Xem mẫu

  1. HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT  *** TIỂU LUẬN  MÔN: KHOA HỌC QUẢN LÝ Đề tài: VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ TRONG QUẢN  LÝ LĨNH VỰC VỀ DỊCH VỤ HOẠT ĐỘNG KARAOKE  TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ Sinh viên thực hiện: Phạm Thành Nhân Lớp: KHQLNN K40B Kiên Giang
  2. 2 KIÊN GIANG ­ 2022 2
  3. 3    MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu  2.1. Mục đích nghiên cứu 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu 3.2. Phạm vi nghiên cứu 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận 4.2. Phương pháp nghiên cứu  5. Kết cấu của tiểu luận Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ LĨNH VỰC  HOẠT ĐỘNG KARAOKE TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ 1.1. Khái niệm,  vai trò 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản 1.2.Vai trò quản lý nhà nước trong hoạt động văn hóa và quản lý hoạt động  kinh doanh dịch vụ: 1.3.Các yêu cầu chủ yếu đối với cán bộ quản lý 1.3.1. Yêu cầu về phẩm chất chính trị 1.3.2. Yêu cầu về kiến thức pháp luật  1.3.3. Yêu cầu về chuyên môn  1.3.4. Yêu cầu về năng lực tổ chức quản lý  1.3.5. Yêu cầu về phẩm chất đạo đức và tác phong  1.4. Những nhân tố xây dựng đội ngũ cán bộ 1.4.1. Kế hoạch hoá đội ngũ cán bộ quản lý  1.4.2. Phân   định  chức năng, quyền hạn và trách nhiệm cho cán bộ   trong bộ máy quản lý  1.4.3. Lựa chọn cán bộ quản lý  1.4.4. Đánh giá cán bộ quản lý  1.4.5. Đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ quản lý  1.4.6. Bố trí, sử dụng cán bộ  Chương 2 THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ VỂ DỊCH VỤ HOẠT  ĐỘNG KARAOKE TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ
  4. 4    2.1. Đặc điểm, tình hình chung 2.2.Chủ  thể  quản lý hoạt động dịch vụ  karaoke  ở  thành phố  Rạch Giá,  tỉnh Kiên Giang 2.3.Thực trạng về hoạt động dịch vụ karaoke trên địa bàn thành phố Rạch  Giá, tỉnh Kiên Giang 2.3.1. Tình hình chung về hoạt động dịch vụ karaoke trên địa bàn thành   phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang hiện nay 2.3.2.Công tác quản lý nhà nước hoạt động dịch karaoke trên địa bàn  Thành phố Rạch Giá (2019­2020) 2 3.2.1. Những kết quả đạt được 2.3.2.2.Những hạn chế, tồn tại 2.3.2.3.Những kinh nghiệm và những vấn đề  đặt ra đối với công tác  quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ karaoke trên địa bàn hiện nay CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA CÁN  BỘ QUẢN LÝ TRONG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ  KARAOKE TRỂN ĐỊA BÀNTHÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN  GIANG   3.1. Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, định hướng nhận  thức của toàn xã hội đối với hoạt động karaoke trong giai đoạn hiện nay 3.2. Đảm bảo hài hòa giữa kinh tế  và văn hóa. Phát triển văn hóa,  hoạt động kinh doanh dịch vụ  karaoke trên cơ  sở  bền vững, tăng cưòmg  tiềm lực, đưa hoạt động văn hóa phát triển phù hợp với phát triển kinh tế  ­ xã hội của địa phương 3.3. Nâng cao hiệu quả  công tác thanh, kiểm tra hoạt động dịch vụ  karaoke   và   vai   trò   quân   lý   nhà   nước   trong   lĩnh   vực   hoạt   động   dich   vụ  kareoke là một hoat động mang tính giải trí cao: 3.4. Nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ  quản lý văn hóa từ  thành   phố đến cơ sở C. PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO
  5. 5    MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngay từ  khi con người bắt đầu hình thành nhóm, đã đòi hỏi phải có sự  phối hợp hoạt động của các cá nhân để duy trì sự sống và do đó cần sự quản lý.  Từ khi xuất hiện nền sản xuất xã hội, các quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội càng   tăng lên thì sự phối hợp các hoạt động riêng rẽ càng tăng lên. Ngày nay, hầu như  tất cả mọi người đều công nhận tính thiết yếu của quản lý và thuật ngữ quản lý   đã trở thành câu nói hàng ngày của nhiều người, từ người lãnh đạo cao nhất đến  người dân bình thường.  Như vậy, quản lý đã trở thành một hoạt động phổ biến, diễn ra trên mọi lĩnh  vực, mọi cấp độ và có liên quan đến mọi người. Đó là một loại hoạt động xã hội bắt  nguồn từ tính chất cộng đồng dựa trên sự phân công và hiệp tác để làm một công việc  nhằm đạt một mục tiêu chung. C. Mác đã viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp  hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần   đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức   năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận   động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều  khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. Văn hóa có vai trò quan trọng, vừa là mục tiêu là động lực thúc đẩy sự phát  triển kinh tế­xã hội. Trong những năm vừa qua, đã đẩy mạnh phát triển các hình   thức dịch vụ  văn hóa. Nhiều mô hình hoạt động văn hóa đã ra đời như  các câu  lạc bộ, các đội nhóm văn nghệ, các vũ trường, cửa hàng kinh doanh băng đĩa, tụ  điểm ca hát sân khấu ngoài trời, khu vui chơi giải trí dành cho thiếu nhi, rạp   chiếu phim, siêu thị sách… Các mô hình kinh doanh dịch vụ văn hóa, đáng kể là  dịch vụ kinh doanh karaoke, phát triển khá mạnh đã góp phần làm phong phú, đa  dạng hoạt động văn hóa, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của mọi tầng lớp  nhân dân. Karaoke là hình thức giải trí du nhập vào nước ta. Về bản chất, đây là  hình thức giải trí lành mạnh, hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa  của cộng đồng, làm phong phú thêm cuộc sống văn minh. Tuy nhiên, trong quá  trình kinh doanh, nhiều cơ  sở  đã lợi dụng karaoke để  thực hiện các hoạt động   trái pháp luật, làm biến tướng, mất đi ý nghĩa ban đầu của karaoke. Thay vì nghĩ 
  6. 6    đến karaoke là một hoạt động văn hóa giải trí thì nhiều người lại liên tưởng đến   chốn ăn chơi dành cho những kẻ  đua đòi, nơi chứa chấp các tệ  nạn xã hội.   Trước diễn biến tình hình phức tạp, các cơ  quan quản lý nhận thấy những ảnh  hưởng tiêu cực của loại hình dịch vụ  nhạy cảm này và đã ban hành nhiều văn   bản pháp lý cũng như  có những động thái nhất định nhằm chấn chỉnh dịch vụ  kinh doanh. Kinh doanh karaoke đã có những chuyển biến tích cực. Phần lớn các   cơ sở tại phường đã đầu tư cho phòng hát với tiêu chí đẹp, lịch sự, an toàn phòng  chống cháy nổ, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ nhưng trên thực tế, vẫn  còn những cơ  sở  chưa chấp hành quy định về  kinh doanh karaoke, thậm chí có  những cơ sở cố tình vi phạm với những thủ đoạn tinh vi, được bao bọc kỹ càng.  Với những công cụ  pháp lý được ban hành, vai trò của cán bộ  trong việc   quản lý dịch vụ  kinh doanh karaoke trên địa bàn thành phố  Rạch Giá, do đó, có  phần thuận lợi hơn vì nhận được sự  hợp tác của các cơ  sở  kinh doanh nhưng   cũng có những khó khăn nhất định bởi một số cơ sở vẫn cố tình vi phạm, hoặc  trước mặt thì hợp tác nhưng phía sau lại có những mánh khóe để tránh né các cơ  quan chức năng. Từ thực tế trên, tôi quyết định chọn đề  tài "  Vai trò của cán bộ  quản lý trong quản lý lĩnh vực về  dịch vụ  Karaoke trên địa bàn thành phố  Rạch   Giá" là cần thiết, đáp  ứng yêu cầu thực tiễn quản lý xã hội nói chung, quản lý   dịch vụ hoạt động Karaoke trên địa bàn thành phố nói riêng. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu  2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ  sở  làm rõ một số  vấn đề  lý luận và thực trạng vai trò của cán bộ  quản lý trong quản lý lĩnh vực về  dịch vụ  Karaoke trên địa bàn thành phố;  tiểu  luận đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường vai trò của cán bộ quản  lý trong quản lý lĩnh vực về dịch vụ Karaoke trên địa bàn thành phố trong thời gian  tới, đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố nói riêng và đất nước nói chung. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để  đạt được mục đích nêu trên,  cần  tập trung thực hiện các nhiệm vụ  sau: Một là, làm rõ một số vấn đề  lý luận về  vai trò của cán bộ  quản lý trong  quản lý lĩnh vực về dịch vụ Karaoke trên địa bàn thành phố Rạch Giá; Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng quản  vai trò của cán bộ và hoạt động  Karaoke trên địa bàn thành phố Rạch Giá hiện nay; Ba là, đề  xuất giải pháp nhằm tăng cường vai trò của cán bộ  trong công  tác quản lý hoạt động Karaoke trên địa bàn thành phố  Rạch Giá trong thời gian  tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của  tiểu luận  là  vai trò của cán bộ  quản lý trong  quản lý lĩnh vực về dịch vụ Karaoke trên địa bàn thành phố. 
