Xem mẫu

  1. Tiểu Luận " Kinh tế địa lý Việt Nam " 1
  2. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................ 3 NỘI DUNG.................................................................................................... 4 I- Khái quát chung về những thuận lợi địa lý kinh tế Việt Nam hiện nay........ 4 II. Những thuận lợi về kinh tế xã hội của VN đã khai thác được .................... 5 1.Kinh tế: ....................................................................................................... 5 2 Xã hội.......................................................................................................... 9 II. Những thuận lợi về KT-XH của VN chưa khai thác được........................ 11 1.Kinh tế ...................................................................................................... 11 2.Xã hội ....................................................................................................... 14 IV.Đề xuất hướng giải quyết ........................................................................ 18 Xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật ................................ 18 KẾT LUẬN.................................................................................................. 20 Tài liệu tham khảo........................................................................................ 22 Giáo trình địa lý kinh tế Việt Nam ( NXB Nông Nghiệp Hà Nội năm 2005) 22 Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004 ........................................................ 22 2
  3. LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết nền kinh tế thế giới là một thể thống nhất bao gồm các nền kinh tế khu vực và quốc gia rất đa dạng, phát triển không đều, chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Theo trình độ phát triển của lý luận sản xuất và phân công lao động xã hội, có thể phân các nước trên thế giới thành các nhóm: nước phát triển, nước đang phát triển và nước chậm phát triển. Trong đó, Việt Nam là một nước đang phát triển. Với vị trí địa lý : Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, ở ngã tư nơi gặp gỡ của những luồng gió xuất phát từ các trung tâm lớn bao quanh. Nằm phía Đông của bán đảo Đông Dương gần trung tâm Đông Nam Á, nên đã trở thành một đầu mối giao thông quan trọng đi từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương và Châu Úc Đại Dương hoặc ngược lại, có vùng biển chủ quyền rộng lớn và giàu tiềm năng. Đặc biệt, Việt Nam nằm trong khu vực đang diễn ra các hoạt động kinh tế sôi động nhất thế giới trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI. Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore đã trở thành "4 con Rồng" Châu Á cũng đang có những chuyển động mới đáng kể trong phát triển kinh tế. Nhìn chung các nước ASEAN đang ngày càng chiếm vị trí cao hơn trong nền kinh tế của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cũng như của thế giới. Như tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của thế giới là 3-5%, thì trong khu vự đã đạt được tốc độ bình quân là 6-9%. Với vị trí địa lý như trên và với thực trạng nền kinh tế của các nước trong khu vực đã và đang tạo ra cho Việt Nam nhưng lợi thế quan trọng và cơ hội lớn trong việc hợp tác và tiếp thu những kinh nghiệm quý báu về phát triển kinh tế- xã hội. Đồng thời tranh thủ tối đa nguồn vốn, kỹ thuật – công nghệ tiên tiến và hiện đại từ các nước trong khu vực, xuất nhập khẩu nhiều loại hàng hóa thế mạnh của nước ta. 3
  4. NỘI DUNG I- Khái quát chung về những thuận lợi địa lý kinh tế Việt Nam hiện nay Việt Nam là một đất nước đầy tiềm năng, dân số trẻ, sức tiêu thụ ngày một tăng. Mặc dù bị tụt hậu do chiến tranh nhưng VN giờ đây là một trong những nơi dễ tiếp cận nhất để mở rộng kinh doanh ở châu Á. Đáng chú ý là thị trường bán lẻ ở VN tăng trưởng tới 30% mỗi năm trong hơn một thập niên qua và tiếng tăm toàn cầu của Việt Nam đã mở ra những cơ hội lớn trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, trường học, sân bay, hải cảng và các lĩnh vực khác. Trong thời gian qua, VN có nhiều thay đổi về môi trường pháp lý, góp phần cải thiện đáng kể môi trường kinh doanh, nâng cao mức độ thuận lợi trong kinh doanh và thu hẹp khoảng cách với các quốc gia đứng đầu trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. VN đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp tiếp cận tín dụng bằng việc mở rộng phạm vi tài sản có thể sử dụng để thế chấp.Và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác đầu tư, nhất là trên các lĩnh vực mà các nước bạn có thế mạnh và VN có nhu cầu như giao thông, xây