Xem mẫu
- DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM
STT TÊN MSSV
1 NGUYỄN PHƯƠNG DUY 18DH380472
2 LÊ THÀNH ĐẠT 18DH380448
3 LÊ HOÀNG ĐỨC 18DH380095
4 NGUYỄN PHÚ QUÝ 18DH380439
CHUYÊN ĐỀ:
Hoạt động đại lý thương mại trong hoạt động trung gian thương mại :
Quy định pháp luật
Bất cập
Thực tiễn xét xử
Pháp luật nước ngoài
Quan điểm các tác giả trong khoa học pháp lý
Quan điểm cá nhân
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
I. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
1. Khái niệm hoạt động trung gian thương mại:
- Căn cứ khoản 11 Điều 3 Luật thương mại năm 2005: “Các hoạt động trung
gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch
thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác định, bao gồm hoạt
động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng
hóa và đại lý thương mại.”
2. Các hoạt động trung gian thương mại:
- Có 4 hình thức:
Đại diện cho thương nhân
Môi giới thương mại
Ủy thác mua bán hàng hóa
Đại lý thương mại
3. Khái niệm dại lý thương mại:
- Căn cứ Điều 166 Luật thương mại năm 2005: “Đại lý thương mại là hoạt
động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên đại
lý nhân danh chính mình mua, bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung
ứng dịch vụ của bên giao đại lý cho khách hàng để hưởng thù lao.”
4. Đặc điểm đại lý thương mại:
Chủ thể: Bên giao đại lý và bên đại lý.
Điều kiện: Cả hai bên đều phải là thương nhân.
Trong quan hệ thương mại này, bên đại lý sẽ nhân danh chính mình để
giao dịch với khách hàng.
Phạm vi: Bên đại lý sẽ theo thỏa thuận, thực hiện bán hàng cho bên
giao đại lý hoặc mua hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch
vụ giao đại lý cho khách hàng.
Hình thức pháp lý: Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn bản hoặc
bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
5. Bên giao đại lý và bên đại lý (Chủ thể):
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
- Căn cứ Điều 167 Luật thương mại năm 2005:
1. Bên giao đại lý là thương nhân giao hàng hoá cho đại lý bán hoặc giao
tiền mua hàng cho đại lý mua hoặc là thương nhân uỷ quyền thực hiện
dịch vụ cho đại lý cung ứng dịch vụ.
2. Bên đại lý là thương nhân nhận hàng hoá để làm đại lý bán, nhận tiền
mua hàng để làm đại lý mua hoặc là bên nhận uỷ quyền cung ứng dịch
vụ.
6. Hợp đồng đại lý:
- Căn cứ Điều 168 Luật thương mại năm 2005: “Hợp đồng đại lý phải được
lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.”
7. Các hình thức đại lý:
- Căn cứ Điều 169 Luật thương mại năm 2005:
1. Đại lý bao tiêu là hình thức đại lý mà bên đại lý thực hiện việc mua, bán
trọn vẹn một khối lượng hàng hoá hoặc cung ứng đầy đủ một dịch vụ
cho bên giao đại lý.
2. Đại lý độc quyền là hình thức đại lý mà tại một khu vực địa lý nhất định
bên giao đại lý chỉ giao cho một đại lý mua, bán một hoặc một số mặt
hàng hoặc cung ứng một hoặc một số loại dịch vụ nhất định.
3. Tổng đại lý mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ là hình thức đại lý mà
bên đại lý tổ chức một hệ thống đại lý trực thuộc để thực hiện việc mua
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý. Tổng đại lý đại
diện cho hệ thống đại lý trực thuộc. Các đại lý trực thuộc hoạt động
dưới sự quản lý của tổng đại lý và với danh nghĩa của tổng đại lý.
8. Quyền và nghĩa vụ của bên giao đại lý và bên đại lý:
- Căn cứ Điều 170, 172, 173, 174, 175 Luật thương mại năm 2005:
Điều 170. Quyền sở hữu trong đại lý thương mại
Bên giao đại lý là chủ sở hữu đối với hàng hoá hoặc tiền giao cho bên đại lý.
Điều 172. Quyền của bên giao đại lý
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên giao đại lý có các quyền sau đây:
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
1. Án định giá mua, giá bán hàng hoá, giá cung ứng dịch vụ đại lý cho
khách hàng;
2. Ấn định giá giao đại lý;
3. Yêu cầu bên đại lý thực hiện biện pháp bảo đảm theo quy định của
pháp luật;
4. Yêu cầu bên đại lý thanh toán tiền hoặc giao hàng theo hợp đồng đại lý;
5. Kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng của bên đại lý.
Điều 173. Nghĩa vụ của bên giao đại lý
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên giao đại lý có các nghĩa vụ sau
đây:
1. Hướng dẫn, cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho bên đại lý thực hiện
hợp đồng đại lý;
2. Chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của đại lý mua bán hàng hóa,
chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch vụ;
3. Trả thù lao và các chi phí hợp lý khác cho bên đại lý;
4. Hoàn trả cho bên đại lý tài sản của bên đại lý dùng để bảo đảm (nếu có)
khi kết thúc hợp đồng đại lý;
5. Liên đới chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm pháp luật của bên đại lý,
nếu nguyên nhân của hành vi vi phạm pháp luật đó có một phần do lỗi
của mình gây ra.