  7. 7    3.2. Phạm vi nghiên cứu Tiểu luận chỉ nghiên cứu vai trò của cán bộ  quản lý trong quản lý lĩnh vực  về  dịch vụ  Karaoke trên địa bàn thành phố Rạch Giá. Đồng thời, tiểu luận cũng  chỉ nghiên cứu vai trò của cán bộ  trong quản lý hoạt động Karaoke trên địa bàn  thành phố Rạch Giá, không nghiên cứu quản lý về công tác này của các chủ thể  khác. Về không gian nghiên cứu: thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Về thời gian nghiên cứu: năm 2019 và năm 2020. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Đề  tài được thực hiện trên cơ  sở  lý luận khoa học của chủ  nghĩa Mác ­  Lê nin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà  nước về  phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật trong thời kỳ  công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 4.2. Phương pháp nghiên cứu  ̉ ̉ Đê giai quyêt cac nhi ́ ́ ệm vụ  nghiên cưu mà đê tai đ ́ ̀ ̀ ặt ra, tác giả  sử  dung ̣   phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp  với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể sau: ­ Phương phap phân tich, tông h ́ ́ ̉ ợp được tac gia s ́ ̉ ử dung  ̣ ở các chương của   luận văn nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận, khái quát hóa, đanh gia th ́ ́ ực trang, ch ̣ ỉ  ra phương hướng, đê xuât giai phap tăng c ̀ ́ ̉ ́ ường quản lý hoạt động Karaoke trên  địa bàn thành phố Rạch Giá.  ­ Phương phap nghiên c ́ ứu tài liệu, so sánh được sử dụng nhằm kế thừa có  chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu đã có, từ đó vận  dụng vào thực tiễn công tác quản lý hoạt động Karaoke trên địa bàn thành phố  Rạch Giá hiện nay. ­ Phương phap lich s ́ ̣ ử, thông kê va so sanh và đi ́ ̀ ́ ều tra xã hội đê xem xet ̉ ́  ̣ ̣ ̉ ̀ môt cach cu thê vê quá trình qu ́ ản lý hoạt động Karaoke trên địa bàn thành phố  Rạch Giá hiện nay. ­ Phương pháp dự  báo được sử  dụng để  phán đoán tình hình trên địa bàn  thời gian tới, từ  đó đề  xuất các giải pháp phù hợp nhằm tăng cường quản lý  hoạt động Karaoke trên địa bàn thành phố Rạch Giá.   5. Kết cấu của tiểu luận Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.
  8. 8    Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ LĨNH VỰC  HOẠT ĐỘNG KARAOKE TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ 1.1. Khái niệm,  vai trò 1.1.1. Một số khái niệm cơ bản * Khái niệm về quản lý Ngay từ  khi con người bắt đầu hình thành nhóm, đã đòi hỏi phải có sự  phối hợp hoạt động của các cá nhân để duy trì sự sống và do đó cần sự quản lý.  Từ khi xuất hiện nền sản xuất xã hội, các quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội càng   tăng lên thì sự phối hợp các hoạt động riêng rẽ càng tăng lên. Ngày nay, hầu như  tất cả mọi người đều công nhận tính thiết yếu của quản lý và thuật ngữ quản lý   đã trở thành câu nói hàng ngày của nhiều người, từ người lãnh đạo cao nhất đến  người dân bình thường.  Quản lý là một chức năng lao động xã hội bắt nguồn từ tính chất xã hội của  lao động. Theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con người.  Cho  đến nay, về cơ bản mọi người đều cho rằng:  quản lý chính là các hoạt động do   một hoặc nhiều người điều phối hành động của những người khác nhằm thu   được kết quả mong muốn.  Từ  những ý chung của các định nghĩa và xét quản lý với tư  cách là một  hoạt động, có thể định nghĩa: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích   của chủ thể quản lý tới đối tướng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.  * Khái niệm Quản lý nhà nước Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ  quan nhà nước tiến hành đối với tất cả mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội, trên   tất cả  các mặt của đời sống xã hội bằng cách sử  dụng quyền lực nhà nước có  tính cưỡng chế  đơn phương nhằm mục tiêu phục vụ  lợi ích chung của cộng  đồng, duy trì ổn định, an ninh trật tự và thúc đẩy xã hội phát triển theo một định  hướng thống nhất của Nhà nước. * Khái niệm về cán bộ quản lý Hiện nay, có nhiều cách định nghĩa cán bộ quản lý. Một số tác giả không   sử  dụng thuật ngữ “cán bộ  quản lý” mà sử  dụng thuật ngữ “nhà quản lý”, theo  đó, “nhà quản lý là người có quyền và trách nhiệm quản lý một bộ  phận, một   đơn vị hoặc toàn bộ tổ chức” . Theo tác giả Phạm Ngọc Thanh, “Cán bộ quản lý  là người quản lý, thực hiện những chức năng và nhiệm vụ  quản lý nhất định   trong một tổ chức, thông qua tuyển cử hoặc bổ nhiệm, có những quyền hạn và   trách nhiệm nhất định trong tổ  chức, thông qua tuyển cử  hoặc bổ  nhiệm, có  những quyền hạn và trách nhiệm nhất định trong quá trình thực hiện các nhiệm  vụ  quản lý của tổ  chức”. Tác giả  Phan Huy Đường đưa ta khái niệm cán bộ  quản lý theo hướng nhấn mạnh ba khía cạnh của công việc quản lý: “Cán bộ  quản lý là người lập kế  hoạch, tổ  chức, lãnh đạo và kiểm soát công việc của   những người khác để hệ thống do họ quản lý đạt được mục đích của mình”.