dựng, y tế, hóa chất...Các mối quan hệ hợp tác này cùng có lợi, phù hợp với tiềm năng, lợi thế của mỗi nước, tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa của mỗi nước thâm nhập vào thị trường của nhau. Với những thế mạnh về nhân lực và chính sách trong lĩnh vực công nghệ thông tin, Việt Nam là điểm đến hấp dẫn cho các công ty phần mềm trên thế giới muốn tìm kiếm nguồn lực ở bên ngoài. Và với môi trường thông thoáng, hợp lý tạo điều kiện cho các nước có nền giáo dục tiên tiến tham gia và hỗ trợ VN thực hiện đổi mới giáo dục đại học trong các lĩnh vực quản trị đại học, đổi mới tài chính giáo dục đại học, đào tạo giảng viên có trình độ tiến sĩ... nhằm đưa giáo dục đại học Việt Nam vươn lên vị thế mới. 4
  5. Để thu hút được nhiều vốn đầu tư, đó là nhờ yếu tố con người, chất lượng nguồn nhân lực, sự ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong số 11 nước Đông Nam Á, VN được coi là nước có môi trường đầu tư thuận lợi nhất ở khía cạnh ổn định chính trị và xã hội. Con người luôn có thái độ hợp tác chân thành và muốn làm bạn với tất cả các nước. Đó là điều cơ bản và then chốt để rạo niềm tin hợp tác với nước ta. Mặt khác nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, trong đó nhiều loại có giá trị kinh tế lớn nhưng chưa được khai thác hoặc mới khai thác ở mức độ thấp, việc sử dụng cũng chưa thật hợp lý. Đây là những nguồn lực bên trong để phát triển kinh tế, đồng thời là đối tượng đầu tư của Tư bản nước ngoài. Và nước ta là một nước đang phát triển đông dân, trở thành thị trường tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ rộng lớn nên đã là tiền đề và yếu tố kích thích thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. II. Những thuận lợi về kinh tế xã hội của VN đã khai thác được 1.Kinh tế: Kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hỗn hợp, gồm nhiều thành phần đặc biệt phụ thuộc cao vào xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài, khi nền kinh tế này càng được thị trường hóa thì sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế vẫn còn ở mức độ cao. Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng trưởng khá nhanh và vững chắc trong thời gian 2001 – 2008. Trong thời gian 2001 – 2007, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng với tốc độ trung bình hằng năm là 18.89. Do tốc độ xuất khẩu hàng hóa tăng cao đã đưa quy mô xuất khẩu hàng hóa tăng gấp 3.35 lần trong khoảng thời gian 7 năm qua.Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa theo đầu người cũng tăng nhanh. Nếu năm 2000, kinh ngạch xuất khẩu hóa theo đầu người mới chỉ có 186 USD thì đến năm 2007 đã tăng lên mức 596 USD, tức là tăng gấp 3.05 lần. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có nhiều chuyển biến tích cực. Sản phẩm xuất khẩu đa dạng phong phú hơn. 5
  6. Nhóm hàng khoáng sản, nhiên liệu:Năm 2007 chỉ riêng hai mặt hàng dầu thô và than đá đã chiếm gần 20% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Nhóm hàng nông lâm thủy sản: chỉ trong vòng 7 năm từ 2001-2007, giá trị xuất khẩu các mặt hàng này đã tăng lên gần gấp 3 lần do tình hình kinh tế thế giới phục hồi và chi phí sản xuất gia tăng.Và do giá nông sản thế giới đang trên đà lên giá. Đầu năm 2008, thế giới đối mặt với cuộc khủng hoảng lương thực khi giá hầu hết các nông sản chính như: bắp, lúa mì, gạo đều tăng gấp 2-3 lần trong vòng chưa đầy hai năm Dệt may, da giày:Tình hình xuất khẩu dệt may, da giày của Việt Nam năm qua luôn ổn định. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành dệt may là 23%, da giày là 15,3%. Các sản phẩm gỗ gia tăng giá trị xuất khẩu một cách đều đặn trong giai đoạn 2001-2007. Trong vòng 7 năm, giá trị xuất khẩu tăng gấp 7 lần.Gia nhập WTO mở ra những thuận lợi cho ngành chế biến gỗ xuất khẩu Ngành xuất khẩu hàng điện tử và linh kiện máy tính đang ngày càng có vai trò quan trọng trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của mặt hàng này giai đoạn 2003-2007 đạt 29,4%, cao nhất trong số các mặt hàng chủ lực. Với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu luôn cao gấp từ 2 đến 3 lần tốc độ tăng trưởng GDP thời gian qua, xuất khẩu đã thực sự trở thành một động lực tăng trưởng kinh tế VN. Thị trường xuất khẩu đã đột phá xuất khẩu thành công vào thị trường Mỹ và duy trì được thị phần trên thị trường lớn nhất thế giới. Mặt khác cũng đạt được chỗ đững trên các thị trường lớn khác như: Nhật Bản- nước nhập khẩu lớn thứ 2 sau Mỹ, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang Nhật Bản chiếm 13.2% tổng kim ngạch xuất khẩu; Trung Quốc - thị trường xuất khẩu lớn thứ 3, chiếm 10.3 % tổng kim ngạch xuất khẩu, Xingapo - thị trường xuất khẩu lớn thứ 4 với các mặt hàng chủ yếu là dầu thô, hàng thủy sản, điện 6