Điều 174. Quyền của bên đại lý:
Trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, bên đại lý có các quyền sau
đây:
1. Giao kết hợp đồng đại lý với một hoặc nhiều bên giao đại lý, trừ
trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 175 của Luật này;
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
2. Yêu cầu bên giao đại lý giao hàng hoặc tiền theo hợp đồng đại lý;
nhận lại tài sản dùng để bảo đảm (nếu có) khi kết thúc hợp đồng đại
lý;
3. Yêu cầu bên giao đại lý hướng dẫn, cung cấp thông tin và các điều
kiện khác có liên quan để thực hiện hợp đồng đại lý;
4. Quyết định giá bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng đối
với đại lý bao tiêu;
5. Hưởng thù lao, các quyền và lợi ích hợp pháp khác do hoạt động đại
lý mang lại.
Điều 175. Nghĩa vụ của bên đại lý
Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên đại lý có các nghĩa vụ sau đây:
1. Mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho khách hàng theo giá hàng
hóa, giá cung ứng dịch vụ do bên giao đại lý ấn định;
2. Thực hiện đúng các thỏa thuận về giao nhận tiền, hàng với bên giao đại
lý;
3. Thực hiện các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy
định của pháp luật;
4. Thanh toán cho bên giao đại lý tiền bán hàng đối với đại lý bán; giao
hàng mua đối với đại lý mua; tiền cung ứng dịch vụ đối với đại lý cung
ứng dịch vụ;
5. Bảo quản hàng hoá sau khi nhận đối với đại lý bán hoặc trước khi giao
đối với đại lý mua; liên đới chịu trách nhiệm về chất lượng hàng hóa của
đại lý mua bán hàng hóa, chất lượng dịch vụ của đại lý cung ứng dịch
vụ trong trường hợp có lỗi do mình gây ra;
6. Chịu sự kiểm tra, giám sát của bên giao đại lý và báo cáo tình hình hoạt
động đại lý với bên giao đại lý;
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
7. Trường hợp pháp luật có quy định cụ thể về việc bên đại lý chỉ được
giao kết hợp đồng đại lý với một bên giao đại lý đối với một loại hàng
hóa hoặc dịch vụ nhất định thì phải tuân thủ quy định của pháp luật đó.
9. Thù lao đại lý:
- Căn cứ Điều 168 Luật thương mại năm 2005:
1. Trừ trường hợp có thoả thuận khác, thù lao đại lý được trả cho bên đại
lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá.
2. Trường hợp bên giao đại lý ấn định giá mua, giá bán hàng hóa hoặc giá
cung ứng dịch vụ cho khách hàng thì bên đại lý được hưởng hoa hồng
tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá mua, giá bán hàng hóa hoặc giá cung
ứng dịch vụ.
3. Trường hợp bên giao đại lý không ấn định giá mua, giá bán hàng hoá
hoặc giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng mà chỉ ấn định giá giao đại
lý cho bên đại lý thì bên đại lý được hưởng chênh lệch giá. Mức chênh
lệch giá được xác định là mức chênh lệch giữa giá mua, giá bán, giá
cung ứng dịch vụ cho khách hàng so với giá do bên giao đại lý ấn định
cho bên đại lý.
4. Trường hợp các bên không có thoả thuận về mức thù lao đại lý thì mức
thù lao được tính như sau:
a) Mức thù lao thực tế mà các bên đã được trả trước đó;
b) Trường hợp không áp dụng được điểm a khoản này thì mức thù lao
đại lý là mức thù lao trung bình được áp dụng cho cùng loại hàng hoá,
dịch vụ mà bên giao đại lý đã trả cho các đại lý khác;
c) Trường hợp không áp dụng được điểm a và điểm b khoản này thì
mức thù lao đại lý là mức thù lao thông thường được áp dụng cho
cùng loại hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
10. Thanh toán trong đại lý:
- Căn cứ Điều 176 Luật thương mại năm 2005: “ Trừ trường hợp có thoả
thuận khác, việc thanh toán tiền hàng, tiền cung ứng dịch vụ và thù lao đại lý
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
được thực hiện theo từng đợt sau khi bên đại lý hoàn thành việc mua, bán
một khối lượng hàng hoá hoặc cung ứng một khối lượng dịch vụ nhất định.”
11. Thời hạn đại lý:
- Căn cứ Điều 177 Luật thương mại năm 2005:
1. Trừ trường hợp có thoả thuận khác, thời hạn đại lý chỉ chấm dứt sau
một thời gian hợp lý nhưng không sớm hơn sáu mươi ngày, kể từ ngày
một trong hai bên thông báo bằng văn bản cho bên kia về việc chấm
dứt hợp đồng đại lý.
2. Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, nếu bên giao đại lý thông báo chấm
dứt hợp đồng theo quy định tại khoản 1 Điều này thì bên đại lý có quyền
yêu cầu bên giao đại lý bồi thường một khoản tiền cho thời gian mà
mình đã làm đại lý cho bên giao đại lý đó.
- Giá trị của khoản bồi thường là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời
gian nhận đại lý cho mỗi năm mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý.
Trong trường hợp thời gian đại lý dưới một năm thì khoản bồi thường được
tính là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý.
3. Trường hợp hợp đồng đại lý được chấm dứt trên cơ sở yêu cầu của
bên đại lý thì bên đại lý không có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi
thường cho thời gian mà mình đã làm đại lý cho bên giao đại lý.
