Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ ­ TIN HỌC  THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT 211231203303­ NHÓM 1 TIỂU LUẬN HỌC PHẦN LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ THỦ TỤC GIẢI  QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH, THƯƠNG  MẠI
  2. TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ ­ TIN HỌC  THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT 211231203303­ NHÓM 1 Các tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài TIỂU LUẬN HỌC PHẦN LUẬT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ THỦ TỤC GIẢI  QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH, THƯƠNG  MẠI Giảng viên: Huỳnh Quang Thuận
  4. TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
  5. DANH SÁCH SINH VIÊN NHÓM 01 ­ LTTTM ­ MàLỚP 211231203303 STT Tên MSSV 1. Nguyễn Thị Phương Thảo 18DH380193 2. Lê Hoàng Đức 18DH380095 3. Đoàn Lê Thanh Bình 18DH380092 5
  6. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình của bản thân tôi. Các nội dung nghiên cứu  và kết quả  trong đề  tài này là trung thực, chưa được ai công bố  trong bất cứ công   trình nào. Nếu có bất kỳ  sự  gian lận nào, tôi xin chịu trách nhiệm trước hội đồng  chấm thi. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 07 tháng 01 năm 2022                                                                    Sinh viên 6
  7. MỤC LỤC CÂU HỎI (Ghi lại chủ đề đã chọn và cả vụ việc tự chọn ở đây) 7
  8. Đề tài: Sinh viên chọn 01 đề tài trong số các đề tài sau và phân tích dựa trên  các tiêu chí: (i) quy định của pháp luật Việt Nam; (ii) Thực tiễn áp dụng; (iii)  Bất cập; (iv) Kinh nghiệm nước ngoài; (v) Quan điểm cá nhân về hoàn thiện. 1. Các tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài. 8
  9. BÀI TIỂU LUẬN Lý do chọn đề tài       Song song với sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam, nhu cầu xác  lập giao dịch dân sự theo đó ngày càng gia tăng. Hệ quả tất yếu là tranh chấp, xung   đột lợi ích giữa các bên trong quan hệ  dân sự  cũng tăng theo. Nhu cầu giải quyết   tranh chấp giữa các bên ngày 1 lớn, như  chúng ta đã biết, tranh chấp có thể  được   giải quyết thông qua 4 phương thức: Thương lượng, Hòa giải, Trọng tài và Tòa án.   Thương lượng và hòa giải ít phổ biến vì nó phụ thuộc nhiều vào ý chi chủ quan của   các bên. Khi mâu thẫn gay gắt, xung đột lợi ích càng lớn thì sẽ càng khó thông nhất   ý chí giữa các bên. Do lẽ đó, các bên thường tìm tới phương thức giải quyết mang   tính phán quyết, bắt buộc các bên thi hành như  là Trọng tài và Tòa án. Vì cả  2  phương thức giải quyết tranh chấp đều mang tính chất phán quyết, vì vậy vấn đề  đặt ra là phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của mỗi phương thức. Cụ thể  những tranh chấp nào sẽ được giải quyết bằng Trọng tài? Những tranh chấp nào sẽ  được giải quyết bằng Tòa án? Bài tiểu luận này sẽ  phân tích, bình luận cụ  thể  những tranh chấp nào sẽ được giải quyết bằng Trọng tài trên cơ sở pháp luật Việt   Nam. I. Nội dung qui định pháp luật       Như đã phân tích ở trên, do phát sinh nhu cầu phân định thẩm quyền của Trọng  tài và Tòa án dẫn tới sự ra đời của Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 về các  tranh chấp thuộc thẩm quyền giải của trọng tài như sau: ­  Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại. ­  Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương   mại. ­  Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng   tài.       Về phân định thẩm quyền giữa Tòa án và Trọng tài ở Điều 2 Luật trọng tài 2010  được hướng dẫn thi hành cụ thể tại Điều 2 Nghị quyết 01/2014/NQ­HĐTP:
  10.       1. Trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp quy định tại Điều 2 Luật  TTTM nếu các bên có thoả  thuận trọng tài quy định tại Điều 5 và Điều 16 Luật   TTTM, trừ trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.       2. Khi có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quy định   tại Điều 2 Luật TTTM thì Tòa án yêu cầu một hoặc các bên cho biết tranh chấp đó   các bên có thoả thuận trọng tài hay không. Tòa án phải kiểm tra, xem xét các tài liệu  gửi kèm theo đơn khởi kiện để  xác định vụ  tranh chấp đó có thuộc trường hợp  hướng dẫn tại khoản 3 Điều này hay không. Tùy từng trường hợp cụ thể mà Tòa án   xử lý như sau:            a) Trường hợp tranh chấp không có thoả  thuận trọng tài hoặc đã có bản án,   quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định, phán quyết có hiệu  lực pháp luật của Trọng tài xác định vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài thì  Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.          b) Trường hợp tranh chấp đã có thoả  thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài  không thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này thì Tòa án căn cứ  quy  định tại điểm đ khoản 1 Điều 168 Bộ  luật tố  tụng dân sự  năm 2004 đã được sửa  đổi, bổ  sung theo Luật sửa đổi, bổ  sung một số  điều của Bộ  luật tố  tụng dân sự  năm 2011 (sau đây gọi tắt là BLTTDS) để  trả  lại đơn khởi kiện và các tài liệu,  chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện.       Trường hợp sau khi thụ lý vụ án Tòa án mới phát hiện vụ tranh chấp đã có thoả  thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài không thuộc trường hợp hướng dẫn tại   khoản 3 Điều này thì Tòa án căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS  ra quyết định đình chỉ  việc giải quyết vụ  án, trả  lại đơn khởi kiện và các tài liệu  gửi kèm theo đơn khởi kiện cho người khởi kiện.       c) Trường hợp đã có yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp và Hội đồng trọng   tài đang giải quyết vụ tranh chấp thì dù Tòa án nhận thấy tranh chấp không thuộc  thẩm quyền của Trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài hoặc tuy đã có thoả thuận  trọng tài nhưng thuộc trường hợp hướng dẫn tại khoản 3 Điều này mà người khởi  kiện có yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho  
  11. người khởi kiện, trường hợp Tòa án đã thụ  lý thì ra quyết định đình chỉ  việc giải   quyết vụ  án, trừ  trường hợp Tòa án thụ  lý vụ  tranh chấp trước khi có yêu cầu   Trọng tài giải quyết tranh chấp. Sau khi có quyết định, phán quyết của Hội đồng   trọng tài quy định tại các điều 43, 58, 59 và 61 Luật TTTM mà người khởi kiện có  yêu cầu Tòa án giải quyết, thì Tòa án xem xét thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.       3. Tranh chấp có thỏa thuận trọng tài nhưng thuộc một trong các trường hợp sau  đây thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, trừ  trường hợp các bên có thoả  thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác:       a) Có quyết định của Tòa án huỷ phán quyết trọng tài, hủy quyết định của Hội   đồng trọng tài về việc công nhận sự thỏa thuận của các bên;       b) Có quyết định đình chỉ giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài, Trung   tâm trọng tài quy định tại khoản 1 Điều 43 các điểm a, b, d và đ khoản 1 Điều 59   Luật TTTM;       c) Tranh chấp thuộc trường hợp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều 4 Nghị  quyết này.       4. Trường hợp các bên vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài,   vừa có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Tòa án mà các bên không có thỏa   thuận lại hoặc thỏa thuận mới về cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và   không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này mà phát sinh tranh chấp thì  xử lý như sau:       a) Trường hợp người khởi kiện yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp trước   khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hoặc yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh   chấp khi Tòa án chưa thụ lý vụ án quy định tại điểm b khoản 4 Điều này thì Tòa án   căn cứ quy định tại Điều 6 Luật TTTM để từ chối thụ lý, giải quyết. Trong trường  hợp này, khi nhận được đơn khởi kiện Tòa án phải trả  lại đơn khởi kiện, nếu đã   thụ lý vụ án thì căn cứ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định   đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả  lại đơn  khởi kiện và các tài liệu gửi kèm theo đơn khởi kiện.