  7. tử, máy tính và linh kiện, cao su, gạo. Ngoài ra,chúng ta còn ổn định được thị phần ở thị trường Châu Á, củng cố thị trường EU, khôi phục thị trường Nga và Đông Âu, mở rộng thị trường Châu Đại Dương, khai phá mạnh mẽ thị trường Trung Đông, châu Phi và Mỹ latinh… Về nhập khẩu: kim ngạch nhập khẩu năm 2001 đạt 16 tỷ USD, tăng 2,8% so với năm 2000; trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 11,24 tỷ USD (giảm 0,40%)và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 4,76 tỷ USD (tăng 9,3%). Hoạt động nhập khẩu đã đáp ứng nhu cầu về trang thiết bị, phụ tùng, nguyên liệu cho các ngành kinh tế và nhu cầu tiêu dùng của xã hội đối với một số mặt hàng trong nước chưa sản xuất được, cũng như nhằm bảo hộ một số ngành trong nuớc và phù hợp với tình hình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Nhập siêu tuy còn cao nhưng đã giảm so với năm 2000. Nếu tính cả dầu thô thì năm 2001, nhập siêu là 800 triệu USD, chiếm 5,2% giá trị xuất khẩu (năm 2000 nhập siêu chiếm 8%). Khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 2.889 triệu USD, chiếm 34,5% giá trị xuất khẩu của khu vực. Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước được tổ chức lại, đổi mới và chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm 45,7% GDP, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân; kinh tế hợp tác và hợp tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế. 7
  8. Đầu tư phát triển: Chính phủ đã thực hiện các giải pháp kích cầu đầu tư, tăng cường huy động các nguồn vốn, bao gồm việc ứng trước kế hoạch đầu tư ngân sách nhà nước (NSNN) của các năm sau, bổ sung thêm nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, vốn tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu, tín dụng đào tạo lại cho người lao động bị mất việc làm… Với những nỗ lực đó, nguồn vốn đầu tư toàn xã hội năm 2009 đã đạt được những kết quả tích cực. Ước tính tổng đầu tư toàn xã hội năm 2009 đạt 708,5 nghìn tỷ đồng, bằng 42,2% GDP, tăng 16% so với năm 2008 . Trong đó, nguồn vốn đầu tư nhà nước (gồm đầu tư từ ngân sách nhà nước, nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn tín dụng đầu tư theo kế hoạch nhà nước và nguồn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước) là 321 nghìn tỷ đồng, tăng 43,3% so với năm 2008; nguồn vốn đầu tư của tư nhân và của dân cư là 220,5 nghìn tỷ, tăng 22,5%. Những kết quả này cho thấy các nguồn lực trong nước được huy động tích cực hơn. Tuy nhiên, trong khi các nguồn vốn đầu tư trong nước có sự gia tăng thì nguồn vốn FDI năm 2009 lại giảm mạnh. Tổng số vốn FDI đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 20 tỷ USD (so với 64 tỷ USD năm 2008), vốn thực hiện ước đạt khoảng 8 tỷ USD (so với 11,5 tỷ USD năm 2008). Tổng vốn ODA ký kết cả năm ước đạt 5,456 tỷ USD, giải ngân đạt khoảng 3 tỷ USD.Nếu như năm 1997, chúng ta đạt được tốc độ tăng trưởng 8,2% với vốn đầu tư chỉ chiếm 28,7% GDP thì cũng với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ như vậy năm 2007 (8,5%) chúng ta phải đầu tư tới 43,1% GDP. Đến năm 2009, trong khi tổng mức đầu tư toàn xã hội lên tới 42,2% GDP, thì tốc độ tăng trưởng lại chỉ đạt 5,2%.. Việt Nam đã thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp (FDI) từ 82 nước và cụ thể trong từng ngành là công nghiệp và xây dựng: 67% số dự án và 60% tổng giá trị FDI đăng ký. Dịch vụ là: 22,3% về số dự án và 34,3% về giá trị. Và Việt Nam cũng đầu tư ra nước ngoài tới 37 quốc gia và lãnh thổ: 265 dự án đầu tư ra nước ngoài, với tổng số vốn khoảng 2 tỷ dollar chủ yếu là đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, tiếp theo là nông, lâm nghiệp. Đồng thời thu hút 8
  9. được một khối lượng vốn lớn từ nguồn vốn ODA, nhiều dự án ODA đã dành cho việc tăng cường hệ thống cấp nước sạch ở đô thị và nông thôn; cải thiện hệ thống thoát nước thải ở các thành phố lớn…dự án xây dựng khu liên hợp sản xuất gang thép và cảng Sơn Dương của Tập đoàn Formosa (Đài Loan) đầu tư vào khu kinh tế Vũng Áng, Hà Tĩnh vươn lên là địa phương thu hút FDI cao nhất cả nước với tổng trị giá 7,8 tỷ USD, Với dự án Khu liên hợp Lọc hóa dầu Nghi Sơn có số vốn 6,2 tỷ USD Việt Nam đã hợp tác kinh tế song phương bằng ký hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản, hợp tác kinh tế đa phương bằng việc ký hiệp định gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới với tiêu chuẩn “WTO Plus”. VN đã là thành viên chính thức của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, và điều đáng nói nhất là năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). 