Xem mẫu
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
TIỂU LUẬN
KHIẾU NẠI CỦA CÔNG DÂN
TỪ LÁ ĐƠN XIN MINH OAN CHO VỢ
(Vụ án Dương Thị Nga)
Họ và tên : NGUYỄN TUẤN VƯƠNG
Lớp : Chuyên viên khóa VII
Hà Nội, tháng 12 - 2006
- LỜI CẢM ƠN
Qua đợt học tập tại lớp bồi dưỡng kiến thức Quản lý Nhà
nước chương trình Chuyên viên chính khóa I, để hoàn thành tiểu
luận này tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của các Thầy Cô
giáo Học viện Quản lí Giáo dục , sự quan tâm giúp đỡ tạo điều
kiện về thời gian, kinh phí của trường Đại học Mỏ - Địa chất cùng
với tinh thần học tập nghiên cứu nghiêm túc của tập thể lớp
chuyên viên khoá VII.
Trong điều kiện hạn hẹp về thời gian, tài liệu và nguồn thông
tin nên nội dung tiểu luận chắc chắn còn nhiều hạn chế. Vì vậy tôi
mong các Thầy Cô giáo chỉ bảo, có sự cảm thông, chia sẻ và châm
chước, mong được các bạn đồng nghiệp góp ý kiến để tiểu luận
có thêm nội dung thiết thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô giáo, các bạn đ ồng
nghiệp và các đơn vị đào tạo đã giúp đỡ chúng tôi hoàn thành tốt
khoá học.
Học viên
Nguyễn Tuấn Vương
2
- MỤC LỤC
Trang
Mục lục 3
Phần mở đầu 4
I. Mô tả tình huống 6
II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống 10
III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả 11
1. Phân tích nguyên nhân 11
2. Hậu quả của sự việc trên 19
IV Kết quả của việc giải quyết tình huống 21
v Những nhận xét, đánh giá về cách xử lý tình huống 28
đã được tiến hành trong thực tiễn.
VI Kết luận và kiến nghị 30
Tài liệu tham khảo 32
3
- LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà được thành lập năm
1945, Đảng và Nhà nước đã rất chú trọng và quan tâm đến việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ tiếp tục cải cách bộ máy
theo quan điểm xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân, tất cả quyền lợi Nhà nước thuộc về dân.
Nhà nước ta thường xuyên chăm lo đến việc tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho nhân dân mở rộng và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhân dân có
quyền nêu ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của mình đối với các cơ
quan quản lý Nhà nước liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp và chính đáng theo quy định của pháp luật. Trong hiến
pháp năm 1992, Nhà nước ta cũng đã xác định công dân có quyền
khiếu nại, tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những
việc trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, xã
hội….Tại luật khiếu nại, tố cáo cũng đề cập: công dân, cơ quan,
tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành
chính của các cơ quan Nhà nước, của người có thẩm quyền trong
cơ quan quản lý hành chính Nhà nước.