II.BẤT CẬP
Mặc dù có những điểm tiến bộ so với Luật thương mại 1997, nhưng sau
nhiều năm tồn tại, quy định về thời hạn đại lý tại điều 177 đã bộc lội nhiều hạn
chế. Là hoạt động trung gian thương mại, đại lý thương mại có vai trò quan
trọng. Tuy nhiên, pháp luật quy định về hoạt động này vẫn còn chưa đáp ứng
được những nhu cầu phát triển trên thực tế mặc dù hoạt động đại lý được quy
định trong Luật thương mại 2005 cũng như nhiều luật chuyên ngành như hoạt
động đại lý xăng dầu, hoạt động đại lý tàu biển, đại lý lữ hành du lịch.
Thứ nhất, việc tự do, mở rộng thêm các trường hợp đơn phương chấm
dứt mà không có hình thức bảo vệ phù hợp thì lợi ích các bên dễ dàng
bị ảnh hưởng . Luật thương mại 2005 quy định mở rộng các trường
hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng đại lý thương mại. Theo đó, nếu
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
không có thỏa thuận khác, các bên có quyền chấm dứt hợp đồng đại lý
thương mại mà chỉ cần thông báo cho bên kia bằng văn bản trong thời
hạn quy định. Cụ thể, pháp luật quy định thời hạn báo trước việc đơn
phương chấm dứt hợp đồng đại lý ít nhất sáu mươi ngày để bên kia có
thời gian chuẩn bị, điều chỉnh lại hoạt động đại lý của mình trước khi
chấm dứt hoàn toàn quan hệ đại lý. Quy định cụ thể thời hạn báo trước
cũng như hình thức thông báo nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của bên bị
vi phạm khi một bên đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn
đại lý. Có thể thấy, quy định tự do đơn phương chấm dứt hợp đồng đại
lý của các bên trong nhiều trường hợp sẽ làm ảnh hưởng lớn đến
quyền lợi của bên kia, đồng thời quy định này cũng khiến cho quan hệ
đại lý không còn được vững chắc, gắn bó đúng như bản chất của nó,
thương nhân cũng thiếu sự tin tưởng khiến cho việc thúc đẩy hoạt động
thương mại thông qua đại lý thương mại cũng bị ảnh hưởng phần nào.
Thứ hai, về quyền lợi của bên giao đại lý khi thông báo chấm dứt thời
hạn đại lý đúng pháp luật : Khoản 2 Điều 177 quy định về hậu quả pháp
lý trong trường hợp bên giao đại lý thông báo chấm dứt thời hạn đại lý
đúng thời hạn báo trước tại khoản 1. Tuy nhiên, về việc đòi bồi thường
của bên đại lý khi bên giao đại lý thông báo chấm dứt hợp đồng quy
định chưa hợp lý, chưa bao quát được tất cả các trường hợp. Trường
hợp này bên giao đại lý khi đơn phương chấm dứt hợp đồng đai lý chưa
được quy định cụ thể. Dễ sinh nhầm lần rằng trong mọi trường hợp bên
giao đại lý đơn phương chấm dứt hợp đông đại lý đều phải bồi thường
cho bên đại lý. Trên thực tế, không phải trong bất cứ trường hợp nào
bên giao đại lý yêu cầu chấm dứt hợp đồng cũng là vi phạm hợp đồng
đã kí. Có trường hợp đồng đại lý không xác định thời hạn, trong trường
hợp không có vi phạm nhưng muốn đơn phương chấm dứt, trong
trường hợp bên giao đại lý chấm dứt thời hạn đại lý không vi phạm hợp
đồng đã ký như ví dụ trên, rõ ràng là quyền lợi của bên giao đại lý cũng
cần được bảo vệ, tạo nên sự công bằng giữa các chủ thể tron quan hệ
thương mại hay đơnphương chấm dứt vì vi phạm của bên đại lý thì bên
đại lý phải bồi thường cho bên giao đại lý ( bên có lỗi phải trách nhiệm
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
do lỗi của mình gây ra)… Như vậy, với mỗi trường hợp cần quy định rõ
rằng , cụ thể hơn về mức bồi thường thiệt hại để đảm bảo tính khách
quan, công bằng.
Thứ ba, về quyền lợi của bên đại lý khi thông báo chấm dứt thời hạn đại
lý đúng pháp luật: Khoản 3 Điều 177 Luật thương mại năm 2005 quy
định: “ Trường hợp hợp đồng đại lý được chấm dứt trên cơ sở yêu cầu
của bên đại lý thì bên đại lý không có quyền yêu cầu bên giao đại lý bồi
thường cho thời gian mà mình đã làm đại lý cho bên giao đại lý”. Quy
định như vậy chưa thực sự hợp lý, chưa bảo vệ được quyền lợi của bên
đại lý trong trường hợp bên giao đại lý không thực hiện, thực hiện
không đủ, thực hiện không đúng nghĩa vụ buộc bên đại lý phải chấm
dứt hợp đồng. Xét thấy với một bên đại lý so với bên giao đại lý thì khi
bên đại lý đưa ra quyết định chấm dứt đại lý có thể sẽ không ảnh hưởng
đến bên giao đại lý nhưng sẽ ảnh hưởng do quyết định của chính bên
đại lý đưa ra. Vì vậy, quy định này vẫn chưa quy định rõ về các trường
hợp hay quyền và nghĩa vụ của bên đại lý trong trường hợp này.