  9. 9    Như vậy, nhìn chung, cán bộ quản lý là các cá nhân thực hiện những chức   năng và nhiệm vụ quản lý nhất định của bộ máy quản lý. Mỗi cán bộ  quản lý nhận trách nhiệm trong bộ  máy quản lý bằng một  trong hai hình thức: tuyển cử và bổ nhiệm. Người được tuyển cử  chịu trách nhiệm trước người và cơ  quan đã tuyển  cử  mình. Người được bổ  nhiệm chịu trách nhiệm trước cơ  quan đã bổ  nhiệm   mình. Dù bằng hình thức nào, cán bộ quản lý cũng giống nhau ở chỗ có quyền và   trách nhiệm nhất định. * Khái niệm Quản lý nhà nước về văn hóa Về  cơ  bản, quản lý nhà nước về  văn hóa là sự  tác động liên tục, có tổ  chức, có chủ đích của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật và bộ  máy nhằm phát  triển văn hóa, điều chỉnh hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh  vực văn hóa và liên quan. * Khái niệm kinh doanh Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm kinh doanh hay hoạt   động kinh doanh. Dưới góc độ  pháp lý tại khoản 2 Điều 4 Luật Doanh nghiệp  2005 thì kinh doanh được hiểu là: “Việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất   cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sân xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc  cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Hay: Kinh doanh là  bỏ  ra một số  vốn ban  đầu vào hoạt  động trên thị  trường để thu lại một lượng vốn lớn hơn sau một khoảng thời gian nào đấy. Như vậy, qua các khái niệm trên ta hiểu kinh doanh là việc đầu tư  công sức và   tiền   của   để  tổ   chức   các   hoạt   động   nhằm   mục   đích   sinh   lợi   nhuận   trên   thị  trường. C. Mác cho rằng: “Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, khi mà  kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông thông suốt, trôi chảy,  liên tục đê thoả  mãn nhu cầu ngày càng cao đó của con người thì dịch vụ  ngày   càng phát triển”. Như vậy, với định nghĩa trên, C. Mác đã chỉ ra nguồn gốc ra đời và sự phát  triển của dịch vụ, kinh tế  hàng hóa càng phát triển thì dịch vụ  càng phát triển  mạnh. * Quan niệm về dịch vụ Karaoke Karaoke là hình thức hát theo bài nhạc đệm có sẵn với lời được chạy trên   màn hình. Thông thường, một bài hát được ghi âm sẽ  bao gồm phần nhạc đệm  của các nhạc cụ và tiếng hát. Các bài hát chỉ có nhạc đệm mà không có tiếng hát   được gọi là karaoke. Nguồn gốc của karaoke có xuất xứ  từ Nhật Bản; khi nói đến nước Nhật   không thể  không nói đến các quán Bar; chơi đàn Guitar hoặc chơi đàn Piano   truyền thống, vốn là địa bàn giải trí chủ  yếu của các doanh nhân Nhật từ nhiều   năm trở về trước. Trong các quán Bar, khán giả được mời hoặc tình nguyện hát  với nhạc đệm của Piano. Từ đó, karaoke bắt đầu hình thành tại thành phố  Kore  của nước Nhật vào những năm 1970.
  10. 10    Sự phát triển các hoạt động giải trí trong nhà như các quán bar, vũ trường,  phòng hát karaoke... là cần thiết. Karaoke thật sự  bùng phát khi công nghệ  đĩa   lade và đĩa compact cho phép những bài hát thể hiện trên màn hình tivi. Vì quyền   lợi của các công ty âm nhạc, việc thương mại hỏa kinh doanh karaoke là trung  gian tuyệt vời cho sự quảng cáo các bài hát âm nhạc Pop và các ngôi sao mới. Karaoke trong tiến trình phát triển đã có sự  tiến bộ  nhất định. Từ  những ngày   đầu ghi trên băng đĩa; karaoke được chuyển sang đĩa CD (Compact disc), cuối  cùng kết hợp với Video, đồ họa nhạc với lời bài hát hiện trên màn hình nhắc cho   những người không nhớ  lời nhạc. Một ngành công nghiệp đã được mở  ra xung  quanh karaoke và các sản phẩm kỹ thuật đã được chuyển dụng để nâng cao trình  diễn. Những dàn máy tại gia đình, các thư viện phần mềm được hoàn thiện, các   micro cho khách và những chiếc hộp có sẵn; chúng đang sẵn sàng “vào cuộc hát  karaoke”. Các phòng thu đã mở  cửa cho khách khi có yêu cầu đến để  thu âm   giọng hát của mình; đồng thời các cuộc thi hát  karaoke được tổ  chức  ở  nhiều  nơi. Karaoke ngày càng được biết đến không chỉ   ở  Nhật mà còn lan rộng  ở  nhiều quốc gia khác như: Mỹ, Nga, Trung Quốc... tất cả các quốc gia đã tiếp thu  nó như  một giá trị  văn hóa và đưa vào hoạt động trong cuộc sống hàng ngày,   được xem là món ăn tinh thần của từng dân tộc. Việt Nam cũng đã sớm tiếp thu   giá trị văn hóa này, đến nay phát triển trên phạm vi toàn quốc. Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà  bản sắc dân tộc, mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những tinh   hoa văn hóa nhân loại, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và  quốc tế. Chính vì thế, karaoke được tiếp nhận, ứng dụng trong đời sống và được  xem như món ăn tinh thần của người Việt. Còn nhiều ý kiến khác nữa về karaoke, nhưng một điều mà chúng ta phải  công nhận, đó chính là sự học hỏi và tiếp thu văn hóa của nhân loại và ứng dụng  vào cuộc sống; điều đó “khẳng định karaoke là một sinh hoạt văn hóa hiện đại”. Từ khái niệm về karaoke, có thể kết luận như sau: Dịch vụ karaoke là, loại hình  kinh doanh dịch vụ  văn hóa giải trí bằng Karaoke nhằm mục đích phục vụ  nhu   cầu tinh thần của khách hàng và mang lại hiệu quả  hoạt động kinh doanh dịch   vụ. * Quan niệm về quản lý hoạt động kinh doanh dịch vụ Theo cách hiểu thông thường, kinh doanh là việc đưa ra một số  vốn ban  đầu vào hoạt động trên thị  trường để  thu một lượng tiền lớn hơn sau một thời   gian nào đó. Quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh dịch vụ là quá trình thực hiện  và phối hợp các chức năng hoạch định, tổ  chức, lãnh đạo và kiểm soát các hoạt   động kinh doanh dịch vụ trên thị trường trong sự tác động của hệ thống quản lý   đến hệ thống bị quản lý nhằm đạt mục tiêu thông qua việc sử dụng các công cụ  và chính sách quản lý. Quản lý kinh doanh dịch vụ là một quá trình thực hiện phối họp bốn loại   chức năng: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát các hoạt động kinh doanh   dịch vụ.