  12.        b) Trường hợp người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, thì ngay  sau khi nhận được đơn khởi kiện, Tòa án phải xác định một trong các bên đã yêu  cầu Trọng tài giải quyết hay chưa.       Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện mà Tòa  án xác định người bị  kiện, người khởi kiện đã yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh   chấp thì Tòa án trả  lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, trường hợp người bị  kiện, người khởi kiện chưa yêu cầu Trọng tài giải quyết tranh chấp thì Tòa án xem   xét thụ lý giải quyết theo thủ tục chung.            Trường hợp Tòa án đã thụ  lý vụ  án mà phát hiện tranh chấp đã có yêu cầu  Trọng tài giải quyết trước thời điểm Tòa án thụ lý vụ án thì Tòa án căn cứ quy định  tại điểm i khoản 1 Điều 192 BLTTDS ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án   vì không thuộc thẩm quyền của Tòa án, trả  lại đơn khởi kiện và các tài liệu gửi   kèm theo đơn khởi kiện. II. Phân tích nội dung qui định pháp luật       Về qui định ở Khoản 1 Điều 2 Luật trọng tài 2010, đây là qui định về điều kiện   các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, phụ  thuộc vào tính chất của tranh   chấp phát sinh là từ  hoạt động thương mại, đây là sự  kế  thừa của Luật trọng tài  thương mại 2010 đối với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Tuy nhiên, đây là  điều khoản gây tranh cãi khá nhiều. Lý do phát sinh từ khái niệm hoạt động thương   mại có thể hiểu theo 2 nghĩa rộng và hẹp. Hoạt động thương mại thương mại theo   nghĩa rộng được hiểu là tất cả các hoạt động phát sinh nhằm mục đích sinh lời tức   là phạm vi của nó rất rộng. Tuy nhiên, hoạt động thương mại theo nghĩa hẹp được   định nghĩa luật nội dung tức Luật thương mại 2005 là chỉ các hoạt động được phát  sinh giữa các thương nhân tức các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân  hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh  (Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại 2005). Từ đây, sẽ  phát sinh 2 luồng quan điểm  trái ngược trong các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài phát sinh từ tinh chất  tranh chấp như đã phân tích ở trẻn.
  13.       Nắm bắt được bất cập ở Khoản 1, Khoản 2 qui định 1 cách khái quát, rõ ràng   hơn về điều kiện các tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, ở đây là điều kiện  về  chủ  thể, chỉ  cần ít nhất 1 bên trong tranh chấp có hoạt động thương mại thì   tranh chấp đó có thể giải quyết bằng trọng tài. Mà theo luật nội dung (Luật thương  mại 2005), hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm   mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động  nhằm mục đích sinh lợi khác (Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005). Tóm lại, chỉ  cần ít nhất 1 bên có hoạt động nhằm mục đích sinh lời thì tranh chấp đó có thể giải   quyết bằng trọng tài => Giaỉ quyết được tranh cãi phát sinh từ Khoản 1. Tuy nhiên,   cũng có vài lĩnh vực đặc biệt theo dân sự nghĩa hẹp như hôn nhân – gia đình, thừa  kế, lao động tuy có thể  có 1 bên hoạt động thương mại nhưng vẫn bắt buộc phải   giải quyết bằng Tòa án.         Khoản 3 là 1 điều khoản mở  để  phù hợp với các ngành luật khác. Có những   tranh chấp không thuộc 2 khoản trên nhưng theo qui định của luật chuyên ngành thì  phải quyết bằng trọng tài. Ví dụ, trong Điều 30, 38 Luật bảo vệ người tiêu dùng và  Điều 17 Luật trọng tài thương mại 2010 thì người tiêu dùng có quyền lựa chọn   phương thức giải quyết tranh chấp. III. Thực tiễn áp dụng:        Trong thời đại nền kinh tế ngày một phát triển hoạt động thương mại diễn ra  phổ biến mỗi ngày. Tuy nhiên không phải lúc nào việc giao kết hợp đồng cũng diễn   ra suôn sẻ, mà nó luôn tiềm ẩn những tranh chấp do vi phạm hợp đồng hoặc một số  lý do khác. Vậy khi tranh chấp xảy ra sẽ xử lý như thế nào, đó là lựa chọn của các   bên doanh nghiệp khi ký kết hợp đồng. Trong trường hợp thương lượng hoặc hòa   giải không thành công tranh chấp kinh tế có thể giải quyết bằng một trong hai con  đường là họ có thể chọn Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để  giải quyết tranh chấp mà cũng có thể nộp đơn khởi kiện lên giải quyết bằng trọng   tài theo quy định Luật trọng tài thương mại 2010. Vậy việc giải quyết tranh chấp   trọng tài diễn ra như thế nào và thực trạng các vụ việc được giải quyết bằng trọng   tài ở Việt Nam có những điểm gì nổi bật sau đây chúng ta cùng đi tìm hiểu.
