Xem mẫu
- Đề bài
Câu 1: Phân tích lợi thế so sánh trong xuất khẩu của Việt Nam hiện nay?
Câu 2: Trong thập kỷ vừa qua đầu tư FDI của Hoa Kỳ sang Mexico tăng
mạnh. Bạn hãy cho biết điều này sẽ tác động như thế nào đối với di
chuyển lao động từ Mexico sang Hoa Kỳ ? (giả sử những yếu tố khác
không đổi).
Bài làm
Câu 1: Năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện đường lối Đổi mới với ba
trụ cột, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá t ập trung sang v ận hành
theo cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó
khu vực dân doanh đóng vai trò ngày càng quan trọng, chủ động h ội nh ập
kinh tế khu vực và thế giới một cách hiệu quả và phù hợp với điều kiện
thực tiễn của Việt Nam.
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nh ững thành
tựu to lớn, nền kinh tế Việt Nam luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá
cao liên tục trong nhiều năm. Việc trở thành thành viên của Tổ ch ức
Thương mại Thế giới (WTO) thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam hội nhập
sâu, rộng hơn vào kinh tế thế giới, cơ hội tranh thủ các nguồn lực bên
ngoài để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việt Nam đặt m ục
tiêu phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghi ệp theo
hướng hiện đại.
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 là văn bản luật đầu tiên góp phần tạo
ra khung pháp lý cho việc hình thành nền kinh tế thị trường tại Việt Nam.
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng
từng bước được hình thành. Chiến lược cải cách hành chính giai đoạn
- 2001-2010 là một quyết tâm của Chính phủ Việt Nam, trong đó nhấn
mạnh việc sửa đổi các thủ tục hành chính, luật pháp, cơ chế quản lý kinh
tế… để tạo ra một thể chế năng động, đáp ứng nhu cầu phát triển của
đất nước trong giai đoạn mới.
Các quan hệ kinh tế đối ngoại đã trở nên thông thoáng h ơn, thu hút
được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, m ở
rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển thêm một s ố lĩnh
vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng l ớn nh ư du l ịch, xu ất
khẩu lao động, kiều hối...
Trong hơn 20 năm đổi mới, GDP của Việt Nam đã tăng liên t ục.
Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), GDP chỉ tăng trưởng
bình quân 3,9%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1991-1995) đã nâng lên đ ạt
mức tăng bình quân 8,2%. Trong giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng GDP
của Việt Nam là 7,5%, thấp hơn nửa đầu thập niên 1990 do ảnh h ưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Từ năm 2001 đến nay, tốc đ ộ
tăng GDP của Việt Nam luôn giữ ở mức cao và ổn định. Năm 2003 tăng
7,3% ; 2004 : 7,7% ; 2005 : 8,4% ; 2006 : 8,2% ; 2007 : 8,5% và năm 2008,
trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu, Việt Nam vẫn đạt
mức tăng trưởng kinh tế là 6,2%.
Cùng với việc duy trì tốc độ tăng trưởng GDP, cơ cấu kinh t ế trong
nước của Việt Nam đã có sự thay đổi đáng kể.
Việt Nam đã sử dụng một cách hiệu quả các thành tựu kinh tế vào
mục tiêu phát triển xã hội như phân chia một cách tương đối đồng đều
các lợi ích của đổi mới cho đại đa số dân chúng; gắn kết tăng trưởng kinh
tế với nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển y tế, giáo dục; nâng ch ỉ
số phát triển con người (HDI) của Việt Nam từ vị trí thứ 120/174 nước
- năm 1994, lên vị trí thứ 109/177 nước trên thế giới năm 2007; tăng tuổi
thọ trung bình của người dân từ 50 tuổi trong những năm 1960 lên đ ến 73
tuổi năm 2008, giảm tỷ lệ số hộ đói nghèo từ trên 70% đầu nh ững năm
1980 xuống 14,75% năm 2007 (tương đương 2,7 triệu hộ nghèo), ước tính
còn khoảng trên 13% vào cuối năm 2008.