  11. 11    1.2.Vai trò quản lý nhà nước trong hoạt động văn hóa và quản lý hoạt  động kinh doanh dịch vụ: Đội ngũ cán bộ quản lý là một trong những nhân tố  có tính quyết định sự  thành công hay thất bại của một hệ  thống quản lý và hiệu quả  của các hoạt   động kinh tế, xã hội, chính trị…  Theo tác giả  Henry Mintzberg, nhà quản lý thường xuyên thực hiện ba  nhóm vai trò. Đó là: Thứ  nhất, vai trò liên kết con người. Trong  đó, ba vai trò liên kết con   người mà cán bộ quản lý đảm nhiệm là: ­ Người đại diện: cán bộ quản lý là người đại diện cho cơ quan, tổ chức,   đơn vị của mình trong những  hoạt động mang tính nghi thức hoặc tượng trưng. ­ Người lãnh đạo: cán bộ quản lý tạo ra, duy trì và nâng cao động lực cho   người lao động, hướng cố gắng của họ tới mục tiêu chung của hệ thống. ­ Người liên lạc: cán bộ quản lý thực hiện các hoạt động nhằm phát triển  mối quan hệ ở bên trong và bên ngoài tổ chức. Thứ  hai, vai trò thông tin. Với vai trò này, cán bộ  quản lý phải chịu trách  nhiệm đảm bảo rằng những người mà họ làm việc cùng phải có được thông tin  đầy đủ để thực hiện công việc một cách hữu hiệu. Thứ  ba, vai trò quyết định. Cán bộ  quản lý đóng vai trò trung tâm, là chủ  thể  duy nhất có thẩm quyền chính thức để  ra các quyết định quản lý trong tổ  chức. Ngày nay, lao động quản lý có xu hướng nâng cao và trở  thành một bộ  phận quan trọng trong cơ cấu lao động xã hội, là một nghề, với cơ cấu phức tạp   trong cơ cấu sản xuất xã hội được chuyên môn hoá, hợp tác hoá sâu sắc. Vai trò  của cán bộ quản lý cũng ngày càng tăng, do: ­ Sản xuất xã hội ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và   có sự  cạnh tranh quyết  liệt  trên  thị  trường.  Điều  đó  làm tăng  số  lượng các  phương án và quyết định lựa chọn phương án tối ưu trở nên phức tạp hơn. ­ Tác động của các quyết định quản lý đối với đời sống kinh tế  ­ xã hội  vừa sâu sắc, vừa có hiệu quả  lớn hoặc để  lại hậu quả  nghiêm trọng, đòi hỏi   trách nhiệm cao của mỗi cán bộ quản lý cả về chất lượng lẫn tính khoa học của   các quyết định quản lý. ­ Sự tăng nhanh khối lượng tri thức và độ phức tạp của cơ cấu tri thức, sự  xuất hiện của hệ thống thông tin mới gồm cả thông tin quản lý đã và đang mở  rộng đòi hỏi khả  năng xử  lý, chọn lọc để  có quyết định quản lý đúng đắn và  hiệu quả. Vai trò cán bộ quản lý ngày càng tăng, thực chất là do đòi hỏi ở người cán  bộ  khả năng phát huy nhân tố  chủ quan, có bản lĩnh, tri thức và năng động trên   cơ  sở  nắm vững và vận dụng quy luật khách quan cũng như  các quan điểm,  đường lối, chính sách phát triển kinh tế ­ xã hội của công cuộc đổi mới. Vai trò của cán bộ  quản lý về  lĩnh vực văn hóa được nâng cao và thực  hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của mình sẽ  góp phần định hướng, điều 
  12. 12    chỉnh sự phát triển của nền văn hóa quốc gia, giúp hiện thực hóa các chủ trương,   đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng cầm quyền, từ đó tác động đến mục tiêu,  bản chất của văn hóa dân tộc. Hoạt động quản lý nhà nước về  lĩnh vực văn hóa trong các lĩnh vực, địa  bàn, nhóm dân cư cụ thể sẽ giúp kiểm soát sự tùy tiện, sai lệch trong khi thực thi   các cơ chế, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, góp phàn tạo cơ  sở  pháp lý cho công tác quản lý văn hóa. Qua đó, đã tạo điều kiện cho sự tham gia   của nhiều thành phần kinh tế  trong kinh doanh và hoạt động vãn hóa, khuyến  khích sự mở cửa, giải phóng các nguồn lực, huy động được sự tham gia của toàn  xã hội chung tay xây dựng và phát triển văn hóa. Hệ thống tổ chức bộ máy quản  lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa ngày càng được kiện toàn và củng cố. Cơ  chế  quản lý văn hóa đáp  ứng nhu cầu của người dân, khuyến khích  được sức sáng tạo văn hóa, nghệ  thuật của các chủ  thể  văn hóa, tạo điều kiện  gia tăng và đa dạng hóa các sinh hoạt văn hóa và loại hình giải trí. Chính sách xã  hội hóa trong văn hóa đã khuyến khích được nhiều nguồn lực tham gia xây dựng  và phát triển văn hóa đất nước. Vai trò của cán bộ  quản lý được thực hiện đúng trong lĩnh vực văn hóa   góp phần đảm bảo định hướng lớn của Đảng trong việc “Xây dựng và phát triển  nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Các giá trị  văn hóa   truyền thống tốt đẹp được bảo tồn và phát huy, bản sắc văn hóa dân tộc không  bị  mai một, hòa tan trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa. Nhiều giá trị  văn  hóa mới, tiến bộ đã được xác lập, củng cố trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những  cái hay, cái đẹp của văn hóa nhân loại. Hoạt động quản lý văn hóa cũng làm cho  văn hóa trở thành một tác nhân kích thích sự phát triển kinh tế ­ xã hội của nhiều  địa phương. 1.3.Các yêu cầu chủ yếu đối với cán bộ quản lý Tuỳ  theo lĩnh vực hoạt động khác nhau,  ở  các cấp và vị  trí khác nhau   mà mức độ  yêu cầu cũng đòi hỏi khác nhau.   Các lĩnh vực có thể  phân chia  thành: ­ Hành chính bao gồm các cơ quan đảng, nhà nước; ­ Sự nghiệp bao gồm: các đơn vị khoa học ­ kỹ thuật, văn hoá, giáo dục, y   tế, nghệ thuật… ­ Sản xuất – kinh doanh ­ Lực lượng vũ trang. Tuy nhiên, dù hoạt động trên lĩnh vực nào,  ở  khâu và  ở  cấp nào, cán bộ  quản lý cũng phải đáp ứng 5 yêu cầu cơ bản. 1.3.1. Yêu cầu về phẩm chất chính trị Yêu cầu này đòi hỏi mỗi cán bộ  quản lý phải có quan điểm, lập trường  và bản lĩnh chính trị  vững vàng, kiên định; nắm được đường lối, chủ  trương,   chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn; có khả  năng tự  hoàn  thiện, tự đánh giá kết quả công việc của bản thân, đánh giá con người mà mình 