  14.       Thực chất việc dùng trọng tài để giải quyết tranh chấp không còn xa lạ đối với  các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên các doanh nghiệp   ở Việt Nam vẫn còn dè dặt khi phải chọn giải quyết tranh chấp tại trọng tài và khi   các vụ tranh chấp xảy ra các bên thường khởi kiện tại Tòa án. Có thể  nói mặc dù   phương thức trọng tài đã xuất hiện từ rất lâu, nhưng ở Việt Nam thì mới xuất hiện   nổi bật 10 năm trở lại đây, do đó các cách thức hoạt động cũng như các quy định tại   trung tâm trọng tài chưa đáp  ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp. Theo thống   kê thì tại Việt Nam hiện có khoảng 15 Trung tâm trọng tài thương mại1, nhưng  phần lớn các vụ  việc tranh chấp xảy ra được giải quyết tại Trung tâm trọng tài  quốc tế Việt Nam có tên viết tắt là VIAC. Điển hình là số liệu báo cáo thường niên  năm 2018 của Trung tâm trọng tài Quốc tế  Việt Nam (VIAC) 2, cho biết năm 2018  vừa qua, tổ chức này đã giải quyết 180 vụ  tranh chấp thương mại với tổng trị giá   9.400 tỷ  đồng ­ mức cao nhất trong 25 năm qua kể  từ  khi được thành lập theo  Quyết định 204/TTg ngày 28/4/1993 của Thủ  tướng Chính phủ  với tính chất tranh   chấp là 51% quốc tế và 49% trong nước trải dài  ở  các lĩnh vực như  mua bán hàng  hóa, hợp tác kinh doanh, bất động sản, bảo hiểm, xây dựng, dịch vụ. Từ  số  liệu  trên có thể thấy tín hiệu hết sức khả quan của phương thức giải quyết bằng trọng   tài nhưng đồng thời cho thấy tình trạng có rất nhiều các Trung tâm trọng tài, nhưng   các vụ việc chỉ tập trung giải quyết  ở một trung tâm trọng tài nhất định, điều này   đặt ra bài toán khó để  có thể  cải thiện lòng tin của các doanh nghiệp  đối với   phương thức trọng tài nói chung và các trung tâm trọng tài nói riêng.       Bên cạnh đó kiến thức pháp luật của bản thân các doanh nghiệp hiện nay chưa   cao, nhiều doanh nghiệp chính bản thân họ  cũng chưa biết được Luật trọng tài  thương mại có tồn tại hay không chính vì vậy mà đa số  các vụ  việc tranh chấp  thương mại xảy ra họ đều nghĩ đến biện pháp khởi kiện tại Tòa án do các quy định  1 Các trung tâm thương mại tại Việt Nam: https://stac.com.vn/cac­trung­tam­trong­tai­thuong­ mai­o­viet­nam/ 2 Báo cáo thường niên Thống kê hoạt động giải quyết tranh chấp năm 2018:  https://stac.com.vn/cac­trung­tam­trong­tai­thuong­mai­o­viet­nam/
  15. tại Bộ  luật tố  tụng dân sự  có đề  cập đến thẩm quyền giải quyết các tranh chấp  liên quan đến kinh tế  thương mại. Cộng thêm việc Luật trọng tài đã ban hành từ  năm 2010 và cách nay đã hơn mười năm chính vì vậy một vài các điều luật khi áp  dụng đã không còn phù hợp nữa bộc lộ ra rất nhiều nhược điểm. Cách nhìn về luật  chưa thực sự rõ ràng, các điều luật quy định cũng chồng chéo lên nhau khiến các tổ  chức, doanh nghiệp cá nhân họ  không tin tưởng để  giải quyết trọng tài vì có thể  những quy định không rõ ràng ấy có thể gây bất lợi cho họ.       Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của trọng tài theo Điều 2 Luật trọng tài   thương mại 2010 chỉ  đề  cập rằng các tranh chấp phát sinh từ  hoạt động thương  mại, giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại hoặc tranh  chấp giữa các bên mà pháp luật quy định giải quyết bằng trọng tài. Quy định này rất  chung khiến cho những người không am hiểu về  luật trọng tài thương mại có thể  hiểu sai về  thẩm quyền giải quyết chỉ gói gọn trong các tranh chấp về  hoạt động  thương mại như  các hoạt động mua bán và không biết được tranh chấp khác mà   pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài là những tranh chấp gì. Thực tế,  các tranh chấp về sở hữu trí tuệ  không phải tranh chấp về  thương mại mà có thể  giải quyết bằng trọng tài nếu luật quy định với một số  ngoại lệ  và hạn chế  nhất  định vì hầu hết các tranh chấp sở  hữu trí tuệ  là các bằng sáng chế, nhãn hiệu, bí   mật thương mại, bản quyền3, ... hay điểm b Khoản 8 Điều 146 Luật Xây dựng 2014  sửa đổi bổ  sung năm 2020 cho phép các bên có thể  đưa tranh chấp ra giải quyết   bằng trọng tài “Các bên hợp đồng có trách nhiệm tự thương lượng giải quyết tranh   chấp. Trường hợp các bên hợp đồng không tự  thương lượng được thì tranh chấp  được giải quyết thông qua hòa giải, trọng tài thương mại hoặc tòa án theo quy định   của pháp luật.” Những tranh chấp này có thể  liên quan đến bản chất quốc tế, một  số  bản án áp dụng luật nước ngoài nên việc lựa chọn giải quyết tranh chấp tại   trọng tài hợp lý hơn bao giờ  hết. Chính vì vậy nên nếu như  không am hiểu thì có  3 Trọng tài quốc tế và sở hữu trí tuệ (IP) Tranh chấp: https://www.international­arbitration­ attorney.com/vi/international­arbitration­and­intellectual­property­ip­disputes/
  16. thể  sẽ không biết vụ tranh chấp liên quan đến xây dựng hay sở  hữu trí tuệ  có thể  giải quyết bằng trọng tài tại các trung tâm trọng tài hay trọng tài vụ  việc thay cho   việc khởi kiện tại Tòa án vừa có thể tiết kiệm được thời gian xét xử và vừa có các   trọng tài viên am hiểu kiến thức kỹ thuật và chuyên môn trong lĩnh vực nhất định.  IV. Bất cập       Theo khoản 2 Điều 2 Luật Trọng tài thương mại, trọng tài có thẩm quyền giải  quyết “tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động  thương mại”. Qui định này chỉ  tập trung vào chủ thể  tranh chấp chứ không hề  đề  cập đến bản chất của tranh chấp. Nói cách khác, qui định như vậy có thể dẫn đến  cách hiểu là chỉ cần một bên tranh chấp có hoạt động thương mại thì bất kỳ tranh   chấp nào mà họ là một bên đều có thể được giải quyết bằng phương thức trọng tài.  Chẳng hạn, trong tranh chấp về  nhà  ở, một bên có đầu tư  phát triển nhà thương   mại thì đây là tranh chấp có ít nhất một bên có hoạt động thương mại và có thể  được giải quyết bằng phương thức trọng tài. Quy định tập trung vào chủ  thể  của   tranh chấp như vậy sẽ dẫn đến hệ  quả  phức tạp trong việc xác định thẩm quyền  giải quyết tranh chấp của trọng tài hoặc Tòa án. Chẳng hạn, trong trường hợp A là  một thương nhân (là chủ thể có hoạt động thương mại) muốn ly hôn với B thì xét  từ  góc độ  chủ  thể, tranh chấp này cũng thuộc qui định trên, nhưng về  bản chất   tranh chấp thì trọng tài Việt Nam chưa có thẩm quyền để giải quyết.       Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có nhiều ưu điểm so với các hình thức giải  quyết tranh chấp bằng Tòa án, hòa giải và thương lượng. Tuy nhiên hình thức này  chưa phải là hoàn hảo, bên cạnh những ưu điểm của mình thì trọng tài vẫn tồn tại  nhiều hạn chế, bất cập điển hình như  bản chất trọng tài Việt Nam có những hạn  chế  nhất định như  đối với các tranh chấp thương mại rất nhỏ  về  mặt giá trị, thì   hiệu quả  kinh tế  các bên sẽ  phải suy nghĩ lại trước khi giải quyết tranh chấp tại   trọng tài vì chí phí để giải quyết tại trọng tài sẽ  cao hơn so với Tòa án theo án phí  của Tòa.       Các tranh chấp thương mại thường là các tranh chấp liên quan đến bí mật kinh   doanh hay ảnh hưởng trực tiếp đến danh tiếng, uy tín của các doanh nghiệp, vì vậy  
