ,
thay thế các bộ phận bị hư hỏng.... Sử dụng một cách hợp lý và đúng đắn là cách bảo
quản tốt nhất. Ngoài ra, vẫn cần có chi phí bảo quản khác như lao chùi, vệ sinh công
cộng, bôi trơn...Và để hạn chế sự phá huỷ của tự nhiên, tiết kiệm chi phí bảo quản, sửa
chữa thì các doanh nghiệp cần tìm cách để thu hồi nhanh tư bản cố định như nâng cao tỉ
lệ khấu hao, kéo dài thời gian làm việc.
Hiện nay chúng ta thâý rằng ở các DNNN thực hiện chế độ làm việc ba ca để
máy móc hoạt động 24/24 giờ một ngày. Như vậy sẽ tăng được thời gian sử dụng máy,
hạn chế được sự tác động của tự nhiên. Cũng cần có biện pháp khác như tăng chi phí để
cai thiện vệ sinh và điều kiện nơi làm việc ( hệ thống ánh sáng, thông gió, chống ô
14
- nhiễm....). Những hao mòn này hữu hình chúng ta có thể nhận ra, nhưng hao mòn vô
hình chúng ta không thể nhìn thấy được. Trong quá trình sản xuất cần chú ý loại hao mòn
này, nó có ý nghĩa rất quan trọng.
1.2.Hao mòn vô hình
Hao mòn vô hình là hao mòn thuần tuý xét về mặt giá trị do hai nguyên nhân.
Thứ nhất , do sự tăng năng suất lao động xã hội, nên giá thành sản phẩm giảm đi dù chất
lượng không thay đổi, làm cho những máy móc cũ đang sử dụng mặc dù giá trị sử dụng
còn nguyên nhưng giá trị đã giảm xuống. Ví dụ như: mua chiếc xe máy Dream lúc đầu
20 triệu, nhưng hiện giờ vẫn là chiếc xe đó nhưng giá chỉ còn lại 15 triệu đồng. Như vậy
người mua xe lúc đầu coi như đã mất đi 5 triệu đồng dù chiếc xe còn nguyên giá trị sử
dụng.
Thứ hai, do khoa học kỹ thuật phát triển, máy móc ra đời sau luôn luôn tối tân
hơn. Vì vậy trên thực tế giá trị của máy móc trước đó lại giảm giá trị. Vẫn lấy ví dụ là
chiếc xe máy. Nhiều năm về trước chiếc Dream Thái rất phổ biến ở Việt Nam với giá
khoảng 27 triệu đồng. Nhưng hiện tại loại xe này không còn được thông dụng nữa, và nó
được thay thế bởi các loại xe có giá trị tương đương nhưng đa dạng về mẫu mã, kiểu
dáng như Attila, Jupiter...Qua sự phân tích trên ta thấy rằng hao mòn vô hình là không
thể tránh khỏi nên trong quá trình sản xuất phải đặc biệt phải chú ý đến hao mòn vô hình.
Ngày nay do sự tác động của khoa học kĩ thuật tư bản cố định càng có nguy cơ hao mòn
vô hình. Để khắc phục tình trạng này thì các DNNN cần:
Thứ nhất, phải tìm mọi cách để khấu hao nhanh tư bản cố định. Tỉ lệ khấu hao
thường được tính rất cao ngay từ những năm đầu chế tạo sả phẩm mới, lợi dụng giá sản
phẩm cao ở ầu chu kỳ sản phẩm, sau đó giảm dần khấu hao cùng với việc giảm giá sản
phẩm cuối chu kỳ của nó. Đối với những doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ việc đổi mới
tư bản cố định dễ dàng hơn đối với các doanh nghiệp quy mô lớn. Các doanh nghiệp này
cần phải có sự nhạy bén, năng động trong kinh doanh và cơ cấu tổ chức chặt chẽ thì mới
thực hiện tốt được điều này.
Thứ hai, DNNN phải đặc biệt chú ý trong khâu mua, chuyển giao công nghệ phải
phù hợp với mục đích sản xuất kinh doanh và phù hợp với thời đại, tránh mua những
công nghệ lạc hậu hoặc những công nghệ quá hiện đại mà chưa có khả năng khai thác
một cách có hiệu quả. Thực tế đã cho thấy, trong quá trình mua và chuyển giao công
nghệ, Việt Nam đã gặp những thất bạinặng nề.