  13. 13    quản lý theo tiêu chuẩn chính trị; biết biến nhận thức chính trị  của mình thành  nhận thức của mọi người; tạo được lòng tin và lôi cuốn mọi người tham gia.  Mức độ  khác nhau đối với yêu cầu này tuỳ  thuộc vào lĩnh vực hoạt động  và cấp bậc đối với từng loại cán bộ quản lý. ở cấp cao, phạm vi ảnh hưởng lớn  càng đòi hỏi trình độ, phẩm chất cao hơn, bản lĩnh chính trị vững vàng hơn.  1.3.2. Yêu cầu về kiến thức pháp luật  Cán bộ  quản lý phải hiểu và nắm được pháp luật, nhất là những ngành  luật có liên quan để  dùng cho chuyên môn ngành nghề  của mình sao cho trong  quá trình làm việc không vi phạm pháp luật. Tuỳ  theo vị  trí mà cán bộ  quản lý  phải là người am hiểu pháp luật nhất định.  1.3.3. Yêu cầu về chuyên môn  Ngành nào cũng có tri thức khoa học – công nghệ  mang tính chuyên môn   khác nhau. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ quản lý phải là người am hiểu chuyên môn, đủ  tri thức quản lý ngành nghề  chuyên môn đó. Trình độ  cao và có sự  am hiểu  tường tận chuyên môn của ngành mình giúp cán bộ  hoạch định chiến lược phát  triển ngành đúng hướng, tổ  chức thực hiện mục tiêu quản lý ngành một cách  hiệu quả nhất.  1.3.4. Yêu cầu về năng lực tổ chức quản lý  Cán bộ  quản lý là người đề  ra mục tiêu và tổ  chức thực hiện mục tiêu   thông qua các cộng sự và những người lao động. Do đó, đòi hỏi cán bộ  quản lý   phải là người có bản lĩnh, có khả  năng nhạy cảm, linh hoạt, khả năng quan sát  nắm được các nhiệm vụ từ tổng thể đến chi tiết để  tổ  chức cho hệ thống hoạt  động đồng bộ, có hiệu quả, là người biết cách tổ  chức lao động, biết sử  dụng   đúng tài năng từng người, đánh giá đúng con người, biết xử lý tốt các mối quan   hệ ở trong và ngoài hệ thống.  1.3.5. Yêu cầu về phẩm chất đạo đức và tác phong  Các yêu cầu trên có đạt hiệu quả mong muốn hay không còn tuỳ thuộc vào  đạo đức tác phong của người cán bộ quản lý.  Đạo đức là chuẩn mực về phẩm chất của con người, được xã hội chấp   nhận. Tiêu chuẩn đạo đức đỏi hỏi cán bộ quản lý phải tuân thủ theo các chuẩn   mực nhất định, biểu lộ qua ý thức đối với xã hội, qua thái độ công tác, qua hành  vi đối với lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể được mọi người đồng tình ủng hộ  và thừa nhận là điều kiện củng cố và phát huy vai trò của họ trong tập thể.  Tác phong thể hiện thông qua các phương pháp và nghệ  thuật  ứng xử  để  thực hiện nhiệm vụ. Tuỳ thuộc vào phẩm chất đạo đức, tài năng cá nhân và môi   trường cụ thể, mỗi người có tác phong riêng. Nhưng muốn quản lý và động viên   được người khác thì phải có tác phong khoa học, nói đi đôi với làm, tác phong  quần chúng. Tác phong quần chúng đòi hỏi người cán bộ phải xuất phát từ quần  chúng, vì quyền lợi quần chúng, tranh thủ  được sự   ủng hộ  của quần chúng.   Muốn vậy, người cán bộ  quản lý phải biết lắng nghe quần chúng, thuyết phục   quần chúng và tin yêu quần chúng. 
  14. 14    Đạo đức, tác phong là chuẩn mực quan trọng đối với cán bộ quản lý trong  thực tiễn, đồng thời cũng là tiêu chí cơ bản để đánh giá cán bộ.  1.4. Những nhân tố xây dựng đội ngũ cán bộ 1.4.1. Kế hoạch hoá đội ngũ cán bộ quản lý  Kế  hoạch hoá đội ngũ cán bộ  quản lý phải xuất phát từ  mục tiêu và kế  hoạch hoạt động của toàn bộ  hệ  thống quản lý. Nói cách khác, từ  chức năng,   nhiệm vụ, mục tiêu cần đạt và cơ  cấu tổ  chức để  xác định số  lượng cán bộ.   Trên cơ sở đó có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo, sắp xếp, đề bạt, bố trí sử dụng   và đánh giá cán bộ.  Những nội dung cơ bản và tính chất dài hạn của các biện pháp xây dựng  đội ngũ cán bộ quản lý, tính hiệu quả của công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ  quản lý đòi hỏi phải tăng cường kế hoạch hoá công tác cán bộ.  Kế  hoạch hoá công tác cán bộ  là một nhiệm vụ  hết sức phức tạp, trong   đó, việc tuyển chọn cán bộ  là khâu xuất phát. Kế  hoạch tuyển chọn được quy   định trong kế hoạch đào tạo chuyên gia về quản lý ở các trường đại học và trung   học chuyên nghiệp, các trường quản lý, trong kế hoạch phát triển hệ thống đào   tạo và bồi dưỡng cán bộ  quản lý, kế  hoạch đào tạo đội ngũ dự  bị… Kế  hoạch  hoá công tác cán bộ quản lý được tiến hành theo trình tự.  a. Dự báo tình hình cán bộ, những sự biến động cán bộ và những nhu cầu  mới về số lượng và chất lượng cán bộ;  b. Lập kế hoạch bổ sung cán bộ và kế hoạch luân chuyển cán bộ. Từ đó,  mới có thể  xác định biện pháp và hình thức tuyển chọn cán bộ  từ  nội bộ  và từ  bên ngoài. Bộ phận cơ bản của kế hoạch này là kế hoạch về cán bộ dự bị và tổ  chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý một cách có hệ thống.  c. Lập kế  hoạch cho từng mặt riêng biệt,  như  kế  hoạch trẻ  hoá đội ngũ  cán bộ quản lý, kế hoạch định kỳ nâng cao trình độ cán bộ đương chức.  Về  mặt thời gian, kế  hoạch hoá công tác cán bộ  quản lý chủ  yếu mang  tính dài hạn, thường phải tính trên 5 năm, nhưng cũng phải có kế  hoạch hàng  năm. Kế  hoạch hoá xây dựng đội ngũ cán bộ  quản lý có tầm quan trọng quyết  định sự  phát triển mỗi ngành, mỗi cấp trong tương lai. Vì vậy, người lãnh đạo  chính phải đích thân chăm lo tổ chức tốt công việc này.  1.4.2. Phân   định  chức năng, quyền hạn và trách nhiệm cho cán bộ   trong bộ máy quản lý  Mỗi bộ máy quản lý phải gánh vác những chức năng nhất định mà cán bộ  lãnh đạo của tổ  chức có trách nhiệm và quyền hạn thực hiện đầy đủ. Cán bộ  lãnh đạo không thể tự mình thực hiện được tất cả các chức năng nên nhất thiết   phải phân chia chức năng cho từng cán bộ  dưới quyền. Đó là sự  phân công lao  động trong quản lý mà thực chất là phân chia chức năng, quyền hạn và trách  nhiệm của người lãnh đạo nhằm sử  dụng đúng đắn năng lực của những người  dưới quyền, phục vụ công việc chung của bộ máy quản lý. 