2 Xã hội Song song với việc phát triển và tăng trưởng kinh tế, 20 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng; việc xây dựng nền văn hoá mới và giải quyết các vấn đề xã hội, con người luôn được quan tâm. Tăng trưởng kinh tế gắn chặt với phát triển văn hoá, xã hội và con người. Năm 2005, chúng ta đã tạo được việc làm cho 7,5 triệu lao động. Công cuộc xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh và đạt kết quả đầy ấn tượng: tỷ lệ hộ đói giảm từ 30% năm 1992 xuống 7% năm 2005, thì tỷ lệ nghèo đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 28,9% năm 2002. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đến giữa năm 2004, 20 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn biết chữ đã tăng từ 88% cuối năm 1980 lên 95% năm 2004. Hầu hết xã, phường đã có trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Các huyện và khu vực đã có trường phổ thông trung học. Các trường đại học được mở thêm nhiều, các trường dạy nghề được khôi phục và 9
  10. ngày càng phát triển. Phong trào khuyến học, khuyến tài được phát động rộng khắp, phong trào xã hội hoá giáo dục ngày càng toả rộng và được toàn dân tích cực hưởng ứng. Nhờ những cố gắng đó mà nguồn nhân lực xã hội được nâng cao về chất lượng. Tính đến giữa năm 2004, 22,5% số người lao động đã được đào tạo, trong đó số đào tạo nghề là 13,3%. Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ đã được đưa vào áp dụng trong thực tế, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt đặc biệt là trong các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, bưu chính viễn thông...Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được tăng lên. Nước ta đã có quan hệ hợp tác về khoa học và công nghệ với trên 70 nước, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, góp phần hạ thấp đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, khống chế thành công một số dịch bệnh, đặc biệt là bệnh viêm đường hô hấp cấp. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 71,3 tuổi năm 2005. Chỉ số phát triển con người năm 2004 là 0,691. Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em được kế thừa và phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng. Một số nét mới trong chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam từng bước hình thành. Các tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa - cả vật thể và phi vật thể - được giữ gìn, tôn tạo. Việc phân phối các sản phẩm văn hoá đã nhanh và đều khắp hơn. Hệ thống các sản phẩm văn hoá góp phần trực tiếp vào sự phát triển, tăng trưởng của ngành du lịch, của nền kinh tế quốc dân. Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá thực sự khởi sắc, 10
  11. góp phần làm cho vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao; văn hoá, con người và cuộc sống Việt Nam được bạn bè hiểu biết rõ hơn. Cơ sở hạ tầng : Từ khi nền kinh tế mở cửa,cơ sở hạ tầng đáp ứng tốt cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Nhiều công trình giao thông, nhà máy, xí nghiệp được xây dựng với vốn đầu tư lớn,quy mô rộng. Hệ thống giao thông được nâng cấp một cách hoàn thiện. Xây dựng được những cây cầu đạt tiêu chuẩn về chất lượng. Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải phát triển nhanh, đáp ứng tốt cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Mạng lưới bưu chính viễn thông được tập trung đầu tư phát triển, hiện đại hoá và áp dụng công nghệ thông tin hiện đại. Đến nay hệ thống các bưu điện, bưu cục đã phủ kín địa bàn toàn tỉnh, hệ thống điện thoại đã đến 145/145 xã, phường, thị trấn, đáp ứng được yêu cầu thông tin liên lạc của nhân dân. Đến 2005 bình quân có 16,9 máy/ 100 dân. II. Những thuận lợi về KT-XH của VN chưa khai thác được 1.Kinh tế Chất lượng tăng trưởng kinh tế không cao, thể hiện ở tốc độ chuyển dịch cơ cấu chậm, tính hiệu quả và sức cạnh tranh thấp: xét về quan hệ với biến động cơ cấu kinh tế của các khu vực, các ngành, nhóm ngành, có thể thấy quá trình tái cơ cấu kinh tế đang diễn ra chậm chạp. Nếu xét theo quan hệ với các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh, thì chất lượng tăng trưởng càng bộc lộ nhiều hạn chế, thể hiện ở hệ số ICOR cao và tỷ suất lợi nhuận thấp đến mức đáng lo ngại. Những dấu hiệu này cho thấy nền kinh tế đang vận hành với hiệu quả thấp, sức cạnh tranh yếu.Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế Việt Nam chuyển dịch chậm hơn dự kiến, kể cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ... Trong nhiều năm qua, xét theo tỷ trọng giá trị tăng thêm trong GDP, cơ cấu kinh tế chủ yếu biến đổi theo sự chuyển dịch 11