Ví dụ : 1972 Nhà nước xây dựng nhà máy sản xuất Diezen ở Sông Công. Các
máy móc, thiết bị mua từ Liên Bang Xô Viết. Nhưng nhà máy cũng chưa một ngày đưa
vào sản xuất vì sản phẩm sản xuất ra có giá thành cao hơn rất nhiều so với các nước có
cùng sản phẩm như Nhật, Đài Loan…Đó là sự lựa chọn công nghệ không phù hợp với
điều kiện của Việt Nam, áp dụng cách máy móc điều kiện của Xô Viết vào Việt Nam.
Bên cạnh đó cũng do trình độ khoa học kĩ thuật còn hạn chế nên khi mua công nghệ đã bị
"lừa", những công nghệ nhập về đã quá lỗi thời, không còn phù hợp.Qua những phân tích
15
- trên ta thấy các doanh nghiệp khi tính toán việc chuyển giao giá trị tư bản cố định vào
sản phẩm cần tính đến tới cả hai hìh thức hao mòn này, nhất là hao mòn vô hình, nhằm
đảm bảo thu hồi được tư bản cố định đã sử dụng và góp phần rút ngắn khoảng cách lạc
hậu về các thế hệ kĩ thuật và công nghệ. Không thể tránh khỏi hao mòn về vốn cố định vì
vậy trong quá trình sản xuất cần lập quỹ khấu hao để bổ sung vào những hao mòn.Việc
khấu hao sản phẩm có nhiều cách tính. Tuỳ thuộc vào điều kiện sản xuất của từng doanh
nghiệp cũng như các máy móc doanh nghiệp sử dụng mà có những hình thức khấu hao
khác nhau. Các loại khấu hao bao gồm:Khấu hao theo đường thẳng, khấu hao giảm dần,
và khấu hao theo sản lượng.
Khấu hao theo đường thẳng được xác định như sau:
Mức khấu hao trung bình; hàng năm của vốn cố định = Error!
Khấu hao giảm dần gồm hai loại khấu hao: Khấu hao bình quân nhân đôi và khấn
haotheo tổng số năm hữu dụng
Khấu hao bình quân nhân đôi được tính theo số dư bình quân giảm dần, cơ sở tính
mức khấu hao là tỷ lệ khấu hao xác định theo phương pháp khấu hao theo đường thẳng
và giá trị còn lại của vốn cố định
Tỉ lệ khấu hao vốn cố định = Tỉ lệ khấu hao bình quân x 2
Phương pháp khấu hao theo tổng số năm hữu dụng, phương pháp đòi hỏi phải
tính tỉ lệ khấu hao cho từng năm sử dụng của vốn cố định
Tỉ lệ khấu hao vốn cố định năm thứ i = Error!
Trong đó : t là thời gian hữu dụng của vốn cố định
t' là thời điểm ( năm thứ i ) cần trích khấu hao
Mức khấu haovốn cố định năm thứ i = Nguyên giá vốn cố định x Tỷ lệ khấu hao
năm thứ i.
Phương pháp khấu hao theo sản lượng: Phương pháp này đòi hỏi phải xác định
được mức khấu hao tính cho một đơn vị sản lượng dự kiến, từ đó căn cứ vào sản lượng
thực tế thực hiện khi sử dụng tài sản để xác định mức khấu hao cho phải trích hàng năm.
Mức khấu hao tính cho đơn vị sản phẩm= Nguyên giá vốn cố định/ tổng sản phẩm
dự kiến.
Mỗi doanh nghiệp lựa chọn cho mình một hình thức khấu hao khác nhau phù hợp
với công dụng, cách thức sử dụng vốn phù hợp nhằm thu được lợi ích kinh tế trong qúa
trình sử dụng. Đối với nhà cửa , vật liệu kiến trúc, các tài sản vô hình… áp dụng phương
pháp khấu hao theo đường thẳng. Đối với máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải thường
gắn liền với quá trình sản xuất kinh doanh, tính năng công suất sử dụng bị giảm dần
trong quá trình sử dụng cho phép áp dụng phương pháp khấu hao theo sản lượng hoặc
phương pháp khấu hao giảm dần. Dụng cụ , thiết bị thường chịu tác động của hao mòn
vô hình nhiều áp dụng phương pháp khấu hao giảm dần.