  15. 15    Khi nhận định chức năng cho cán bộ  dưới quyền nhằm bảo đảm thực  hiện đầy đủ  những chức năng của bộ  máy cần xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ  và kết quả nhất định cần đạt tới theo từng chức năng; quy định phạm vi quyền  hạn cần thiết để  đạt được những kết quả  đó; xác định rõ trách nhiệm phù hợp  với quyền hạn đó.  Quyền   hạn   phải   phù   hợp   với   chức   năng,   nhiệm   vụ   và   gắn   với   trách  nhiệm. Thiếu quyền sẽ làm giảm kết quả  công tác theo chức năng của cán bộ.  Trái lại, nếu thừa quyền sẽ gây ra sự  rối loạn trong quản lý. Trao quyền không  kèm theo trách nhiệm sẽ  làm giảm hiệu lực và hiệu quả  quản lý. Trách nhiệm  được xác định cả về vật chất, tinh thần, hành chính, hình sự. Vấn đề  có ý nghĩa  quan trọng là việc xây dựng các chuẩn mực đánh giá mức độ  hoàn thành trách  nhiệm để đánh giá khách quan cả khi thành công cũng như khi không thành công.   Về  hình thức, có trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm tập thể, trách nhiệm trực   tiếp, trách nhiệm gián tiếp, trong đó trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm trực tiếp   có ý nghĩa quyết định.  Trách nhiệm cần được xác định rõ ràng, rành mạch, có địa chỉ  cụ  thể,   tránh lối quy trách nhiệm chung dẫn tới vô trách nhiệm. Trong mối quan hệ trách   nhiệm giữa người lãnh đạo và người chấp hành, về nguyên tắc, người lãnh đạo  phải chịu trách nhiệm cá nhân về  hành động của cấp dưới. Nhưng nếu người   lãnh đạo đã xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm cho cấp dưới thì cán bộ  cấp  dưới phải chịu trách nhiệm trực tiếp về  hành động của mình, người lãnh đạo   chịu trách nhiệm gián tiếp.  Việc phân định đúng đắn chức năng, quyền hạn và trách nhiệm, một mặt  phụ  thuộc vào trình độ  của đội ngũ cán bộ  chấp hành; mặt khác phụ  thuộc vào  mức độ người lãnh đạo sẵn sàng tự giải phóng khỏi các công việc sự vụ để tập  trung vào quản lý các khâu cơ bản và chính yếu nhát của chức năng quản lý.  1.4.3. Lựa chọn cán bộ quản lý  Lựa chọn đúng cán bộ  quản lý phải xuất phát từ  việc xác định yêu cầu  đối với công việc, phải trả lời các câu hỏi: công việc đòi hỏi làm gì? Phải thực   hiện chúng như  thế  nào? Kiến thức cơ  bản và kỹ  năng cần thiết là gì? Như  vậy, dựa vào phân tích công việc sẽ  liệt kê được chức phận của cán bộ  quản   lý, những mối quan hệ giữa trách nhiệm và quyền hạn ở mỗi cương vị quản lý.  Khi thiết kế công việc quản lý cần dựa trên những yêu cầu sau:  Một là, công việc phải tương xứng: một công việc nếu xác định quá hẹp   sẽ  không có cơ  hội cho cán bộ  quản lý phát triển, không kích thích hoàn thành  nhiệm vụ. Ngược lại, công việc quá rộng, cán bộ quản lý không thể giải quyết  có kết quả.  Hai là, mỗi cương vị phải gắn với một công việc và thu hút được toàn bộ  thời gian để sử dụng hết năng lực, trí lực của cán bộ nhằm hướng tới mục tiêu   của hệ thống.  Ba là, công việc phải phản ánh được những kỹ  năng quản lý cần thiết:   yêu cầu từng cấp quản lý cần có những kỹ  năng khác nhau. Có bốn kỹ  năng   chủ yếu: 
  16. 16    + Kỹ năng về kỹ thuật + Kỹ năng trong quan hệ  + Kỹ năng về nhận thức + Kỹ năng phân tích và giải quyết vấn đề.  Khi lựa chọn cán bộ, ngoài các kỹ  năng cần thiết còn phải xét tới cá tính  cần thiết của người quản lý bao gồm:  Thứ  nhất, ước muốn làm công việc quản lý: người quản lý thành đạt chỉ  khi họ có ước muốn mãnh liệt được làm nghề quản lý. Thứ  hai, quan hệ  với sự  đồng cảm: là khả  năng hiểu được suy nghĩ của   người khác, nó rất quan trọng đối với quan hệ bên trong và bên ngoài hệ thống.  Thứ  ba, chính trực và trung thực: tính chính trực của người quản lý thể  hiện sự trung thực trong các vấn đề  về  tiền bạc, vật chất và trong quan hệ  với  người khác. Trung thực là cơ sở đạo đức của cán bộ quản lý.  Thứ tư, quá trình công tác trong quá khứ của người quản lý là cơ sở  đáng   tin cậy để dự đoán năng lực, đạo đức, tư cách sau này của người quản lý, là yếu  tố không thể thiếu được khi xét cá tính của cán bộ quản lý.  Cán bộ  quản lý được tuyển chọn từ  hai nguồn:  ở  bên trong và bên ngoài  hệ thống. Cần sử dụng nhiều phương pháp để tuyển chọn như: Phương pháp thi  tuyển, phương pháp quan sát phát hiện năng khiếu, phương pháp thử  nghiệm   (thử  nghiệm trí tuệ, tài năng, nghề  nghiệp, tính cách, thử  nghiệm trong thực  tiễn), phương pháp trưng cầu ý kiến, bỏ phiếu kín v.v... 1.4.4. Đánh giá cán bộ quản lý  Việc đánh giá cán bộ  quản lý được coi là chìa khoá quan trọng của công  tác quản lý, là cơ  sở  để  xác định là người có khả  năng được tiếp tục sử  dụng   và đề bạt lên chức vụ cao hơn. Nó có ý nghĩa trong việc đào tạo, phát triển cán   bộ quản lý vì biết được các điểm mạnh, yếu của từng người trong bộ máy.  Mục đích đánh giá cán bộ nhằm phát huy được mọi khả năng sáng tạo và   cống hiến của từng người và sử  dụng cán bộ  có hiệu quả  hơn. Nội dung đánh   giá bao gồm nhiều mặt, trước hết là kết quả thực hiện trong việc hoàn thành các  mục tiêu và kết quả  thực hiện với tư  cách là người quản lý; phải căn cứ  vào  việc làm của từng người, cả việc làm được và chưa làm được; cả ưu và khuyết  điểm trong từng thời kỳ nhất định. Mặt khác, dựa vào các tiêu chuẩn và yêu cầu  về  phẩm chất, về  năng lực của cán bộ  quản lý để  đánh giá. Những nhận xét  đánh giá, kết luận về  cán bộ  nhất thiết phải do tập thể  có thẩm quyền quyết  định, nhằm khắc phục cách làm đơn giản, phiến diện, thái độ  gia trưởng, thành  kiến, thiếu công tâm.  Phương pháp đánh giá: cần thu nhập thông tin nhiều chiều, nghiên cứu quá  trình qua hồ  sơ, phân tích kết quả  thử  nghiệm, lượng hoá các chỉ  tiêu đánh giá,   kết quả và mối quan hệ với kết quả; quan hệ kết quả với chi phí; quan hệ  kết   quả với khai thác tiềm năng.  1.4.5. Đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ quản lý 