Thư tư, về mức bồi thường khi bên giao đại lý đơn phương chấm dứt
hợp đồng : Điều 177 Luật thương mại 2005 quy định “ Giá trị của khoản
bồi thường là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận
đại lý cho mỗi năm mà bên đại lý làm đại lý cho bên giao đại lý. Trong
trường hợp thời gian đại lý dưới một năm thì khoản bồi thường được
tính là một tháng thù lao đại lý trung bình trong thời gian nhận đại lý”.
Cách quy định giá trị khoản bồi thường như vậy mang tính chủ quan,
không phù hợp với nguyên tắc tính bồi thường thiệt hại. Hơn nữa, trên
thực tế quan hệ đại lý thường được thực hiện trong thời gian dài và để
thực hiện dịch vụ đại lý cho bên giao đại lý, bên đại lý có thể phải bỏ
khá nhiều chi phí. Nếu bên giao đại lý đơn phương chấm dứt hợp đồng
đại lý sẽ gây thiệt hại cho bên đại lý. Ngoài ra, với từng hợp đồng đại lý
khác nhau thì quy mô đại lý khác nhau sẽ dẫn đến quyền lợi của các
bên bị xâm phạm sẽ khác nhau; nên việc quy định khoản bồi thường
như trên khi gắn với các trường hợp thực tế có thể chưa phù hợp.
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
Nguồn Bộ phận tư vấn pháp luật Doanh nghiệp - Công ty luật Minh
Khuê
III. THỰC TIỄN XÉT XỬ
1. Nhầm lẫn giữa hợp đồng đại lý với hợp đồng phân phối hàng hóa trên
thực tế
Về bản chất, hợp đồng đại lý là hợp đồng cung ứng dịch vụ trung gian
thương mại, theo đó bên trung gian là bên đại lý nhân danh mình thực hiện
việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho bên giao đại lý nhằm hưởng
thù lao, quyền sở hữu hàng hóa vẫn thuộc về bên giao đại lý. LTM 2005
không quy định về hoạt động phân phối, nhưng trên thực tiễn kinh doanh của
thương nhân thì xuất hiện loại hợp đồng này. Trong loại hợp đồng này, nhà
phân phối hoạt động độc lập, mua hàng hóa từ nhà sản xuất và nhân danh
chính mình bán lại hàng hóa đó trong phạm vi hợp đồng dài hạn được ký kết
giữa nhà phân phối và nhà sản xuất. Nhà phân phối trong trường hợp này là
chủ sở hữu của hàng hóa, chịu trách nhiệm về mọi rủi ro đối với hàng hóa đó.
Việc phân định giữa hợp đồng đại lý và hợp đồng phân phối phụ thuộc vào
các điều khoản cụ thể mà các bên thỏa thuận có tính quyết định bản chất của
hai loại hợp đồng này. Trong hợp đồng phân phối chứa đựng các điều khoản
xác lập quyền và nghĩa vụ của bên mua và bên bán, cơ bản phản ánh tính độc
lập về mặt pháp lý của các bên, sự độc lập này vẫn tồn tại ngay cả trong
trường hợp các bên có những thỏa thuận mà theo đó nhà phân phối có nghĩa
vụ tuân thủ một số chỉ dẫn nhất định của nhà sản xuất liên quan tới phương
thức hoạt động nhưng không ảnh hưởng đến quyền định đoạt hàng hóa của
nhà phân phối. Có lẽ chính những thỏa thuận này làm cho các bên nhầm lẫn
giữa hợp đồng phân phối hàng hóa với hợp đồng đại lý trong quá trình giao
kết hợp đồng.
Bản chất của hợp đồng phân phối chính là hợp đồng mua bán có điều kiện,
thế nên, nó có dấu hiệu của quan hệ đại lý, nhưng đó là mua đứt bán đoạn.
Tranh chấp hợp đồng đại lý thể hiện trong quyết định giám đốc thẩm số
05/2011/KDTM-GĐT ngày 20/7/2011 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao là một ví dụ về sự nhầm lẫn giữa hợp đồng phân phối hàng hóa
với hợp đồng đại lý. Hợp đồng có nội dung như sau: Công ty Cổ phần (CTCP)
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
Chữ thập đỏ Việt Nam có quan hệ hợp đồng đại lý thuốc tân dược
(Reamberin, Cycloferon viên và ống) với các công ty: Công ty Trách nhiệm
hữu hạn (TNHH) Thương mại dược phẩm Thống Nhất, CTCP Dược phẩm Y
Phương, CTCP Dược phẩm Thanh Phương, CTCP Dược Hòa Bình. Mặc dù
hình thức các bên ghi trong hợp đồng là đại lý nhưng các điều khoản trong
hợp đồng lại trái với bản chất của hoạt động đại lý như chứa đựng thỏa thuận
bên đại lý là chủ sở hữu hàng hóa, bên đại lý phải chịu rủi ro do hàng hóa mất
mát, hư hỏng… Bên cạnh đó, một số thỏa thuận khác mang tính chất là các
chỉ dẫn của nhà sản xuất đã làm các bên lầm lẫn mà xác định đây là hợp đồng
đại lý. Các bên thỏa thuận cụ thể về mức chiết khấu, tiền thưởng khi bán hàng
vượt doanh số, mức phạt khi không đạt 100% giá trị hợp đồng… Sở dĩ có sự
nhầm lẫn đó vì những thỏa thuận này thường có trong hợp đồng đại lý nhằm
khuyến khích nỗ lực bán hàng của bên đại lý. Nếu đây chỉ là hợp đồng mua
bán thông thường thì các bên không nhất thiết phải đặt ra các điều khoản
mang tính chất chỉ dẫn nghiêm ngặt giống như trên. Tuy nhiên, vì đây là hợp
đồng phân phối – hợp đồng mua bán có điều kiện nên bên phân phối phải
tuân thủ những chỉ dẫn nhất định của nhà sản xuất liên quan đến phương
thức hoạt động. Thực tế xét xử vụ án này các tòa sơ thẩm, phúc thẩm và giám
đốc thẩm đều giải quyết theo hướng xác định đây là tranh chấp hợp đồng mua
bán hàng hóa.