  12. của hai nhóm ngành nông- lâm - thủy sản và công nghiệp- xây dựng. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP trồi sụt theo từng năm và chưa thể hiện một xu thế chuyển dịch rõ ràng hướng tới một cơ cấu hiện đại, trong khi đây là khu vực có rất nhiều cơ hội và tiềm năng phát triển. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành có liên quan chặt chẽ đến cơ cấu lao động và cơ cấu đầu tư. Cơ cấu lao động chưa có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng tiến bộ, lao động chưa có việc làm còn lớn, đang bị “tắc nghẽn” trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Trong khi đó, cơ cấu đầu tư thể hiện sự mất cân đối lớn giữa nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản và tình trạng đầu tư tràn lan ở các địa phương. Hiệu quả kinh tế : các thước đo hiệu quả kinh tế thể hiện phần nào chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế trong ngắn hạn và trung hạn. Hiệu quả kinh tế được thể hiện thông qua hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của tăng trưởng như vốn (hiệu quả đầu tư), lao động (năng suất lao động), trình độ khoa học-công nghệ (đóng góp của TFP vào tăng trưởng) và tỷ lệ chi phí trung gian trong sản xuất. Năng lực sản xuất của vốn đầu tư cũng đang giảm thấp đến mức báo động với chỉ số ICOR tăng mạnh trong giai đoạn 1991- 2009 và thể hiện tính chu kỳ rõ rệt cùng với tăng trưởng GDP. Năng suất lao động gia tăng chậm chạp trong khi hiệu quả đầu tư giảm sút trong giai đoạn 1991-2005 đã cho chúng ta một cái nhìn khá rõ về chất lượng tăng trưởng dưới góc độ hiệu quả kinh tế. Trong khi đó, vốn là yếu tố mà nước ta còn thiếu, còn lao động là yếu tố mà nước ta rất dồi dào. Kéo dài tình trạng này, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ không bền vững, chất lượng tăng trưởng không được cải thiện, cuối cùng sẽ kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Sức cạnh tranh của nền kinh tế : Năng lực cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước được chia thành ba nhóm: nhóm các sản phẩm có thế mạnh xuất khẩu, nhóm các sản phẩm có thể cạnh tranh trong tương lai, nhưng hiện vẫn cần được bảo hộ, và nhóm các sản phẩm không thể cạnh tranh quốc tế. Đối 12
  13. với nhóm thứ nhất, sự chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu còn chậm, chưa có tính đột phá, các sản phẩm trong nhóm có thế mạnh xuất khẩu chưa khẳng định sự vượt trội về chất lượng và giá trị gia tăng cao. Nhiều mặt hàng kim ngạch tăng chủ yếu dựa vào biến động giá của thị trường thế giới nên sự tăng trưởng này còn mang tính bất ổn, thiếu bền vững. Các mặt hàng trong nhóm thứ hai và thứ ba của Việt Nam đã được bảo hộ trong một thời gian dài, tuy nhiên cho đến nay, những hàng hoá thuộc hai nhóm này vẫn có chất lượng kém và giá thành cao, không thể cạnh tranh trên thị trường trong nước chứ chưa nói đến khả năng xuất khẩu. Với năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của sản phẩm còn rất thấp, năng lực cạnh tranh trên bình diện quốc gia của Việt Nam cũng không mấy khả quan. Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) về cạnh tranh toàn cầu, Việt Nam luôn nằm ở nhóm nước có năng lực cạnh tranh thấp của thế giới, và năng lực cạnh tranh của Việt Nam hầu như không được cải thiện theo thời gian, thậm chí còn xấu đi: số nước tham gia xếp hạng càng tăng thì thứ hạng cạnh tranh của Việt Nam càng bị tụt xuống. Tại nhiều tiêu chí trong bảng xếp hạng về năng lực cạnh tranh của WEF, Việt Nam đứng cuối bảng. WEF cũng đánh giá trong 15 vấn đề khó giải quyết nhất của Việt Nam và có ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh thì 3 vấn đề nghiêm trọng nhất là lạm phát, sự yếu kém của cơ sở hạ tầng và sự thiếu hụt lao động được đào tạo. Ba vấn đề trên được đánh giá có mức độ nghiêm trọng nhất, vượt trên cả vấn nạn tham nhũng, chính sách không ổn định và căn bệnh thủ tục hành chính.. Cấu trúc thị trường hiện nay phát triển không đồng bộ, trong đó bao gồm thị trường đất đai, các thị trường đầu vào cơ bản làm cho việc khai thác tài nguyên gặp khó khăn cũng như trong phân phối sản phẩm. Nên khả năng của những ngành xuất khẩu có giá trị gia tăng cao còn hạn chế. Sức cạnh tranh 13