  17. 17    Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ  cán bộ  quản lý nhằm đào tạo cho  họ  khả  năng thích nghi được với những yêu cầu mới, khó khăn và thách thức  mới. Quá trình đào tạo để phát triển cán bộ quản lý cần được chia ra thành từng  bước cụ  thể, xét đến nhu cầu đào tạo của người quản lý trong công việc hiện   tại; công việc sắp tới và công việc tương lai.  ­ Công việc hiện tại: là phân tích sự  so sánh mục tiêu cần đạt với việc   thực hiện. Sự chênh lệch so với mức tiêu chuẩn chỉ ra rằng, người quản lý đang   thiếu kiến thức gì, để đề ra yêu cầu và phương pháp đào tạo thích hợp.  ­ Công việc tương lai: dựa vào những dự  báo về  thay đổi trong tương lai   của cả  hệ  thống đặt ra trong quan hệ  với những thay đổi của môi trường bên  ngoài để kết hợp hài hoà các kế hoạch đào tạo trong hiện tại và tương lai.  Phương pháp phát triển cán bộ quản lý: sự phát triển của người quản lý là  sự tiến bộ mà họ đạt được qua việc học cách quản lý sao cho có kết quả. Việc   đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải bắt đầu từ việc xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị –   những người có khả năng nhận chức vụ lãnh đạo trong tương lai không xa. Mỗi  cán bộ dự bị muốn trở thành cán bộ lãnh đạo thực thụ phải qua quá trình đào tạo,  bồi dưỡng để  có trình độ  kiến thức, trình độ  chuyên môn, nghiệp vụ  và phong   cách làm việc cần thiết.  Chỉ  qua thực tiễn mới cho phép kết luận được mức độ  sẵn sàng của  người cán bộ  dự  bị  làm công tác quản lý hoặc thay thế  một chức vụ  mới cao   hơn. Việc đào tạo như vậy phải theo kế hoạch, kết h ợp đào tạo ở trường, lớp   với rèn luyện trong thực tiễn, kết hợp đào tạo lý luận cơ bản với các kiến thức  quản lý, kiến thức chuyên ngành về kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Việc đào  tạo cán bộ dự bị phải có tác dụng bổ sung, nâng cao kiến thức và kinh nghiệm   đã tích luỹ trước đây của họ. Quá trình đào tạo, bồi dưỡng thường theo trình tự:  đào tạo trước khi vào làm việc  ở  bộ  máy quản lý (qua trường đại học hoặc   trung học chuyên nghiệp); đào tạo, bồi dưỡng trong thời gian làm việc  ở  bộ  máy quản lý (nâng cao trình độ) và đào tạo trước khi nhận chức vụ mới.  Phương pháp đào tạo phải được lựa chọn hợp lý nhằm nâng cao trình độ  của cán bộ quản lý. Có hai nhóm phương pháp chính:  Nhóm thứ  nhất gồm các phương pháp cung cấp cho người được đào tạo  một số kiến thức qua các buổi lên lớp, toạ đàm, phụ đạo.  Nhóm thứ hai gồm các phương pháp đào tạo tích cực, giúp cán bộ nắm bắt  các kinh nghiệm tiên tiến và những tri thức mới nhất; hoàn thiện kỹ năng và hiểu  biết của người cán bộ; giúp cán bộ thực tập và thay thế tạm thời người lãnh đạo  để giải quyết một số nhiệm vụ, chức năng, tranh luận theo đề tài, phân tích tình  huống quản lý, thảo luận các dự án, đề ra các quyết định, v.v. 1.4.6. Bố trí, sử dụng cán bộ  Bố trí và sử dụng cán bộ quản lý là một nội dung quan trọng của công tác  cán bộ  quản lý. Việc bố  trí đúng cán bộ  quản lý tạo điều kiện bổ  sung những  mặt mạnh, khắc phục những mặt hạn chế  của cả  tập thể, qua  đó mà nhanh  chóng nâng cao trình độ của từng người. 
  18. 18    Khi bố trí cán bộ quản lý, phải làm cho cán bộ đó nhận thức đầy đủ chức  năng, quyền hạn, trách nhiệm và các mối quan hệ  công tác của mình, có định  hướng công tác  lâu dài   để  có  điều kiện nâng cao  năng lực và tích luỹ  kinh   nghiệm quản lý.  Sau khi bố trí cán bộ quản lý, phải thường xuyên theo dõi và kịp thời phát  hiện những chỗ  mạnh, chỗ  yếu, những bố  trí không phù hợp để  kịp thời uốn   nắn, sắp xếp lại.  Chương 2 THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ VỂ DỊCH VỤ HOẠT  ĐỘNG KARAOKE TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ 2.1. Đặc điểm, tình hình chung Thành phố  Rạch Giá là một huyện nằm  ở  phía tây nam của tổ  quốc,  có  diện tích 105 km², dân số  năm 2019 là 227.527 người, mật độ  dân số  đạt 2.167   người/km². Phía đông và phía nam giáp huyện Châu Thành. Phía tây giáp vịnh Thái   Lan. Phía bắc giáp các huyện Hòn Đất và Tân Hiệp. Khí hậu nhiệt đới gió mùa '  đặc trưng với hai mùa mưa nắng rõ rệt. Mùa mưa băt đâu vào khoảng tháng 5 và  kết thúc vào đầu tháng 11. Vùng này ít có hiện tượng bão lụt. Hướng gió chủ  yểu là hướng tây nam đông bắc.  Rach Gia la điêm lý t ̣ ́ ̀ ̉ ưởng để  khach du lich ́ ̣   dưng chân, l ̀ ưu tru và ́    tham quan các di tích, các khu vui chơi giải trí tại công  viên Văn hóa An Hòa, Siêu thị Citimart, Co.op Mart, Metro…; có hệ thống đường   không với sân bay Rạch Giá; đường bộ có Bến xe Rạch Giá; đường biển có Bến   tàu biển Rạch Giá…, rất thuận tiện cho du khách đi đên cac danh lam, th ́ ́ ắng   cảnh du lịch trong điêm trong t ̣ ̉ ỉnh như: Phu Quôc, ́ ́  Kiên Hải, thành phố Ha Tiên, ̀   Kiên Lương và U Minh Thượng.  Trong những năm qua tình hình kinh tế ­ xã hội trong được ổn định và có  bước phát triển vượt bậc, an ninh chính trị và trật tự  an toàn xã hội trên địa bàn   thành phố luôn được giữ vững và duy trì, công tác nắm bắt thông tin, trấn áp tội  phạm, xử  lý các tệ  nạn xã hội được tăng cường. Công tác xây dựng đảng, xây  dựng chính quyền, nâng cao chất lượng hoạt động của mặt trận và các đoàn thê  luôn được quan tâm, góp phần vào nhiệm vụ phát triển kinh tế của địa phương. Thành phố  Rạch Giá có trung tâm đô thị  nằm trải dài bên bờ  Đông vịnh  Thái Lan với 20 km đường bờ biển, chiếm 1/10 chiều dài bờ biển của tỉnh Kiên  Giang. Được bao quanh bởi sông Kiên ở phía Bắc và Đông Bắc, sông Cái Lớn ở  phía Nam. Rạch Giá cách Thành phố  Hồ  Chí Minh 245  km về  hướng Tây Nam,  cách Cần Thơ  116 km về  hướng Tây và cửa khẩu quốc tế  Hà Tiên 95 km về  hướng Đông Nam. Được sự  quan tâm chỉ  đạo của Thường trực Thành  ủy,  ủy ban nhân dân  thành phố, tình hình cán bộ  trên địa bàn được chuẩn hóa, cán bộ  đủ  nâng lực   trình độ  đáp ứng được nhiệm vụ  do Đảng và Nhà nước đề  ra từ  đó những năm 