  17. mà thủ  tục tố  tụng của trọng tài thương mại phải tuân thủ  tuyệt đối nguyên tắc  bảo mật khiến cho các trọng tài viên không thể  tìm hiểu kinh nghiệm qua các vụ  kiện trọng tài khác mà mình không được tham gia, đặc biệt là đối với các trọng tài   viên mới vào ngành rất khó có được kinh nghiệm để  giải quyết các vấn đề  tương   tự một cách chính xác.        Thủ tục tố tụng khi giải quyết các tranh chấp từ  khi bắt đầu cũng có một số  nhược điểm đáng kể  như  việc gửi thông báo cho các bên theo khoản 3 Điều 12  Luật trọng tài thương mại 2010 như  việc gửi thông báo, tài liệu sẽ  được gửi đến   đúng địa chỉ mà các bên thông báo tuy nhiên sẽ có các trường hợp khi khởi kiện các  bên  ở  đúng địa chỉ  đã thông báo nhưng sau đó lại chuyển đi nơi khác khiến các  thông báo cũng như tài liệu được gửi đến sẽ không nhận được, đây là một điểm trừ  đối với các bên giải quyết tranh chấp tại trọng tài vì khi họ không nhận được thông  báo sẽ  mất đi quyền lợi cộng thêm việc các Trung tâm trọng tài hoặc Hội đồng  trọng tài khi gửi đi không cần biết các bên đã nhận được hay chưa chỉ cần giao đến  đúng địa chỉ đã thông báo thì đều tính là đã nhận được theo khoản 5 Điều 12 Luật   trọng tài thương mại 2010. Điều này không giống với khi giải quyết các vụ việc tại   Tòa án vì khi tòa án gửi giấy triệu tập hay bất kỳ tài liệu khác nếu các bên không  thực ở tại địa chỉ đó họ sẽ niêm yết tại địa phương.       Để có thể được hoãn phiên họp giải quyết tranh chấp khi có lý do chính đáng.   Tuy nhiên trong luật thương mại thì lại không quy định rõ ràng như thế nào là lý do  chính đáng và lý do chính đáng đó phải được sự chấp nhận của trọng tài theo Điều  57 Luật trọng tài thương mại 2010, đây là một vướng mắc rất lớn vì lý do chính   đáng để  được hoãn phiên tòa đều phụ  thuộc sự chấp nhận của Hội đồng trọng tài  chẳng hạn như đại diện bị đơn đột nhiên bị bệnh bên phía bị đơn sẽ cho rằng phiên  Tòa được hoãn nhưng Hội đồng trọng tài có thể  cho rằng đây không phải là lý do   chính đáng để  có thể  hoãn phiên tòa, gây bất lợi về quyền, đặc biệt là mất quyền   phản đối nếu một bên không tham gia tố  tụng trọng tài theo theo Điều 13 Luật   trọng tài thương mại 2010.        Ngoài ra trọng tài chỉ xét xử một lần, phán quyết của Trọng tài có giá trị chung   thẩm đây là một nguyên tắc cơ  bản của trọng tài, điều này làm tăng hiệu lực cho  
  18. phán quyết trọng tài. Trong khi đó, đối với việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án lại  được thực hiện theo nguyên tắc hai cấp xét xử nên phán quyết của Tòa án có nhiều  cơ hội để xem xét lại theo thủ tục Tái thẩm hoặc giám đốc thẩm. Nếu phán quyết   của trọng tài có sai sót về mặt nội dung, không đảm bảo giải quyết quyền và nghĩa  vụ của các bên thì cũng không có cơ  hội sửa chữa, thay đổi cũng như  hủy bỏ. Các   bên không có quyền yêu cầu Tòa án cũng như bất kì cơ quan nào xem xét lại quyết   định trọng tài.             