2. Vốn lưu động. Sử dụng vốn lưu động
16
- Vốn lưu động gồm: Lao động và nguyên , nhiên vật liệu.
Việt Nam là quốc gia có ưu thế lớn về nguồn lao động và tài nguyên thiên nhiên.
Nguồn lao động nước ta dồi dào, trẻ, giá rẻ. Nhưng bên cạnh thuận lợi đó thì chúng ta
phải đối mặt với một thách thức lớn đó là giải quyết việc làm cho nguồn lao động này.Tỉ
lệ thất nghiệp ở nước ta khá cao, lượng thất nghiệp này chủ yếu là lao động phổ thông và
cử nhân đại học và cao đẳng. Lượng lao động này thì dư thừa trong khi lượng lao động
có tay nghề thiếu trầm trọng. Vì vậy hầu hết các doanh nghiệp khi tuyển lao động đều
đào tạo để phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. Thứ hai, tài nguyên thiên nhiên nước
ta đa dạng phong phú. Tuy vậy sản lượng này có hạn, nên phải sử dụng một cách hợp lý.
Đó là ở tầm vĩ mô, còn đối với các doanh nghiệp khi tiết kiệm được càng nhiều nguồn
đầu vào càng giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm. Để sử dụng
có hiệu quả vốn lưu động cần tăng cường tốc độ chu chuyển của vốn lưu động
Thứ nhất đối với nguyên liệu, nguyên liệu: Trong quá trình sản xuất chúng ta cần
chú ý đến đầu vào. Nên xây dựng nhà máy ở nơi gần nguồn nguyên liệu để hạn chế chi
phí vận chuyển, cũng như rút ngắn được thời gian cho khâu trung gian là quá trình vận
chuyển tạo điều kiện cho quá trình sản xuất liên tục, không ngắt quãng do sự cố trong
quá trình vận chuyển. Đồng thời gần nguồn nguyên liệu thì nhu cầu đến đâu khai thác
đến đó, không cần dự trữ trong kho đỡ bị tổn thất do hao mòn vô hình gây ra.
Thứ hai, vấn đề đặc biệt quan trọng đóng vai trò quyết định nâng cao hiệu quả
của doanh nghiệp là việc tổ chức quản lý sử dụng nguồn lao động ( mang tính chất lâu
dài có tính quyết định trong việc sử dụng vốn lưu động). Nâng cao trình độ tay nghề của
người lao động. Đối với bộ máy lãnh đạo cần phân công trách nhiệm và quyền lợi rõ ràng
để tổ chức có hiệu quả, tránh tình trạng chồng chéo. ở nước ta đang tồn tại một vấn đề
nôỉ cộm: " Thừa thầy, thiếu thợ ". Hàng năm lượng rất lớn tuyển sinh vào đại học, cao
đẳng mà các trường đào tạo nghề thì lại rất ít người đăng ký trong khi nước ta đang thiếu
lượng lớn lao động lành nghề. Bên cạnh đó việc đào tạo ở bậc đại học và cao đẳng còn
nhiều bất cập, học không đi đôi với hành, việc đào tạo thiên về lý thuyết. Vì vậy nguồn
lực này khi ra công tác thiếu sự năng động do kiến thức thực tế yếu. Việc đào tạo và yêu
cầu của doanh nghiệp đi theo hai con đường song song, chưa gặp nhau ở một điểm
chung. Vì vậy hầu hết để sử dụng nguồn lao động này thì các doanh nghiệp này đào tạo
phù hợp với mục đích phát triển của doanh nghiệp. Ngoài việc chú trọng nâng cao trình
độ nguồn lao động, các doanh nghiệp cũng cần phải quan tâm đến việc rèn luyện tác
phong, đạo đức nghề nghiệp. Đó là khía cạnh không thể thiếu được đặc biệt đối với bộ
máy quản lý. Đức mà không có tài thì vô dụng, nhưng tài mà thiếu đức thì thành "tai"- tai