  14. của nền kinh tế còn thấp và chậm được cải thiện. Quá trình xây dựng các thể chế của kinh tế thị trường diễn ra chậm. Những khó khăn trong xuất khẩu của Việt Nam về chủ yếu là các sản phẩm nông nghiệp truyền thống, gia công, sản phảm thô, giá trị chế biến thấp nên khó tăng mạnh về kim ngạch; lạm phát cao là những trở ngại cho xuất khẩu và cuối cùng là do cầu tiêu dùng còn thấp. 2.Xã hội Dưới góc độ xã hội – môi trường, cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét và có chiều hướng gia tăng; chất lượng nguồn nhân lực cũng chưa theo kịp yêu cầu tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế; tỷ lệ thời gian lao động không được sử dụng ở nông thôn vẫn còn cao; tốc độ xoá đói giảm nghèo bắt đầu chững lại trong những năm gần đây; tốc độ suy thoái và ô nhiễm môi trường diễn ra nhanh chóng... Lao động và việc làm: lợi thế về nguồn lao động dồi dào của Việt Nam không được sử dụng hết, thậm chí vẫn đang bị lãng phí nghiêm trọng, bởi cho đến nay, vẫn có tới 4,7% lao động ở thành thị thất nghiệp và gần 20% lao động ở nông thôn chưa được sử dụng. Theo ước tính, số thất thoát thời gian lao động trên tương đương với trên 10 triệu lao động thất nghiệp hoàn toàn. Đặc biệt, thực tế cho thấy, so sánh giữa tỉnh, thành phố, nơi nào có trình độ phát triển kinh tế càng cao thì tỷ lệ thất nghiệp càng cao, tiêu biểu là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Có thể nói, nguồn lao động lớn chưa sử dụng hoặc sử dụng chưa hiệu quả đang trở thành vấn đề xã hội. Thất nghiệp, thiếu việc làm, không chỉ khiến người lao động không có thu nhập để trang trải cuộc sống, không đủ để tái sản xuất sức lao động, khó thoát được nghèo đói, mà còn dẫn đến nhiều vấn đề xã hội như gây phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội, tệ nạn xã hội và tội phạm tăng… Sức ép về dân số tiếp tục gia tăng cũng sẽ làm cho tình trạng thiếu việc làm căng thẳng hơn trong thời gian tới. Nguyên nhân trực tiếp, dễ thấy nhất của tình trạng trên chính là sự 14
  15. chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ còn chậm. Tỷ trọng đóng góp vào tốc độ tăng trưởng do yếu tố vốn đóng góp còn chiếm tới gần 60%, còn do yếu tố lao động chỉ chiếm khoảng 20% (và do yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp chỉ chiếm trên 20%). Xóa đói giảm nghèoMặc dù Việt Nam đã hoàn thành sớm kế hoạch toàn cầu “giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015” mà Liên hợp quốc đề ra, nhưng thành tựu xoá đói giảm nghèo vẫn chưa vững chắc. Số hộ có mức thu nhập bình quân đầu người nằm ngay cận trên của chuẩn nghèo còn khá nhiều và nguy cơ bị tổn thương của các hộ này trước những đột biến bất lợi còn lớn và khả năng tái nghèo còn cao. Điều này thể hiện ở việc nếu so với mức “chuẩn” cũ của Việt Nam, năm 2008 người nghèo chiếm khoảng 13,5%; còn nếu theo chuẩn mới, tỷ lệ người nghèo sẽ tăng lên 20%. Nhưng, nếu tính theo cách của thế giới thì tỷ lệ này còn cao gấp 2-3 lần. Điều dễ nhận thấy là người nghèo đang gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Khả năng tiếp cận các dịch vụ, lợi ích của tăng trưởng và thành quả do sự phát triển mang lại cho mọi công dân một cách khách quan và công bằng chưa cao. Chẳng hạn, trong lĩnh vực y tế và giáo dục, báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc về an sinh xã hội cho biết nhóm 20% giàu nhất hưởng 45% các trợ cấp y tế, nhóm 20% nghèo nhất chỉ nhận được 7%; nhóm 20% giàu nhất hưởng 35% các trợ cấp giáo dục, trong khi nhóm 20% nghèo nhất chỉ nhận có 15% (Trần Hải Hạc, 2008). Bởi vậy, chỉ số đói nghèo HPI (tỷ lệ người sống dưới ngưỡng các phương diện phát triển con người) của Việt Nam rất cao, xếp thứ 36/177 quốc gia trong năm 2008. Những người thiếu thốn nhất tại Việt Nam phải chịu cảnh đói nghèo ở nhiều phương diện nhất Chất lượng nguồn nhân lực và các vấn đề giáo dục và y tế: Sự phát triển toàn diện con người Việt Nam đã được khẳng định thông qua sự gia 15
  16. tăng vững chắc của chỉ số HDI trong 15 năm qua, và trong báo cáo về phát triển con người của Liên hợp quốc năm 2005, Việt Nam đã được chú ý như một ví dụ thành công tiêu biểu cho nhóm nước đang phát triển cân bằng phát triển kinh tế và phát triển con người. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung ở Việt Nam còn thấp, cơ cấu còn bất hợp lý, chưa đáp ứng tốt nhu cầu đào tạo nhân lực, nhân tài. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến việc tăng cơ hội việc làm và thu nhập, mà còn là yếu tố hạn chế sức cạnh tranh của nền kinh tế và việc nâng cao chất lượng tăng trưởng. Theo kết quả điều tra lao động và việc làm của Tổng cục Thống kê, năm 2007 số người được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng (có trình độ sơ cấp hoặc có chứng chỉ hành nghề trở lên) chỉ chiếm 24%, rất thấp so với các nước trong khu vực. Hơn thế nữa, cơ cấu đào tạo của lực lượng lao động còn nhiều bất hợp lý, số lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật còn quá thiếu so với yêu cầu. Đội ngũ lao động trí thức của Việt Nam cũng yếu kém cả về số lượng và chất lượng so với khu vực và thế giới, chưa đáp ứng được yêu cầu