Tranh chấp thể hiện trong bản án số 80/2008/DSPT ngày 17/3/2008của Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao cũng là một ví dụ khác. Nội dung bản án
thể hiện ông Trần Văn Dũng đã ký kết hợp đồng đại lý độc quyền với Công ty
TNHH nước giải khát Coca-Cola Việt Nam. Theo hợp đồng đại lý này, ông
Dũng được Công ty Coca-Cola chỉ định là đại lý độc quyền tiếp thị và phân
phối các sản phẩm cho Công ty Coca-Cola Việt Nam, ngược lại ông Dũng
được hưởng hoa hồng cùng các quyền lợi khác, đồng thời ông Dũng phải có
các nghĩa vụ mua hàng và thanh toán các khoản tiền hàng theo đúng quy
định. Dựa vào những nội dung trên, đây là hợp đồng phân phối hàng hóa (hợp
đồng mua bán có điều kiện) chứ không phải là hợp đồng đại lý như các bên
ghi trong hợp đồng. Ban đầu, Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là tranh chấp
mua bán hàng hóa . Sau đó, tại cấp phúc thẩm tuyên rằng :
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
Cấp sơ thẩm đã xác định quan hệ tranh chấp trong vụ kiện này là
“Tranh chấp hợp đồng mua bán” và áp dụng Khoản 3 Điều 25 Bộ luật tố
tụng dân sự để xét xử là không đúng, bởi lẽ ông Trần Văn Dũng với
Công ty nước giải khát Coca-Cola Việt Nam có ký hợp đồng kinh tế đại
lý độc quyền. Theo hợp đồng đại lý này, ông Dũng được Công ty Coca-
Cola Việt Nam chỉ định là đại lý độc quyền tiếp thị và phân phối các sản
phẩm cho Công ty Coca-Cola Việt Nam sản xuất, ngược lại ông Dũng
được hưởng hoa hồng phân phối cùng các quyền lợi khác. Tại phiên tòa
phúc thẩm hai bên đều thừa nhận đây là hợp đồng đại lý không phải
hợp đồng mua bán.
Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã dựa vào tên gọi của hợp đồng và lời
khai của các bên giao kết hợp đồng để xác định loại hợp đồng. Trong trường
hợp này, cụ thể là lời khai của đương sự thống nhất với nhau nhưng lại khác
với thỏa thuận trong hợp đồng thì ngoài xem xét hai vấn đề trên, Tòa án còn
phải xem xét cả quá trình thực hiện hợp đồng để xác định đây là hợp đồng đại
lý hay mua bán hàng hóa. Theo đó cần xác định trong quá trình thực hiện hợp
đồng có sự chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa hay không. Tuy nhiên, Tòa
án đã không xem xét đến vấn đề này.
Qua thực tiễn hai vụ việc trên cho thấy không chỉ các bên trong hợp đồng
nhầm lẫn hình thức của hoạt động mình đang thực hiện mà chính các cơ quan
tài phán – được mặc định là phải am hiểu các quy định của pháp luật hơn
cũng chưa rõ ràng trong việc xác định. Thiết nghĩ, khi xét xử, Tòa án phải dựa
vào bản chất của các thỏa thuận cũng như cả quá trình thực hiện hợp đồng
để xác định cho đúng loại tranh chấp. Một khi các bên đã có các thỏa thuận
mua bán và thực hiện chuyển quyền sở hữu trên thực tế thì phải xác định
quyền và nghĩa vụ của các bên như là giữa bên mua và bên bán trong hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Thực ra, nếu phải thực hiện hợp đồng đại lý theo đúng với các đặc điểm
của nó, bên giao đại lý là bên có nhiều nguy cơ rủi ro hơn cả do tính chất của
việc sở hữu hàng hóa . Bên giao đại lý có thể đối mặt với các rủi ro sau:
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
Thứ nhất, bên đại lý bán xong hàng hóa nhưng không thanh toán lại tiền
cho bên giao. Nguy cơ này hoàn toàn có thể xảy ra nếu bên đại lý có
hành vi bội tín, không tôn trọng đạo đức kinh doanh.
Thứ hai, bên giao đại lý phải gánh chịu những rủi ro về mất mát, hư
hỏng của hàng hóa. Bên giao là chủ sở hữu nhưng trên thực tế không
phải là người chiếm hữu thế nên bên giao đại lý không thể trực tiếp
quản lý hàng hóa của mình. Hàng hóa trong sự quản lý của bên đại lý
có thể bị tổn thất nếu có những rủi ro xảy ra do sự kiện bất khả kháng
hoặc do sự thiếu thiện chí của bên đại lý trong bảo quản hàng hóa dẫn
đến cháy nổ, quá hạn sử dụng…Và một khi có tổn thất, về nguyên tắc
bên giao đại lý phải gánh chịu vì hàng hóa vẫn thuộc sở hữu của bên
giao đại lý.