hoạ.Có rất nhiều vụ án đưa ra xét xử về tội tham ô, hối lộ của các quan chức cấp cao.Gần
đây nhất, là vụ của Lã Thị Kim Oanh được sự bao che của các quan chức trong các bộ,
ngành đã gây tổn thất hàng trăm tỉ đồng cho nhà nước. Và khi đưa ra ánh sáng thì số tiền
thu được cũng chẳng được bao nhiêu, do các bị cáo đã tẩu tán số tiền này dưới nhiều
hiình thức khác nhau. Vậy việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp trong doanh nghiệp có vai
17
- trò rất quan trọng. Việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp cũng nhằm hạn chế những tiêu
cực khác như : "Cha truyền, con nối" vẫn tồn tại trong doanh nghiệp nhà nước- điều làm
giảm chất lượng nguồn lao động đầu vào, do đó dẫn tới làm giảm chất lượng đội ngũ cán
bộ điều hành quản lý. Trong điều kiện hiện nay để làm ăn có hiệu quả các doanh nghiệp
phải có bộ máy quản lý tốt, phân công nhiệm vụ cũng như quyền lợi rành mạch. Cơ cấu
quản lý hợp lý. Đó chính là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của doanh
nghiệp. Có những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé nhưng do có cơ cấu tổ chức hợp lý thì
doanh nghiệp đó vẫn có thể thành công. Bộ phận này tốt sẽ thực hiện tốt các khâu còn lại
như: việc mua hàng, bán hàng, tổ chức sản xuất… Ngoài những vấn đề trên các DNNN
đang gặp phải khó khăn sau: tình trạng thiếu vốn trong sản xuất. Đối với vốn lưu động
chỉ có 50% được huy động vào sản xuất kinh doanh, còn lại nằm trong tài sản, công nợ
không thu hồi được, lỗ chưa bù đắp được. Ví dụ: Vốn lưu động của Nhà máy đóng mới
và sửa chữa phương tiện thuỷ Cần Thơ thuộc tổng công ty Đường sông miền Nam chỉ có
80 triệu đồng. Cảng Hà Nội chỉ có 140 triệu đồng vốn lưu động. Đây là khó khăn với các
doanh nghiệp nhà nứơc nhưng không phải là không khắc phục được, vấn đề là ở chỗ phải
tổ chức cơ cấu quản lý hợp lý. Cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ thực hiện tốt các khâu khác: mua
hàng, bán hàng, sản xuất…. Nó là điều quyết định việc sản xuất hiệu quả của các DNNN.
Bên cạnh việc chú trọng qúa trình sản xuất thì khâu bán hàng cũng giữ vai trò rất
quan trọng.Thuận lợi trong khâu bán hàng hạn chế được thời gian tồn kho, làm giảm bớt
thiệt hại do nhân tố ngoại cảnh tác động. Trong thời đại hiện nay cạnh tranh rất khốc liệt,
hàng hoá phong phú về hình thức và chất lượng vì vậy để người tiêu dùng biết đến sản
phẩm và tin dùng sản phẩm của công ty cần chú trọng khâu maketing và quảng cáo. Đây
là khâu trung gian, nhịp cầu nối người sản xuất và người tiêu dùng.Mới bước vào nền
kinh tế thị trường những kinh nghiệm trong việc kinh doanh chưa nhiều nên nhiều doanh
nghiệp chưa kịp thích ứng với sự thay đổi của thời đại, vẫn giữ trong mình tư duy cũ:
Hữu xạ tự nhiên hương. Theo thống kê chỉ có 5% DNNN quan tâm đến vấn đề quảng
cáo. Và trên thực tế có nhiều DNNN nước ta đã bị mất thương hiệu về sản phẩm trên thị
trường nước ngoài khi ta xuất khẩu hàng hoá ví dụ như : cà phê Trung Nguyên, Bit'is….