Phán quyết chỉ  mất giá trị  khi bị  Tòa án tuyên hủy quyết định trọng tài nếu  HĐTT ra quyết định trọng tài đã vi phạm các quy định về tố tụng theo Điều 44 Luật   trọng tài thương mại 2010. Đây có thể  coi là một rủi ro của việc giải quyết tranh   chấp bằng trọng tài. Bên cạnh đó, phán quyết trọng tài lại do cơ  quan thi hành án  dân sự  có thẩm quyền thi hành phán quyết chứ  không phải trọng tài theo khoản 1   Điều 8 Luật trọng tài thương mại 2010.   V. Kinh nghiệm nước ngoài            Trong lĩnh vực trọng tài nói chung, chưa nói đến việc giải quyết tranh chấp   thương mại bằng trọng tài, căn cứ liên hệ kinh nghiệm nước ngoài tại Quyển số IV   của Bộ  luật Tố  tụng dân sự  của Pháp có tựa đề  rất ngắn gọn là “Trọng tài”. Liên  quan đến thẩm quyền của trọng tài, từ  Điều 2059 đến Điều 2061 Bộ  luật Dân sự  của Pháp; trong đó đáng chú ý là Điều 2059 quy định rằng, các chủ thể có thể thoả  thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đối với lĩnh vực mà các bên có quyền tự  do định đoạt. Điều 2060 của Bộ luật này quy định, những trường hợp không được  thoả  thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài bao gồm những vấn đề  liên quan   đến lý lịch, năng lực của các chủ  thể, những vấn đề  liên quan đến ly hôn, ly thân,   những tranh chấp liên quan đến chủ thể công và một cách chung nhất là những vấn   đề thuộc về trật tự công cộng trừ những trường hợp mà các chủ thể công trong lĩnh   vực công nghiệp và thương mại được pháp luật cho phép giải quyết tranh chấp   bằng trọng tài.4  Có thể  thấy không giống với pháp luật Việt Nam việc các tranh  4 Tham khảo: Phần 1.1. Bài học kinh nghiệm từ nước ngoài – Từ bài viết Hoàn thiện pháp luật  nước ngoài tại Việt Nam của TS. Nguyễn Thị Hoa  (Khoa Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. 
  19. chấp được giải quyết bằng trọng tài theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự của   Pháp có rất nhiều và điểm đặc biệt là có thể thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau và chủ  yếu do các bên định đoạt, nó không gói gọn chỉ  trong các hoạt động thương mại   hoặc liên quan đến thương mại giống như luật Ở Việt Nam. Từ thực tế trên có thể  thấy việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ở  Pháp không được quy định thành   một bộ luật riêng mà nó được quy định trong Bộ luật dân sự luôn, còn ở Việt Nam   thì có luật quy định riêng tên Trọng tài thương mại 2010.       Ngoài Pháp, chúng ta có thể học tập kinh nghiệm của nước rất gần gũi với Việt  Nam là Singapore. Singapore là một trong những nước cũng ban hành Luật mang tên   là “Luật trọng tài” (không sử  dụng thuật ngữ  “thương mại”) và Điều 4 của Luật   này cho phép các bên được đưa ra trọng tài giải quyết mọi tranh chấp phát sinh từ  hơp  đồng  và  ngoài hợp  đồng.  5Tại  Việt  Nam  có  Trung  Tâm  trọng  tài Quốc   tế  Singapore (SIAC), các tranh chấp có thể  sử  giải quyết bằng trọng tài tại SIAC sẽ  bao gồm: các tranh chấp trong doanh nghiệp và thương mại, thương mại và đầu tư,   xây dựng, kỹ thuật, vận tải biển, hàng hải, bảo hiểm, sở hữu trí tuệ, ngân hàng và  tài chính  cùng với hàng loạt  các   tranh chấp khác.   