Ngoại thương và hội nhập kinh tế quốc tế: Với chủ trương tích
cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam
với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Vi ệt Nam là
thành viên quan trọng trong ASEAN, tích cực thực hiện các cam kết Khu
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), là thành viên tích c ực c ủa APEC,
ASEM và nhiều tổ chức kinh tế quốc tế khác. Hợp tác kinh tế của Việt
Nam với các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc,
Ấn Độ ngày càng được củng cố và mở rộng, Việt Nam đã ký hiệp định
thương mại song phương với Mỹ, đang đàm phán hiệp định đầu tư với
Mỹ, Hiệp định khung Đối tác và Hợp tác toàn diện (PCA) với EU, hiệp
định đối tác kinh tế toàn diện với Nhật Bản. Tháng 01 năm 2007, Việt
Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Th ế giới (WTO), có quan
hệ với trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, đánh dấu sự hội nhập toàn diện
và đầy đủ của Việt Nam vào nền kinh tế toàn cầu.
Từ sau đổi mới, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam mỗi năm tăng
khoảng 20%, nhờ đó đã đưa tổng giá trị xuất kh ẩu c ủa Vi ệt Nam t ừ m ức
khoảng nửa tỷ USD/năm trong những năm trước đổi mới lên 48,4 t ỷ USD
năm 2007 và 62,7 tỷ USD năm 2008. Kim ngạch nhập kh ẩu năm 2008 c ủa
Việt Nam là 80,4 tỉ USD. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có s ự chuy ển d ịch
tiến bộ. Trong giai đoạn 1991-1995, hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam gồm dầu thô, thủy sản, gạo, dệt may, cà phê, lâm sản, cao su, l ạc,
- hạt điều. Đến năm 2008, các mặt hàng xuất khẩu ch ủ yếu là d ầu thô, d ệt
may, giày dép, thủy sản, sản phẩm gỗ, điện tử, máy tính và gạo. C ơ cấu
này phản ánh xu hướng gia tăng các chủng loại mặt hàng chế biến, ch ế
tạo, và sự giảm đi về tỷ trọng của các mặt hàng xuất khẩu thô, chủ yếu
là các mặt hàng nông, lâm, hải sản và khoáng sản. Dù vậy, các mặt hàng
xuất khẩu thô của Việt Nam đến nay vẫn còn chiếm tỷ trọng cao, đòi h ỏi
sự nỗ lực hơn nữa để tăng nhanh các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được
ban hành tháng 12/1987 đã tạo khuôn khổ pháp lý cơ bản cho các ho ạt
động đầu tư nước ngoài trực tiếp tại Việt Nam. Luật đã có m ột s ố l ần
được sửa đổi, bổ sung, nổi bật là các lần sửa đổi vào nh ững năm 1996 và
năm 2002 nhằm tạo môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn hơn để
khuyến khích các nhà đầu tư nuớc ngoài đầu tư vào những mục tiêu trọng
điểm và những lĩnh vực ưu tiên, nhất là trong ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo hướng vào xuất khẩu và các vùng kinh tế trọng điểm của
đất nước.
Việc ban hành Luật Đầu tư 2005 đã tạo bước tiến dài trong việc
điều chỉnh, cải tiến môi trường đầu tư của Việt Nam để tạo thêm h ấp
dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, vi ệc đ ẩy m ạnh tháo g ỡ
những khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài, ch ỉnh s ửa
thuế thu nhập cá nhân theo hướng hạ thấp mức thuế, đẩy mạnh việc thực
hiện cơ chế một cửa, giảm giá dịch vụ viễn thông xuống ngang bằng
mức giá tại các nước trong khu vực, nâng cấp cơ sở hạ tầng, mở rộng
lĩnh vực đầu tư, cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư vào
một số lĩnh vực trước đây chưa cho phép như viễn thông, bảo hiểm, kinh
- doanh siêu thị, ngân hàng… cũng góp phần tạo nên một môi trường đầu tư
hấp dẫn hơn ở Việt Nam.
FDI vào Việt Nam tăng nhanh còn do các nguyên nhân quan trọng
khác như: sự ổn định về chính trị, kinh tế, an ninh và quốc phòng; n ền
kinh tế Việt Nam liên tục đạt mức tăng trưởng cao; công cuộc đổi mới
kinh tế theo cơ chế thị trường tiếp tục được duy trì và đẩy mạnh; mức
sống của người dân được nâng cao góp phần làm tăng mức cầu nội địa;
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh, uy tín và thương hiệu
của các loại hàng hóa sản xuất tại Việt Nam trên các thị trường thế giới
ngày càng được nâng cao.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã thu hút được một lượng đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) ngày càng lớn. Từ ở mức gần như con số
không vào năm 1986, vốn đăng ký FDI đã tăng lên 64 tỷ USD năm 2008.