Trên đây là hai lý do mà các thương nhân e ngại khi giao kết loại hợp
đồng này. Do đó, khi soạn thảo hợp đồng thương nhân giao đại lý đã
đưa ra các điều khoản có mục đích đẩy rủi ro sang cho bên đại lý.
Vậy, việc các bên thỏa thuận các điều khoản mang bản chất mua bán
đứt đoạn trong hợp đồng đại lý không hẳn là nhầm lẫn do thiếu hiểu
biết mà là sự nhầm lẫn một cách có chủ đích của thương nhân giao
đại lý. Bên đại lý có thể không biết bất lợi này, hoặc biết nhưng vẫn
chấp nhận vì họ không có quá nhiều lựa chọn: hoặc tiếp tục làm đại lý
để nhận thù lao hoặc không tiếp tục giao kết với bên giao đại lý nữa.
Mỗi hoạt động thương mại đều tồn tại những ưu và nhược điểm riêng. Đại
lý thương mại cũng không phải là ngoại lệ. Một khi lựa chọn kênh phân phối
nào thì thương nhân phải cân nhắc các yếu tố như đặc tính hàng hóa, chiến
lược kinh doanh, hệ thống cửa hàng sẵn có… chứ không nên dùng các ưu thế
của doanh nghiệp dồn ép bên đại lý nhằm có lợi cho mình. Hơn nữa, trong
hình thức đại lý thương mại, bên giao đại lý đã có lợi khi không phải trực tiếp
thiết lập cơ sở vật chất để phân phối hàng hóa mà vẫn thực hiện được mục
tiêu bán hàng, mở rộng thị trường. Đây gọi là “được” và “mất” trong kinh
doanh, thương nhân chiến lược phải biết cách dung hòa hai mặt này để đạt
lợi nhuận tối đa. Pháp luật không cấm việc các bên thỏa thuận khác bản chất
đại lý trong hợp đồng đại lý nên việc các bên thỏa thuận như vậy là không vi
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
phạm pháp luật ngoại trừ trường hợp pháp luật có quy định bắt buộc các bên
phải giao kết với nhau dưới hình thức hợp đồng đại lý. Tuy nhiên, vai trò của
pháp luật là đem lại sự công bằng cho tất cả chủ thể nên cần có những quy
định có tính chất thu hẹp một số quyền của bên giao đại lý để việc thực hiện
hoạt động này đi vào khuôn khổ.
2. Vấn đề xác định tư cách chủ thể của các bên trong hợp đồng đại lý
Về nguyên tắc, tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng đại lý là tranh chấp
kinh doanh thương mại vì cả hai bên đều là thương nhân. Tuy nhiên, người
làm đại lý bảo hiểm không có tư cách thương nhân, do đó tranh chấp giữa
công ty bảo hiểm và người làm đại lý bảo hiểm không thể xác định là tranh
chấp kinh doanh thương mại.
Mặt khác, nếu xét vai trò, chức năng của người làm đại lý bảo hiểm cũng
như theo quy định của pháp luật lao động thì cũng không đủ cơ sở cho rằng
cá nhân hoạt động trung gian bảo hiểm này có tư cách là người lao động của
của doanh nghiệp bảo hiểm theo quan hệ lao động làm công ăn lương. Chính
vì điều này mà trên thực tế chế độ đãi ngộ của doanh nghiệp bảo hiểm đối với
người trung gian bảo hiểm này không thống nhất, có doanh nghiệp áp dụng
chế độ đãi ngộ như trong quan hệ lao động, có bảo hiểm xã hội, lương cơ bản
và phần trăm hoa hồng trên doanh thu, có doanh nghiệp đơn thuần chỉ trả thù
lao đại lý, theo đó dẫn đến quyền lợi chính đáng của cá nhân hoạt động trung
gian bảo hiểm không được đảm bảo, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà
nước, dẫn đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm lộn xộn và không theo một trật
tự nhất định.
Trong thực tiễn xét xử, Tòa án đã mất rất nhiều thời gian để xác định loại
tranh chấp vì gặp phải nhiều vướng mắc trong việc xác định tư cách của đại lý
bảo hiểm trong hợp đồng đại lý bảo hiểm nhưng vẫn chưa giải quyết được
một cách triệt để. Việc Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định loại
tranh chấp trong bản án số 540/2006/DS-ST về hợp đồng bảo hiểm là một ví
dụ điển hình. Tranh chấp xảy ra giữa nguyên đơn là ông Lâm Văn Vẽ và bị
đơn là công ty TNHH Manulife. Theo hợp đồng đại lý ký ngày 2/1/2002, các
bên thỏa thuận ông Lâm Văn Vẽ là đại lý của công ty TNHH Manulife. Ngày
18/5/2005 Công ty thông báo chấm dứt hợp đồng đại lý với lí do ông vi phạm
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
nghiêm trọng quy định của công ty khi tham gia một số hoạt động với công ty
bảo hiểm nhân thọ khác trong lúc vẫn là đại lý của công ty, đồng thời báo cáo
trường hợp của ông lên Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, hiệp hội đã thông báo
cho các doanh nghiệp khác không được ký hợp đồng đại lý bảo hiểm với ông
trong thời hạn ba tháng. Không đồng ý, ông Lâm Văn Vẽ khởi kiện. Trong quá
trình giải quyết vụ án , Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định đây
là tranh chấp dân sự.