  19. 19    qua kinh tế có bước tăng trưởng nhanh. Chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định;  quốc phòng an ninh được giữ vững, ý thức đề cao cảnh giác, tham gia xây dựng   thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân ngày càng vững chắc. Phong trào  thi đua yêu nước trong nhân dân ngày càng phát tiển, đã và đang xuất hiện nhiều   mô hình kinh tế  mới và cách làm hay trong sản xuất kinh doanh góp phần thiết  thực vào công tác xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm. Đời sống nhân dân   từng bước được cải thiện; đời sống văn hóa trên địa bàn thành phố  ngày càng  được nâng lên, nhu cầu về văn hóa, lĩnh vực thể dục, thể thao được người dân   đặt biệt quan tâm, chú trọng, trong đó các dịch vụ  về  hoạt động karaoke được  giới kinh doanh của thành phố Rạch Giá đầu tư nhiều và từng bước nâng lên về  chất lượng và cả  số  lượng, đáp  ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú  của người dân. 2.2.Chủ  thể  quản lý hoạt động dịch vụ  karaoke  ở  thành phố  Rạch  Giá, tỉnh Kiên Giang Phòng Văn hóa và Thông tin thành phố Phòng VH&TT thành phố là cơ quan chuyên môn thuộc UBND thanh phố;   chịu sự  chỉ  đạo, quản lý về  tổ  chức, biên chế  và hoạt động của UBND thành   phố, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ  của Sờ  VH&TT, Sở  Du lịch, Sở  Thông tin và Truyền thông. Căn cứ  Nghị  định  37/2014/NĐ­CP, ngày 05/5/2014 của Chính phủ  quy định tổ  chức các cơ  quan   chuyên môn thuộc UBND Huyện, Quận, Thị  xã, thành phố  thuộc Tỉnh, Phòng  VH&TT thành phố  là cơ  quan chức năng chuyên môn tham mưu giúp việc cho  UBND thành phố thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về: Văn hoá;  gia đình; thể dục, thể thao; du lịch; quảng cáo; bưu chỉnh; viễn thông; công nghệ  thông tin; phát thanh truyền hình; báo chí; xuat bản; thông tin cơ sở; thông tin đối   ngoại; hạ tầng thông tin. Hiện nay, Phòng Văn hóa & Thông tin thành phố Rạch Giá được bố trí 05   biên  chế   gồm:   01  trưởng   phòng,  01  phó  phòng   và   03  chuyên   viên   giúp   việc   chuyên môn, tất cả đều có trình độ Đại học. 2.3.Thực trạng về  hoạt động dịch vụ  karaoke trên địa bàn thành phố   Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang: 2.3.1. Tình hình chung về hoạt động dịch vụ karaoke trên địa bàn thành   phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang hiện nay Được coi là một trong những địa bàn có nhiều cơ  sở  kinh doanh dịch vụ  hoạt động karaoke (11 cơ  sở). Mặt dù hoạt động này diễn ra sôi động, trên địa  bàn thành phố đến thời điểm hiện tại vẫn không có cơ sở hoạt động không phép  và bị lực lượng chức năng xử lý, buộc ngừng hoạt động. Hiện tại tuy được quản  lý chặt chẽ nhưng các cơ  sở  hoạt động cũng đang xảy ra nhiều bất cập mà các  cơ  quan chức năng đã hướng dẫn, xử  lý nhưng việc khắc phục còn nhiều khó   khăn. Hoạt động kinh doanh karaoke là loại hình nhạy cảm thường xuyên phát   sinh những sai phạm. Một số nội dung chế tài trong kiểm tra xử lý vi phạm đối   với hoạt động kinh doanh karaoke chưa thực sự  đủ  sức răn đe.  Một số  cơ  sở 
  20. 20    kinh doanh có diện tích một số  phòng hát, ánh sáng, thiết kế  cửa ra vào các  phòng không đảm bảo, không cỏ tiêu lệnh phòng cháy, chữa cháy (PCCC)... Lực   lượng chức năng đã yêu cầu người quản lý cơ  sở  này nghiêm túc khắc phục  những bât cập trên. Lỗi các cơ sở kinh doanh karaoke hay gặp phải và cũng là lỗi  lớn nhất là chưa đảm bảo các quy định về  công tác phòng cháy, chữa cháy.  Trước thực trạng này, Phòng VH&TT thành phố  phối hợp cùng lực lượng công  an và các cơ  quan liên quan tăng cường kiểm tra hoạt động kinh doanh karaoke   trên địa bàn huyện nhằm chấn chỉnh hoạt động này; đồng thời tuyên truyền cho  các cơ  sở  thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Mục đích cuối cùng để  hoạt động kinh doanh karaoke trên địa bàn thành phố Rạch Giá được lành mạnh   hóa, phục vụ nhu cầu giải trí và đời sống văn hóa tinh thần của người dân. 2.3.2.Công tác quản lý nhà nước hoạt động dịch karaoke trên địa bàn  Thành phố Rạch Giá (2019­2020) 2 3.2.1. Những kết quả đạt được Hỗ  trợ  Đội Kiểm tra liên ngành tỉnh kiểm tra 09  trường hợp kinh doanh  dịch vụ văn hóa trên địa bàn thành phố, ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính   02 trường hợp; Hỗ  trợ  Ban Chỉ  đạo buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả  thành phố  kiểm tra, kiểm soát thị  trường trong dịp Lễ  hội truyền thống AHDT   Nguyễn Trung Trực. Năm 2019, Phòng đã kiểm tra, nhắc nhở  59 trường hợp về  lĩnh vực kinh doanh dịch vụ văn hóa­thông tin, quảng cáo; tham mưu UBND thành  phố ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 06 trường hợp quảng cáo, số tiền  28 triệu đồng. Năm 2020 thành phố  ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính 11  trường hợp quảng cáo sai quy định, tổng số  tiền 47 triệu đồng. Buộc cam kết   không tái  phạm  06  trường hợp. Thực hiện nghiêm Công văn số  150/UBND­ VHXH ngày 27/3/2020 của UBND thành phố  về  quyết liệt thực hiện đợt cao  điểm phòng, chống dịch bệnh Covid­19, tiến hành kiểm tra 82 cơ sở; phường­xã  kiểm tra 1.717 cơ sở, lập 94 biên bản nhắc nhở.  * Nguyên nhân  Đảng và Nhà nước luôn coi trọng vai trò văn hóa, trong quá trình xây dựng   và phát triển đất nước, ban hành những chính sách chiến lược phát triển văn hóa   bền vững gắn vói công tác xã hội hóa hoạt động văn hóa, được thể  hiện một  cách cụ  thể, rõ ràng trong những văn bản pháp luật theo trình tự  thời gian, phù  hợp công cuộc đổi mới đẩt nước.   Được quan tâm lãnh chỉ  đạo, chỉ  đạo hướng dẫn của Sở  VH&TT, Thành  ủy, HĐND, UBND thành phố; sự  phối hợp của các cấp, các ngành trong việc   thực hiện lông ghép nội dung phong trào với các chương trình, kế  hoạch, dự  án   tại địa phương. Nhận thức về  ý nghĩa, lợi ích, tầm quan trọng của phong trào   chung tay xay dựng “Nếp sống văn hóa, văn minh” được tích cực hưởng  ứng  tham gia trong cộng đồng xã hội. Sự  quyết  liệt  của Phòng VH&TT  cơ  quan thường trực tham mưu cho   UBND thành phố, sự phối hợp nhịp nhàng và trách nhiệm của các cấp các ngành 
nguon tai.lieu . vn