Việt Nam hiện có 10.700 dự án đầu tư trực tiếp của 90 quốc gia và vùng
lãnh thổ đang hoạt động với tổng số vốn đầu tư gần 170 tỉ USD. FDI tăng
không chỉ hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu t ư n ước ngoài,
mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bổ sung nguồn vốn, chuy ển
giao công nghệ và phương thức kinh doanh hiện đại, khai thác các ti ềm
năng của đất nước, đào tạo tay nghề và giải quyết việc làm cho hàng
chục vạn lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
Nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh mẽ và tận dụng t ốt các c ơ h ội t ừ
thỏa thuận mậu dịch tự do ở Đông Á, Việt Nam cần đi theo h ướng phát
triển các ngành sản xuất có hiệu quả cao và mang tính cạnh tranh v ề xu ất
khẩu, thỏa thuận mậu dịch tự do Đông Á sẽ giúp mở rộng thêm thị trường
cho các mặt hàng có lợi thế truyền thống của VN như nông sản, thực
phẩm, cà phê, hàng may mặc...
- Để đối phó với thách thức từ AFTA và Trung Quốc, Việt Nam c ần
nhanh chóng tăng sức cạnh tranh của một loạt các ngành công nghiệp xét
ra có lợi thế so sánh để chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu sang Trung Quốc
và các nước ASEAN. Như vậy có hai câu hỏi cần trả l ời: Một là, Vi ệt
Nam có lợi thế so sánh trong những ngành nào? Hai là, làm sao để nhanh
chóng tăng sức cạnh tranh của những ngành đó?
1. Lợi thế so sánh tĩnh và động của Việt Nam
Lợi thế so sánh tĩnh là lợi thế hiện tại, có ngành đã phát huy được, cạnh
tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế, nhưng cũng có ngành chưa phát
huy được do môi trường hoạt động của doanh nghiệp còn nhiều h ạn ch ế.
Lợi thế so sánh động là lợi thế tiềm năng sẽ xuất hiện trong tương lai
gần hay xa khi các điều kiện về công nghệ, về nguồn nhân l ực và kh ả
năng tích luỹ tư bản cho phép. Nếu có chính sách tích c ực theo h ướng t ạo
ra nhanh các điều kiện đó sẽ làm cho lợi thế so sánh động sớm chuy ển
thành sức cạnh tranh hiện thực.
Để dễ phân tích, ta có thể chia các ngành công nghiệp thành năm nhóm:
Nhóm A: Những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động
giản đơn, như vải vóc, quần áo, giày dép, dụng cụ lữ hành, dụng cụ du
lịch, v.v..
Nhóm B: Những ngành vừa có hàm lượng lao động cao vừa sử dụng
nhiều nguyên liệu nông lâm thuỷ sản như thực phẩm gia công các loại, đồ
uống, v.v..
Nhóm C: Những ngành có hàm lượng tư bản cao và dựa vào ngu ồn tài
nguyên khoáng sản như thép, hoá dầu.
- Nhóm D: Những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động
lành nghề, lao động có kỹ năng cao với nhiều trình độ khác nhau, nh ư đ ồ
điện gia dụng, xe máy, máy bơm nước và các loại máy móc khác, bộ phận
điện tử, linh kiện điện tử, v.v..
Nhóm E: Những ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao như máy
tính, xe hơi, máy công cụ, các linh kiện, bộ phận điện tử cao cấp, v.v..
Trên thị trường thế giới, Trung Quốc đang cạnh tranh mạnh trong nhóm A
và các sản phẩm lắp ráp trong nhóm D. Thái Lan và các nước ASEAN đi
trước (ASEAN-4) có lợi thế trong nhóm B và các sản phẩm lắp ráp trong
nhóm D. Nhóm A và nhóm B là những ngành Việt Nam đang có l ợi th ế so
sánh. Nhưng trong hai ngành chủ lực là may mặc và giày dép, hi ện nay
Việt Nam mới tập trung trong công đoạn gia công và ch ủ y ếu d ựa vào lao
động giản đơn. Việt Nam cần nỗ lực nội địa hoá các công đo ạn có giá tr ị
tính thêm cao. Nhưng dù sao các ngành này vẫn là nhóm thuộc các ngành
Việt Nam có lợi thế so sánh tĩnh, nghĩa là những ngành đã và hi ện đang có
sức cạnh tranh.
Vấn đề quan trọng hơn là Việt Nam phải xác định được những lĩnh vực
mà nhu cầu thế giới đang tăng, đồng thời xét ra Việt Nam có lợi th ế so
sánh động sẽ làm chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất kh ẩu trong t ương
lai không xa.