Trung  tâm  trọng  tài Quốc   tế  Singapore (SIAC) có Quy tắc trọng tài (SIAC Rules) dựa trên Luật mẫu do  Ủy ban  Luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) ban hành và được luật   pháp Singapore thừa nhận (Luật trọng tài quốc tế của Singapore). 6              Tại Anh, cũng chỉ  ban hành “Luật Trọng tài 1996” – không có thuật ngữ  “thương mại” và khoản 1 Điều 6 Luật này cho phép các bên được thoả thuận giải  Hồ  Chí Minh) – Tạp chí nghiên cứu Lập pháp (Viện nghiên cứu Lập pháp Thuộc Ủy ban thường   vụ   Quốc   Hội):   http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx? tintucid=210862&fbclid=IwAR0NmhMyDlzDJl_Jx4ogsivxF2yIzzm4LTEL9clnSR6hVdswr0hpVZY Kx2o 5Từ  bài viết Hoàn thiện pháp luật nước ngoài tại Việt Nam của TS. Nguyễn Thị Hoa  (Khoa Luật  Quốc tế, Trường Đại học Luật TP. Hồ  Chí Minh) – Tạp chí nghiên cứu Lập pháp (Viện nghiên  cứu Lập pháp Thuộc Ủy ban thường vụ Quốc Hội)  6Về giải quyết tranh chấp hợp đồng thông qua Trọng tài Sigapore: https://ipiclaw.vn/ve­giai­ quyet­tranh­chap­hop­dong­thong­qua­trong­tai­singapore
  20. quyết tranh chấp hợp đồng cũng như  tranh chấp ngoài hợp đồng. Theo 1996 Đạo   luật trọng tài Anh7, thỏa thuận trọng tài đề cập đến một thỏa thuận để đưa ra tranh   chấp trong tương lai hoặc hiện tại cho trọng tài, trong đó sẽ  bằng văn bản hoặc   bằng chứng bằng văn bản. Mặc dù các bên được tự do đưa ra một loạt các vấn đề  hợp đồng và phi hợp đồng cho trọng tài, nhưng không phải tất cả các tranh chấp có  thể được giải quyết bằng một hội đồng trọng tài.       Hay hoạt động trọng tài tại Liên bang Nga giải quyết tranh chấp bằng trọng tài   được xem là sự lựa chọn của các bên. Các Trung tâm Trọng tài giải quyết rất nhiều  tranh chấp giữa các doanh nghiệp tại Liên bang Nga, kể cả các tranh chấp có yếu tố  nước ngoài. Luật trọng tài của Liên bang Nga được ban hành năm 2002 quy định  rằng theo thỏa thuận của các bên, bất kỳ  tranh chấp nào phát sinh từ  qua hệ  pháp   luật dân sự, nếu không có quy định khác của pháp luật đều có thể giải quyết bằng   trọng tài theo điểm 1 Điều 1 Luật trọng tài 2002 của Nga. Ngoài ra Bộ Luật Dân sự  Liên bang Nga Điều 11 có đề  cập rằng, bên cạnh Tòa án Nhà nước, trọng tài có   thẩm quyền bảo vệ quyền đang bị tranh chấp và bị vi phạm, đảm bảo cho việc giải  quyết được tiến hành nhanh chóng. Pháp luật Nga chia trọng tài ra làm hai loại là  trọng tài giải quyết các tranh chấp trong nước và trọng tài giải quyết các tranh chấp   phát sinh từ  các quan hệ  hợp đồng và các quan hệ  khác trong quá trình thực hiện   kinh tế  đối ngoại và các tranh chấp có sự  tham gia của các doanh nghiệp có vốn  đầu tư nước ngoài.8       Hoặc lấy một ví dụ  khác như  Trung Quốc cũng chỉ  ban hành “Luật Trọng tài”  và tại Điều 2 cho phép các bên thoả  thuận giải quyết bằng trọng tài đối với cả  tranh chấp ngoài hợp đồng về quyền và lợi ích liên quan đến tài sản của các bên. 7 Trọng tài tại Vương quốc Anh: Các 1996 Đạo luật trọng tài: https://www.international­ arbitration­attorney.com/vi/arbitration­in­the­united­kingdom­the­1996­arbitration­act/ 8 Khái quát về trọng tài, mối quan hệ giữa Tòa án và Trọng tài ở Liên bang Nga­ Kinh  nghiệm đối với Việt Nam (Tạp chí khoa học pháp lý Việt Nam):  https://tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/module/xemchitietbaibao?oid=f3707513­13f8­4c8a­a7a3­ 98d590630e4a
nguon tai.lieu . vn