Đó là vì các doanh nghiệp chưa thực sự chú trọng đến bộ phận này chỉ tập trung vào sản
xuất. Trong khi đối với các doanh nghiệp nước ngoài họ giành từ 40%-50% có khi đến
60% doanh thu cho khâu này. Và khi so sánh các chương trình quảng cáo giữa các doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài ta thấy rằng sự chuyên nghiệp còn thua xa. Những
chương trình quảng cáo của chúng ta hầu như chỉ mang tính chất giới thiệu sản phẩm mà
thiêú sức thu hút người xem. Những chương trình quảng cáo của các doanh nghiệp nước
ngoài thu hút được sự chú ý của khán giả và hình ảnh về sản phẩm đó in đậm trong tâm
trí họ. Vậy qua sự phân tích trên ta thấy rằng cần tiến dần chuyên nghiệp hoá khâu này
để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá của các DNNN, từ đó nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn trong các doanh nghiệp này.
18
- C. KẾT LUẬN. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHO VIỆC SỬ DỤNG NGUỒN VỐN
TRONG DNNN
DNNN là thành phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế ở nước ta. So
với những năm trước đây, về mặt số lượng các doanh nghiệp giảm, nhưng chất lượng thì
đã tăng lên rất nhiều. Điều này thể hiện ở trong quá trình hoạt động, quy mô sản xuất và
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
DNNN bao gồm hai loại hình: Doanh nghiệp công ích và doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp hoạt động với mục đích khác nhau. Doanh nghiệp công
ích với mục đích phục vụ lợi ích xã hội, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mục đích tối
đa hoá lợi nhuận. DNNN là động lực sự tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội ở Việt
Nam. Tuy vậy bên cạnh những thành quả đã đạt được thì các DNNN nói chung vẫn còn
tồn tại những hạn chế. Và chung quy lại vẫn là sử dụng nguồn vốn không hiệu quả.
Qua nghiên cứu Tuần hoàn và chu chuyển tư bản và áp dụng vào DNNN, ta thấy
muốn sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cần sử dụng hiệu quả từng bộ phận của nó đó là
vốn cố định và vốn lưu động. Vốn cố định bao gồm: nhà máy, máy, máy móc, các công
trình sản xuất liên quan…Muốn sử dụng hiệu quả nguồn vốn này cần tận dụng tối đa
công suất của máy móc khi đưa vào hoạt động, nâng cao năng suất lao động, lập quỹ
khấu hao để bổ sung vào hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình không thể tránh khỏi
trong qúa trình sản xuất. Vốn lưu động bao gồm nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, lao
động… Đối với các nguồn nguyên liệu đầu vào, để sử dụng có hiệu quả cần rút ngắn
khoảng cách đến nơi sản xuất để rút ngắn thời gian chu chuyển cũng như hạn chế chi phí
vận chuyển. Bên cạnh đó trong quá trình sản xuất cần tiết kiệm ( không phải là ăn bớt)
nguyên vật liệu.Xét trên một đơn vị sản phẩm thì số tiền tiết kiệm không đáng kể, nhưng
khi sản xuất hàng loạt thì giảm được rất nhiều chi phí. Đối với nguồn lao động cần chú
trọng đào tạo về chuyên môn, nhưng vấn đề đạo đức nghề nghiệp cũng hết sức quan
trọng. Nguồn lao động là yếu tố quyết định các yếu tố khác. Vì vậy trong quá trình sản
xuất kinh doanh phải đặc biệt lưu ý tới nhân tố này, phải tổ chức sản xuất một cách hợp
lý để đạt đựơc năng suất lao động tối đa. Trên đây là những giải pháp để sử dụng có hiệu
quả vốn cố định và vốn lưu động nhưng xét tách riêng và tối đa hoá việc sử dụng từng
nguồn vốn. Nhưng trong thực tế việc sản xuất kinh doanh nhiều khi rất khó để phân biệt
một cách rành mạch từng nguồn vốn, và vấn đề là sự kết hợp giữa các yếu tố sản xuất để
đạt được hiệu quả tối đa. Trung tâm để giải quyết vấn đề trên là nhân tố con người. Đối
với mỗi doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng trong quá trình sản xuất có lượng
lớn nhân tố tham gia sản xuất vì vậy phải có cơ cấu quản lý hợp lý đặc biệt là cơ cấu
quản lý nhân sự. Một doanh nghiệp thực hiện tốt khâu này sẽ đạt đựơc hiệu quả cao vì
khâu này quyết định sự thành công của một doanh nghiệp. Trong thời đại hiện nay, một
doanh nghiệp bên cạnh việc chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm, cũng cần phải chú
19
- trọng đến khâu maketing, quảng cáo. Không còn thời " Hữu xạ tự nhiên hương" nữa,
hàng hoá tràn ngập trên thị trường với đa dạng về hình thức và chất lượng. Và người tiêu
dùng biết và sử dụng hàng hoá của công ty mình thì phải thực hiện tốt khâu này. Vì vậy
cơ cấu quản lý phải phân thành nhiều bộ phận với những chức năng khác nhau. Bộ phận
sản xuất, bộ phận quản lý và bộ phận maketing. Mỗi bộ phận lại có những yêu cầu khác
nhau. Bộ phận quản lý đòi hỏi con người có đầu óc tổ chức tốt, luôn thích ứng kịp thời
với sự thay đổi của thời đại. Bộ phận sản xuất đòi hỏi những công nhân lành nghề. Bộ
phận maketing cần phải có những nhân viên năng động, nhạy bén và có sự đào tạo
chuyên nghiệp về lĩnh vực này.