triển khai công nghệ mới theo những mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chất lượng nguồn nhân lực phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống giáo dục - đào tạo, nhưng chất lượng giáo dục - đào tạo của cả hệ thống giáo dục quốc dân nói chung, vẫn là một vấn đề nhức nhối của cả đất nước trong nhiều năm trở lại đây. Chi cho giáo dục bình quân đầu người ở Việt Nam hiện nay cũng vào loại thấp nhất trong khu vực, và lại tập trung quá nhiều vào giáo dục tiểu học, trong khi cần ưu tiên cho giáo dục đại học để nâng cao nguồn lực con người, hỗ trợ cho nền kinh tế và đảm bảo tốc độ tăng trưởng trong nước. Việc cải cách hệ thống giáo dục được xem như một khâu nền tảng của một chiến lược phát triển nguồn nhân lực, chưa được triển khai một cách hiệu quả.Bên cạnh đó, trong lĩnh vực y tế, hiện vẫn còn một số khó khăn và đứng trước nhiều thách thức. Tình trạng quá tải của các cơ sở khám chữa bệnh, đặc biệt là ở các trung tâm, các thành phố lớn, ở các 16
  17. tuyến trên còn ở mức rất cao và kéo dài. Việc chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo còn hạn chế, chi phí cho y tế còn cao, quản lý nhà nước đối với một số lĩnh vực y tế còn buông lỏng, dẫn đến thị trường thuốc chữa bệnh chưa được kiểm soát chặt chẽ, an toàn thực phẩm còn thấp Công bằng xã hội và sự phân hóa giàu nghèo: xu hướng bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo vẫn đang ngày càng rõ rệt tại Việt Nam, thể hiện qua hệ số Gini tăng dần theo thời gian: từ 0,35 năm 1993 lên 0,43 năm 2006. Thực tế cho thấy tác động của tăng trưởng kinh tế tới giảm nghèo đang có xu hướng giảm và bất bình đẳng lại tăng lên tương ứng. Năm 1990, sự cách biệt của 20% số hộ giàu nhất và 20% số hộ nghèo nhất chỉ là 4,1 lần; nhưng con số đã tăng lên 8,37 vào năm 2006. Khoảng cách nông thôn – thành thị, sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng trong cả nước ngày càng lớn. Thực trạng trên trước hết cho thấy sự tồn tại của hai vấn đề: một là chênh lệch chính của một bộ phận người giàu và tình trạng nghèo khó của một bộ phận người nghèo; hai là sự điều tiết của Nhà nước bằng nhiều biện pháp như thuế thu nhập, chính sách phân phối, chính sách xã hội cần làm tốt hơn. Phân tích sâu hơn, chúng ta có thể thấy mặc dù kinh tế có bước tăng trưởng cao trong những năm qua, nhưng hiệu quả của nó tác động đến người nghèo lại giảm tương đối so với các tầng lớp có thu nhập cao. Theo một kết quả nghiên cứu, người nghèo không được hưởng đầy đủ các kết quả của quá trình tăng trưởng. Nếu tăng trưởng kinh tế tăng 10 điểm phần trăm, thì người nghèo chỉ có thể được hưởng lợi khác số đó. Trái lại, nhóm các hộ giàu có thể khai thác nhiều hơn cơ hội tăng trưởng cho phúc lợi của mình. Kết quả là, trong khi tăng trưởng kinh tế góp phần to lớn vào xóa đói giảm nghèo, thì chính nó lại gia tăng thêm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, do thành quả tăng trưởng không được chia sẻ một cách đồng đều mà theo hướng có lợi cho nhóm người vốn đã có cuộc sống dư dật, khá giả hơn. ở đây có sự đánh đổi giữa mục tiêu tăng trưởng và công bằng xã hội. Sở dĩ có tình trạng trên là do 17
  18. tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tập trung vào các ngành đòi hỏi vốn cao, ít lao động và lao động có trình độ cao, điều này chắc chắn tác động trực tiếp đến người nghèo, những người mà bản thân ít vốn liếng, tri thức và trình độ cao để tham gia vào các ngành sản xuất đó. Các chính sách bảo hộ, thay thế nhập khẩu sẽ làm tăng chi phí sản xuất và giá cả sản xuất đối với hàng triệu người nghèo. Cơ hội việc làm, thu nhập, tiếp cận thông tin, tri thức của người nghèo vì thế ngày càng thấp – điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong những năm tiếp theo. IV.Đề xuất hướng giải quyết Đảm bảo môi trường chính trị, xã hội ổn định cho hoạt động thu hút FDI Xây dựng quy hoạch chiến lược thu hút FDI, đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư: Xây dựng quy hoạch chiến lược thu hút FDI, Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động và xúc tiến đầu tư Xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật Nâng cao năng lực quản lý, điều hành của bộ máy quản lý nhà nước. Chú trọng công tác cán bộ và đào tạo công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Nước ta đang thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế- xã , đây là thời cơ để Việt Nam thực hiện chương trình tổng thể tổ chức lại sản xuất theo hướng nâng cao sức cạnh tranh, khắc phục những tồn tại yếu kém, tạo bước khởi đầu cho việc xây dựng và triển khai kế hoạch phát triển KT - XH cho năm tiếp theo. Vì thế, cần có các giải pháp chính sách khuyến khích:Thứ nhất, cần rút kinh nghiệm và bài học từ gói kích thích kinh tế đã thực hiện trong năm 2009. Công việc này cần được thực hiện và đánh giá một cách độc lập và khách quan không chỉ từ các cơ quan quản lý nhà nước mà còn từ các nhà khoa học dựa trên một hệ thống các tiêu chí và chứng cứ qua việc tiếp cận với các đối tượng thụ hưởng. Cần xem xét và đánh giá chính xác được những các được và 18