Vấn đề thứ hai là Việt Nam có lợi thế so sánh động trong những ngành
này không. Thứ nhất, ta thử xem trong quá khứ những nước có trình độ
phát triển như Việt Nam hiện nay đã bước vào giai đoạn phát tri ển các
ngành này chưa. Thứ hai, là xem các công ty đa quốc gia trong lĩnh v ực
trên đang đánh giá môi trường đầu tư của Việt Nam ra sao và hiện nay các
dự án họ đang triển khai có đặc điểm gì…
- Như vậy phương hướng chiến lược của công nghiệp Việt Nam đã khá rõ.
Vấn đề là phải đưa ra được chính sách, chiến lược cụ thể để đón đầu
dòng thác công nghiệp ở Đông Á, tạo ra một sự chuyển dịch mạnh m ẽ
cho cơ cấu công nghiệp Việt Nam, phát huy tiềm năng để h ội nh ập có
hiệu quả vào trào lưu tự do hoá thương mại ở khu vực này.
2. Chiến lược, biện pháp nào?
Làm sao để có thể tham gia mạnh mẽ vào sự phân công ở Đông Á trong
các ngành sản xuất các loại máy móc? Ở đây ta không có đi ều ki ện đi sâu
vào vấn đề này, nhưng từ phân tích thực trạng của Việt Nam có thể tóm
tắt ba điểm liên quan đến chiến lược, biện pháp như sau:
Thứ nhất, cần chuyển từ chiến lược, chính sách thay thế nh ập
khẩu sang chiến lược xúc tiến xuất khẩu. Hầu hết các ngành thuộc hai
nhóm D và E đều đang sản xuất tại Việt Nam nh ưng có một đặc tính
chung là sản xuất chủ yếu cho thị trường nội địa, được bảo h ộ bằng thu ế
quan ở cả sản phẩm cuối cùng và sản phẩm trung gian. Chính sách đánh
thuế cao trên linh kiện, bộ phận để tăng tỷ lệ nội địa hoá đã làm tăng giá
thành sản phẩm lắp ráp, sản phẩm này do đó phải được bảo h ộ trong th ị
trường nội địa. Hơn nữa, chỉ sản xuất cho thị trường nội địa nên quy mô
sản xuất quá nhỏ không phát huy tính quy mô kinh tế. Tính quy mô kinh tế
là hiệu quả trong đó phí tổn sản xuất của một đơn vị sản phẩm giảm theo
lượng tăng của quy mô sản xuất., càng làm cho giá thành tăng. Đó là cái
vòng luẩn quẩn cản trở sức cạnh tranh. Trong quá khứ, nhiều nước châu
Á cũng theo chính sách này nhưng phải tốn nhiều năm mới có sức cạnh
tranh và chuyển sang xuất khẩu. Tuy nhiên, Việt Nam bây giờ không thể
theo chiến lược này vì phải giảm thuế trong các chương trình tự do hoá
thương mại, trước mắt là với ASEAN và sau này với Trung Quốc.
- Như vậy, chính sách vừa giữ mức thuế quan cao đối với linh ki ện, b ộ
phận nhưng vừa cho tự do nhập khẩu sản phẩm nguyên chi ếc trong
khuôn khổ AFTA đang đặt các ngành điện, điện tử gia dụng và các ngành
máy móc khác của Việt Nam trước một thách thức rất lớn là không th ể
cạnh tranh được với hàng nhập từ ASEAN và Trung Quốc, và do đó nhiều
công ty đa quốc gia có thể sẽ phải đóng cửa nhà máy tại Việt Nam,
chuyển sang sản xuất tại Thái Lan và các nước có quy mô sản xuất l ớn
với các ngành công nghiệp phụ trợ đã phát triển. Như đã đề cập ở trên,
các công ty của Nhật đánh giá cao tiềm năng của Việt Nam, và theo tính
toán của những công ty đã đầu tư tại nước ta trong ngành điện đi ện t ử gia
dụng, nếu vấn đề linh kiện, bộ phận được giải quyết, các sản phẩm
nguyên chiếc của Việt Nam có khả năng xuất khẩu sang Nhật và các thị
trường lớn khác, và dưới thể chế AFTA có thể xuất khẩu sang nhiều
nước ASEAN. Trong trường hợp đó, quy mô sản xuất sẽ mở rộng nhanh
chóng, kích thích sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ.