Chúng ta mới bước vào nền kinh tế thị trường vì vậy kinh nghiệm về sản xuất
kinh doanh còn hạn chế. Vậy nên các DNNN có thể liên doanh với nước ngoài. Hình
thức này bắt đầu phổ biến ở nước ta, Doanh nghiệp tư bản nhà nước. Tham gia hình thức
này chúng ta vừa thu hút được nguồn vốn, công nghệ lại có thể học hỏi kinh nghiệm
quản lý của họ. Đó là điều rất cần thiết trong điều kiện hiện nay. Nhưng cũng cần phải
chú ý trong quá trình hợp tác cần phải đề cao tinh thần cảnh giác, tránh sự lệ thuộc về
kinh tế để rồi bị chi phối, lệ thuộc, như vậy sẽ là một thất bại.
Trên đây là các biện pháp vi mô em xin đưa ra trong vai trò của các DNNN để sử
dụng vốn có hiệu quả. Nhưng bên cạnh những nỗ lực của các doanh nghiệp thì nhà nước
cũng có vai trò rất quan trọng. Các DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vì vậy
việc ưu tiên là điều đương nhiên, nhưng để phát huy được tính chủ động trong việc kinh
doanh của các doanh nghiệp nhà nước cần: Việc thiếu vốn của các DNNN rất nghiêm
trọng vì vậy nhà nước cần căn cứ vào tình trạng kinh doanh hiện tại cuả doanh nghiệp mà
xét cho vay vốn để các doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh. Thành phần này có vai
trò quan trọng vì vậy một chút ưu tiên là điều dễ hiểu nhưng cũng cần đặc biệt coi trọng
mối quan hệ giữa DNNN với các thành phần kinh tế khác. Muốn vậy phải trên tinh thần
là mọi thành phần kinh tế đều có chung mục tiêu thoả mãn ngày càng tốt hỏn các nhu cầu
của xã hội, ai làm tốt hơn, hiệu quả hơn sẽ được xã hội chấp nhận. Điều này sẽ làm các
DNNN cố gắng hơn trong việc sản xuất kinh doanh, tránh sự ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà
nước. Phải tạo môi trường bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh.
Thứ hai, đối với các DNNN làm ăn không hiệu quả thậm chí còn thô lỗ cần phải
sắp xếp, đổi mới lại. Doanh nghiệp không thể tiếp tục sản xuất thì tuyên bố phá sản, hoặc
chuyển sang hình thức cho cá nhân, doanh nghiệp thuê, mua… Tránh tình trạng bảo hộ
để các doanh nghiệp này tiếp tục sống lay lắt không những chẳng mang lại lợi nhuận gì
mà còn thâm hụt vào ngân sách.
Thứ ba, nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào công việc sản xuất kinh doanh
của DNNN, hãy để doanh nghiệp chủ động quyết định những hoạt động của mình. Nên
gắn quyền lợi của mỗi cá nhân với quyền lợi của doanh nghiệp. Như vậy các cá nhân sẽ
có trách nhiệm hơn khi đưa ra một quyết định.
20
nguon tai.lieu . vn