  19. mất đó trên các giác độ tổng thể kinh tế - xã hội cả trong ngắn hạn và dài hạn. Thứ hai, cần nâng cao năng lực điều hành của chính phủ. Chính phủ và các cơ quan chức năng phải bám sát tình hình và có những chính sách, giải pháp chỉ đạo điều hành kịp thời, linh hoạt, phù hợp trong thực thi chính sách tài chính, tiền tệ. Cần nâng cao năng lực dự báo và tăng cường phối hợp trao đổi thông tin dự báo giữa các cơ quan dự báo của chính phủ với các tổ chức nghiên cứu trong nước và quốc tế. Phải có cơ chế phối hợp đồng bộ, toàn diện hơn nữa giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là sự phối kết hợp chặt chẽ ngay từ khâu hoạch định chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá, chính sách tỷ giá và các chính sách khác để giải quyết và đạt được các mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định thị trường ngoại tệ. Nhà nước cần đánh giá, ghi nhận sự phản hồi sau một giai đoạn thực hiện chính sách để qua đó có thể có những điều chỉnh cụ thể kịp thời. Thứ ba, phối hợp nguồn tài trợ ngân sách từ trong nước và nước ngoài. Nếu sử dụng chính sách vay nợ nước ngoài nhằm tạo nguồn cho các khoản chi tiêu của chính phủ, thì các khoản nợ phải được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, đảm bảo nguồn trả nợ trong tương lai. Cần tính toán những ảnh hưởng tiêu cực của chính sách vay nợ nước ngoài đến tỷ giá và cán cân thương mại vốn đã thâm hụt. Đối với trong nước, cải cách lại cơ chế cấp phát ngân sách và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi nhằm đảm bảo chi ngân sách có hiệu quả. Thứ tư, cần tập trung vào tái cơ cấu doanh nghiệp VN, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, cần rà soát lại hệ thống doanh nghiệp DNNN, kiên quyết cắt bỏ các DNNN làm ăn thua lỗ. Bên cạnh đó, cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, đặc biệt là nguồn đầu tư từ ngân sách. Nghiên cứu lại việc phân bổ và sử dụng nguồn lực theo hướng nguồn lực cần phải được phân bổ đến những ngành có độ lan tỏa lớn, có giá trị gia tăng tạo ra cao. Ưu tiên hỗ trợ những doanh nghiệp mới có phương án kinh doanh khả thi và những doanh nghiệp có khả năng phát triển, có khả năng tiếp cận được với công nghệ hiện đại để giúp họ trang bị lại thiết bị, cải 19
  20. tiến công nghệ nhằm bắt kịp với nền sản xuất của thế giới. Sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chúng ta phải thấy rõ được những điểm yếu của nền kinh tế .Thứ năm, mức độ và hiệu quả của tái cơ cấu nền kinh tế lại phục thuộc vào việc giải quyết các “nút thắt” của nền kinh tế, đó là cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, công nghệ và bộ máy quản lý hành chính, một khi nền kinh tế đã khôi phục trở lại, cần chuyển sang ưu tiên đầu tư để giải tỏa các nút thắt trên. Cuối cùng, trong điều kiện suy giảm kinh tế cần quan tâm bảo đảm an sinh xã hội. Về mặt nguyên tắc, toàn bộ các tầng lớp dân cư phải là đối tượng được hưởng thụ an sinh xã hội. Nên quan tâm nhiều hơn đến nông dân, đối tượng chính sách và các nhóm đối tượng yếu thế, rủi ro hay chịu thiệt thòi... Việc quan tâm bảo đảm an sinh xã hội cho những đối tượng này không những góp phần kích thích, phục hồi tăng trưởng kinh tế mà còn bảo đảm ổn định về mặt XH KẾT LUẬN Qua gần 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tích đầy ấn tượng trong tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo. Điều này không chỉ góp phần giúp đất nước khắc phục tình trạng kém phát triển, mà còn làm tiền đề để thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội khác như giảm thất nghiệp, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách, phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, xóa đói giảm nghèo... Mặt khác, nhờ các chính sách đúng đắn, sự chỉ đạo sáng suốt của nhà nước và sự năng động của các doanh nghiệp đã biết tận dụng những thuận lợi về tự nhiên cũng như con người vào trong sản xuất kinh doanh và trong hội nhập thế giới. Làm tiền đề để phát triển xã hội, phát triển các ngành, lĩnh vực đang còn tiềm ẩn hoặc chưa có đủ điều kiện để mở rộng. Và từng bước thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển đất nước một cách toàn diện. Về cơ bản, những thành tựu 20
nguon tai.lieu . vn