Để xây dựng các ngành công nghiệp phụ trợ, trong quá kh ứ cũng có nhi ều
nước đã áp dụng biện pháp nâng cao thuế suất linh kiện nh ập kh ẩu
nhưng phải đồng thời bảo hộ sản phẩm nguyên chiếc. Việt Nam ngày
nay không thể bảo hộ sản phẩm nguyên chiếc thì ph ải theo m ột chi ến
lược khác. Chính sách tối ưu hiện nay là phải nhanh chóng tăng năng lực
cạnh tranh để xuất khẩu được sản phẩm nguyên chiếc, từ đó quy mô s ản
xuất trong nước tăng nhanh, tạo điều kiện để các công ty cung cấp sản
phẩm công nghiệp phụ trợ đầu tư lớn. Thật ra, nếu nhà n ước có tín hi ệu
về sự thay đổi chính sách theo hướng đó thì công ty nước ngoài có th ể s ẽ
đầu tư để xây dựng các cụm công nghiệp ngay từ bây giờ. Các loại máy
móc gồm nhiều công đoạn nên thường có sự phân công hàng ngang giữa
- các nước trong việc sản xuất và cung cấp lẫn nhau các linh kiện, bộ
phận. Thêm vào đó, khi sản phẩm nguyên chiếc sản xuất cả cho th ị
trường thế giới thì các công ty lắp ráp phải thường xuyên thay đổi c ơ
năng, mẫu mã, kiểu dáng của sản phẩm. Điều này buộc họ ph ải luôn b ảo
đảm một sự cơ động, linh hoạt trong việc tổ chức quản lý dây chuy ền
cung cấp của các sản phẩm phụ trợ và do đó phải tăng tỷ lệ nội đ ịa hoá,
chủ động tham gia xây dựng các cụm công nghiệp.
Thứ hai, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu t ư trực ti ếp n ước
ngoài (FDI) hơn nữa. FDI là biện pháp h ữu hiệu, là con đường ng ắn nh ất
để tăng sức cạnh tranh. Thay đổi chính sách theo hướng đẩy mạnh xuất
khẩu và tự do hoá nhập khẩu sản phẩm trung gian như đã nói ở trên sẽ
thu hút FDI dễ dàng. Việt Nam phải trở thành những cứ điểm sản xu ất và
lưu thông có hiệu suất mới hấp dẫn các công ty đa quốc gia. Cứ điểm sản
xuất và lưu thông có hiệu suất là nơi bảo đảm sản xuất một s ản ph ẩm
với giá thành rẻ, chất lượng cao và phân ph ối đúng th ời h ạn. N ếu m ột c ơ
sở sản xuất nào đó không cung cấp đúng thời hạn thì cả mạng lưới sản
xuất toàn khu vực bị ảnh hưởng, do đó các công ty đa quốc gia rất nhạy
cảm về vấn đề này khi chọn môi trường đầu tư. Phân phối là công việc
của nhà sản xuất, của công ty đa quốc gia, nhưng yếu tố quy định phân
phối là môi trường đầu tư trong đó hạ tầng phần cứng (hệ th ống giao
thông, thông tin, v.v.) và phần mềm (thủ tục hành chính, thuế quan, lu ật
lệ, quy định, v.v.) có vai trò quyết định. Phí tổn liên quan đến việc này còn
được gọi là phí tổn nối kết dịch vụ, đang ngày càng trở thành y ếu t ố quan
trọng cho việc đánh giá môi trường đầu tư. Về ý nghĩa và liên quan giữa
phí tổn nối kết dịch vụ với FDI.
- Thứ ba, cần đẩy mạnh sự liên kết giữa các công ty FDI với các lo ại
doanh nghiệp trong nước như doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư
nhân. Các công ty trong nước (nhà nước và tư nhân) có th ể đ ẩy mạnh liên
kết với các công ty đa quốc gia ở hai mặt: liên kết hàng d ọc và liên k ết
hàng ngang.
Liên kết hàng dọc là nỗ lực cung cấp bộ phận, linh ki ện cho các
công ty FDI, góp phần đưa nền công nghiệp cả nước tiến về thượng
nguồn trong chuỗi giá trị.
Liên kết hàng ngang là tiến hành hợp tác với các công ty đa quốc gia v ề
nhiều mặt để sản xuất và xuất khẩu ra thị trường thế giới.
Câu 2: Xét về mặt lý thuyết, khi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước đầu
tư sẽ tăng được GNP; tăng hiệu quả sử dụng vốn, mở rộng chiếm lĩnh thị
trường tiêu thụ và cung cấp nguyên liệu, giảm chi phí, hạ giá thành sản
phẩm; tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước sở tại; Tuy nhiên
nguy cơ rủi ro sẽ cao hơn trong nước và có thể làm suy thoái nước chủ
nhà.