Mặc dù xác định đây là tranh chấp dân sự nhưng Tòa án không nêu rõ
căn cứ trong khi loại hợp đồng này vẫn còn nhập nhằng giữa bản chất
là tranh chấp dân sự hay thương mại hay lao động. Xác định loại tranh
chấp có vai trò quan trọng trong giải quyết vụ án từ xác định tòa có
thẩm quyền đến luật áp dụng và các thủ tục tố tụng… Do đó, khi có
tranh chấp liên quan đến hợp đồng này, cần xác định chính xác tư cách
của đại lý bảo hiểm để có đường hướng xét xử chính xác và triệt để.
NGUỒN: Luật sư Phạm Tuấn Anh - Giám đốc Công ty Luật B.N.C và Cộng
sự
IV.PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
Theo pháp luật các nước trên thế giới, có khá nhiều hình thức hoạt động
trung gian thương mại được pháp luật thừa nhận phù hợp với đặc điểm nền
kinh tế, truyền thống lập pháp của mỗi nước. Dưới góc độ lý luận khó có thể
tổng kết thành các hình thức pháp lý chung của hoạt động trung gian thương
mại áp dụng cho mọi nước. ở mức độ tương đối, có thể so sánh các hình thức
hoạt động trung gian thương mại theo một số hệ thống pháp luật sau: Trong
số các hệ thống pháp luật cơ bản, hệ thống pháp luật châu Âu lục địa là hệ
thống pháp luật có nhiều thành viên nhất, chiếm 48% số quốc gia trên thế giới.
Căn cứ vào nội dung cụ thể của từng loại hoạt động và tư cách của bên trung
gian trong quan hệ với bên thứ ba, pháp luật châu Âu lục địa chia các hình
thức hoạt động trung gian thương mại thành 3 loại cơ bản là : Đại diện thương
mại, uỷ thác thương mại và môi giới thương mại
Đại diện thương mại Hiện nay, ở các nước theo hệ thống pháp luật
châu Âu lục địa, đại diện thương mại là hình thức hoạt động trung gian
thương mại phổ biến nhất và được pháp luật của nhiều nước ghi nhận.
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
Các quy định về đại diện thương mại xuất hiện đầu tiên trong hệ thống
pháp luật Đức và Nhật Bản. Chúng được quy định trong BLTM Đức ban
hành ngày 0/5/1897 và trong BLTM Nhật Bản ngày 9/3/1899. Sau đó,
các nước Châu Âu lục địa khác như Hà Lan, Bỉ, Lúcxămbua, Liên bang
Nga đã dùng luật của Đức làm cơ sở xây dựng luật của nước mình về
đại diện thương mại. Bản chất của hoạt động đại diện thương mại là
bên giao đại diện (bên thuê dịch vụ) ủy quyền cho bên đại diện (bên
trung gian thực hiện dịch vụ) hay mặt và nhân danh bên giao đại diện
thực hiện một số giao dịch thương mại. Trong hoạt động đại diện
thương mại, sự đại diện là yếu tố cơ bản. Bên đại diện, trong phạm vi
được uỷ quyền không hành động cho mình, không nhân danh mình mà
nhân danh và vì lợi ích của bên giao đại diện. Do đó, về mặt pháp lý các
giao dịch giữa bên đại diện với bên thứ ba (trong phạm vi uỷ quyền)
được coi như chính bên giao đại diện giao dịch với bên thứ ba. Bên
giao đại diện phải chịu trách nhiệm đối với các giao dịch mà bên đại
diện thực hiện nhân danh mình. Lĩnh vực mà bên giao đại diện có thể
uỷ quyền cho bên đại diện thực hiện trong hoạt động thương mại được
thay đổi theo thời gian. Các văn bản pháp luật đầu tiên trên thế giới quy
định về đại diện thương mại (BLTM Đức, BLTM Nhật Bản) đều giới hạn
hoạt động mà bên đại diện thực hiện là trong lĩnh vực mua bán hàng
hoá. Sau đó, phạm vi đại diện của bên đại diện được mở rộng sang
nhiều lĩnh vực của hoạt động thương mại. Ví dụ, theo BLTM Pháp, đại
diện thương mại được thực hiện trong mọi lĩnh vực nhằm mục đích sinh
lợi như: mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương
mại. Trong thực tiễn kinh doanh ở nhiều nước, hoạt động đại diện
thương mại chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực phân phối hàng tiêu dùng và
phân phối các trang thiết bị, hiếm khi tham gia vào lĩnh vực dịch vụ. Nội
dung của hoạt động đại diện rất đa dạng, có thể là giao dịch để tìm kiếm
cơ hội kinh doanh (bao gồm nhiều loại công việc như: nghiên cứu thị
trường, lựa chọn bên thứ ba hoặc tác động vào ý chí muốn giao kết hợp
đồng của các bạn hàng trong tương lai); thay mặt bên giao đại diện ký
kết hợp đồng với bên thứ ba; thay mặt bên giao đại diện thực hiện hợp
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
đồng với bên thứ ba. Giống với các hoạt động trung gian thương mại
khác, khi thực hiện hoạt động đại diện thương mại, bên đại diện hoàn
toàn độc lập với bên giao đại diện và bên thứ ba. Bởi vậy, bên giao đại
diện chỉ phải thanh toán các chi phí hợp lý mà bên đại diện bỏ ra để
thực hiện các công việc mà bên giao đại diện uỷ quyền còn bên đại diện
thương mại phải chịu mọi rủi ro về chi phí cũng như các khoản thanh
toán không hợp lý.