Đối với đơn vị tiếp nhận đầu tư sẽ có rất nhiều thuận lợi như tăng
quy mô GDP, khai thác được nhiều nguồn vốn bên ngoài, tiếp thu công
nghệ và bí quyết quản lý, khai thác có hiệu quả lợi thế của đất nước, tăng
số lượng việc làm, đào tạo được lực lượng nhân công, có nguồn thu ngân
sách lớn. Tuy nhiên nước nhận đầu tư sẽ có thể tiếp cận với công nghệ
lạc hậu, nguồn tài nguyên có thể bị khai thác quá mức.
Giả sử, trong thập kỷ vừa qua đầu tư FDI của Hoa Kỳ sang Mexico
tăng mạnh, điều này sẽ tác động đối với di chuyển lao động từ Mexico
sang Hoa Kỳ (giả sử những yếu tố khác không đổi).
- Mặc dù lao động di cư có vai trò quan trọng trong việc duy trì nền
sản xuất và thúc đẩy phát triển kinh tế. Tuy nhiên cách tiếp cận di chuyển
lao động và đánh giá tác động di chuyển lao động giữa các quốc gia là
hoàn toàn khác nhau.
Khi đầu tư của Hoa Kỳ sang Mexico tăng mạnh, điều đó có thể nhận
thấy: lượng vốn của Hoa Kỳ rất lớn, thu nhập của người dân cao, khoa
học công nghệ phát triển mạnh; tuy nhiên có thể tại đất nước này có một
lượng lớn người không đủ trình độ để làm công việc cấp cao hơn là làm
công nhân hoặc thiếu hụt lao động hoặc do dân số già….mặt khác trong
ngành nghề liên quan đến dịch vụ như kiến trúc, kỹ sư, các hoạt động liên
quan đến máy tính, giám sát, tổng quan kiểm soát…thì họ phải cần đến
trình độ công nghệ cao, nhu cầu nhân lực trí thức rất cao. Mặt khác khi
đầu tư sang Mexico, Hoa Kỳ sẽ tận dụng được nguồn nhân công rẻ mạt
tại nước này. Tuy người dân Mexico có thêm việc làm, có thêm thu nhập
nhưng số tiền công mà họ nhận được vẫn thấp hơn rất nhiều so với sức
lao động mà họ họ đã bỏ ra; thu nhập của họ tăng chậm hơn so với mức
độ tăng trưởng trung bình của đất nước, khoảng cách giữa người giàu và
người nghèo ngày càng cách xa. Tình trạng chiếm dụng nhân công tràn lan
khiến cho người có trình độ, có tay nghề phải tự cứu mình. Tất yếu sẽ
xảy ra tình trạng di chuyển lao động từ Mexico sang Hoa Kỳ.
Mục đích duy nhất của sự di chuyển lao động nhằm tạo dựng một
cuộc sống đầy đủ hơn cho bản thân, cho gia đình và cho xã hội. Sự di
chuyển lao động luôn tuân theo một quy luật: lao động của các nước chưa
phát triển di chuyển sang những nước giàu có hơn, tốt cho sức khoẻ hơn,
và có được một chính sách giáo dục tốt hơn so với cố quốc.
- Nếu như lao động có kỹ năng, có trình độ của Mexico sang Hoa Kỳ
một cách ồ ạt thì sẽ dẫn đến tình trạng chảy màu chất xám tại Mexico.
Hậu quả hiển nhiên của tình trạng này là Mexico đã thiếu nhân tài nay
càng lại thiếu hơn. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra: Hiện tượng chảy máu
chất xám chỉ hoàn toàn có tính tiêu cực? Khi người có trình độ, có tay
nghề đến một đất nước phát triển giàu có sẽ giúp cho nước bị chảy máu
chất xám giải quyết được tình trạng dư thừa lao động, đem về một lượng
ngoại tệ rất lớn. Do vậy, các nhà phân tích khuyến cáo cần phải có cái
nhìn tỉnh táo hơn về hiện tượng vẫn quen gọi là chảy máu chất xám.
Trong những tình huống mà phải dùng biện pháp hành chính để kìm hãm
nó là thất sách, cần phải có biện pháp đồng bộ để chất xám được sử
dụng đúng cách sao cho có lợi nhất cho cả xã hội và bản thân người lao
động./.
nguon tai.lieu . vn