Môi giới thương mại Môi giới thương mại là hoạt động trung gian
thương mại được pháp luật của nhiều nước quy định. Ví dụ: môi giới
thương mại được quy định từ Điều L131-1 đến Điều L131-11 thiên III
quyển 1 BLTM Pháp năm 2005; từ Điều 543 đến Điều 550 BLTM Nhật
Bản năm 1899; từ Điều 845 đến Điều 849 BLDS và TM Thái Lan năm
1925, từ Điều 424 đến Điều 427 Luật hợp đồng của Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa năm 1999. Một đặc điểm nổi bật của môi giới thương mại là
khi thực hiện hoạt động này, bên môi giới không phải là đại diện cho các
bên được môi giới. Bên môi giới không có chức năng thực hiện giao
dịch có tính pháp lý mà chỉ là một thương nhân chuyên làm trung gian
cho các bên được môi giới tiếp xúc với nhau để giao kết hợp đồng.
Trong hoạt động môi giới thương mại, thông thường bên trung gian
(bên môi giới) chỉ có quan hệ với bên thuê dịch vụ mà không có quan hệ
với bên thứ ba (trừ trường hợp bên môi giới cũng ký hợp đồng môi giới
với người này). Đây là điểm giống cơ bản của hoạt động môi giới với
hoạt động đại diện thương mại. Khác với đại diện thương mại, bên môi
giới không có một quan hệ uỷ quyền liên tục đối với một trong các bên
mà mình chắp nối. Trong hoạt động môi giới thương mại, bên môi giới
không nhân danh bên được môi giới để giao dịch cũng như thực hiện
bất cứ một giao dịch nào với bên thứ ba. Bên môi giới có nhiệm vụ giới
thiệu những người có công việc gì muốn thực hiện để họ giao kết hợp
đồng và thực hiện công việc ấy. Người môi giới không tham gia vào sự
thực hiện, chỉ làm thế nào cho các bên được môi giới tiếp xúc với nhau
và sau đó các bên được môi giới tự đi đến giao kết hợp đồng. Còn trong
hoạt động đại diện thương mại, bên đại diện nhân danh bên giao đại
- BÀI TIỂU LUẬN MÔN LUẬT THƯƠNG MẠI
diện để giao dịch với bên thứ ba và có thể giao kết hợp đồng với bên
thứ ba nhân danh bên giao đại diện.
Uỷ thác thương mại Uỷ thác thương mại cũng là một hoạt động trung
gian thương mại được pháp luật của nhiều nước quy định. BLTM Pháp
năm 2005 quy định từ Điều L132-1 đến Điều 132-9; Luật hợp đồng của
Trung Quốc năm 1999 quy định từ Điều 414 đến Điều 418; BLTM Đức
quy định tại Điều 383. Một đặc điểm quan trọng của hoạt động uỷ thác
thương mại là bên nhận uỷ thác (bên trung gian) nhân danh chính mình
để giao dịch với bên thứ ba vì lợi ích của bên uỷ thác. Trong trường hợp
này, quan hệ giữa bên thuê dịch vụ của người trung gian và bên trung
gian có thể được coi là quan hệ uỷ quyền không đại diện (hoặc đại diện
gián tiếp). So với hoạt động đại diện thương mại và hoạt động môi giới
thương mại, bên nhận uỷ thác khác với bên đại diện và bên môi giới
thương mại chính là ở tư cách và trách nhiệm của họ khi quan hệ với
bên thứ ba. Trong hoạt động uỷ thác thương mại, bên nhận uỷ thác
được bên uỷ thác tin cậy giao cho thực hiện việc mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ theo những chỉ dẫn rất cụ thể của bên giao uỷ thác
nhưng với danh nghĩa của chính mình chứ không phải với danh nghĩa
của bên uỷ quyền như trong hoạt động đại diện cho thương nhân. Do
đó, những hành vi của bên nhận uỷ thác sẽ mang lại hậu quả pháp lý
cho chính họ chứ không phải cho bên uỷ thác. Uỷ thác thương mại có
phạm vi họat động rộng hẹp khác nhau tuỳ thuộc vào pháp luật của mỗi
nước. Theo pháp luật của một số nước châu Âu lục địa như Đức, ý, uỷ
thác chỉ thực hiện trong lĩnh vực mua bán hàng hoá, do đó bên nhận uỷ
thác chỉ thực hiện các hoạt động mua bán hàng hoá cho bên uỷ thác
theo những điều kiện bên ủy thác quy định. Trong khi đó BLDS và TM
Thái Lan, BLTM Nhật Bản, BLTM Pháp không giới hạn hoạt động của
bên uỷ thác, theo đó bên nhận ủy thác có thể thực hiện bất cứ giao dịch
thương mại nào cho bên uỷ thác với danh nghĩa của chính mình.
Từ những phân tích trên cho thấy, ở các nước theo hệ thống pháp luật
châu Âu lục địa , người trung gian trong hoạt động thương mại có thể
chỉ là người ở giữa giúp các bên tìm đến với nhau để giao kết hợp đồng
nguon tai.lieu . vn