Trước tình hình thực tế hiện nay, việc ban hành và thực hiện
các quyết định hành chính ở địa phương cơ sở còn nhiều vấn đề
4
- đáng quan tâm liên quan đến quyền và trách nhiệm của công dân,
đặc biệt là những khiếu nại tố cáo trong thời gian gần đây. Nguyên
nhân của tình hình khiếu nại, tố cáo một mặt là do quyết định của
cơ quan quản lý hành chính Nhà nước (chủ yếu là cơ sở và địa
phương) còn nhiều sơ hở, sai sót chưa triệt để tuân thủ pháp luật
và chỉ thị của cơ quan quản lý nhà nước cấp trên. Mặt khác, do
việc chấp hành các quy định của một bộ phận công dân chưa thật
sự nghiêm túc còn biểu hiện vi phạm pháp luật mà các cơ quan bảo
vệ pháp luật đã phối hợp chặt chẽ trong công tác điều tra, phát
hiện truy tố đưa ra xét xử nghiêm minh, rất nhiều vụ án đem lại
hiệu quả lớn có ý nghĩa nghiêm chặn và giáo dục, được nhân dân
đồng ý ủng hộ, tin tưởng vào sự nghiêm minh của pháp luật đã
được xét xử trong thời gian diễn ra ở các địa phương trong cả
nước. Đáng chú ý là đơn đề nghị minh oan cho vợ của ông Dương
Văn Thực, sinh năm 1945, trú quán tại bản Chiềng Sơ, huyện Sông
Mã, tỉnh Sơn La, gửi các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
các cơ quan quản lý Nhà nước, cũng như các cơ quan thông tin đại
chúng. Vụ án 200.000đ do các cơ quan tiến hành tố tụng quận
Hoàn Kiếm, Hà Nội điều tra, truy tố và xét xử đối với Dương Thị
Nga về hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản công dân đã vấp phải
sự phản đối quyết liệt của dư luận xã hội vì những kết luận thiếu
căn cứ mà đã được Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố
Hà Nội sau khi nghiên cứu, đánh giá vụ án đã có phán quyết chính
thức vụ án này. Sau mỗi vụ giải quyết khiếu nại, có rất nhiều vấn
đề đặt ra được nghiên cứu và trao đổi. Nhưng vấn đề đặt ra mà dư
5
- luận và các nhà quản lý quan tâm là nguyên nhân xảy ra, trách
nhiệm của từng đơn vị và của từng cá nhân có liên quan, đồng thời
là các biện pháp đề ra về công tác quản lý nhà nước, quản lý cán
bộ công chức của các đơn vị có liên quan rút ra từ vụ việc đó.
I. Mô tả tình huống
1. Tóm tắt vụ án
Bà Dương Thị Nga, 47 tuổi ở xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã,
tỉnh Sơn La về viện K (Hà Nội) khám bệnh điều trị khối u vùng hạ
vị (theo Giấy giới thiệu của Trung tâm y tế huyện Sông Mã ngày
14/10/2002), ngày 18/10/2002, trong lúc ngồi chờ đến lượt khám
bệnh thì bà bị Đội Công an điều tra quận Hoàn Kiếm, Thành phố
Hà Nội đọc lệnh bắt khẩn cấp về tội: ngày 12/10/2002 bà đã lừa
đảo, chiếm đoạt 200.000đ của bà Phạm Thị Lê - Theo đơn tố cáo
của công dân Phạm Thị Lê, 50 tuổi, trú quán tại huyện Gia Lộc,
tỉnh Hải Dương (Trung tá Bùi Đình Doãn - phó trưởng công an
quận Hoàn Kiếm vì đã ký Lệnh bắt khẩn cấp và tạm giam bà
Dương Thị Nga.).
Ngay sau đó, bà bị Đội Công an điều tra quận Hoàn Kiếm,
Thành phố Hà Nội tra còng số 8 và dẫn giải về Công an phường
Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm Hà Nội trước hàng trăm cặp mắt ngỡ
ngàng của những bệnh nhân đang chờ đến lượt khám bệnh.
Tại nhà tạm giam, bị can Dương Thị Nga tỏ ra ngoan cố,
không chịu khai báo, không chịu thật thà nhận tội đã lừa đảo,
chiếm đoạt 200.000đ của bà Phạm Thị Lê, cho nên các đồng chí
công an điều tra dưới sự chỉ đạo kiên quyết và trực tiếp của thiếu
6
- tá Nguyễn Mạnh Hùng - phó trưởng Công an quận Hoàn Kiếm, các
đồng chí Hà Đăng Hải - đội phó đội cảnh sát điều tra; Doãn Bửu
Hiệp - đội phó đội cảnh sát điều tra; Lê Huy Dương - điều tra viên
đã phải dùng nhiều biện pháp nghiệp vụ, kể cả những biện pháp
mạnh để khai thác những chứng cứ về hành vi của bị can trong
việc lừa đảo, chiếm đoạt 200.000 đ của công dân Phạm Thị Lê,
nhằm hoàn tất hồ sơ vụ án lừa đảo, chiếm đoạt tài sản công dân
trong thời gian ngắn nhất.
Nhận được tin vợ mình bị bắt ở Hà Nội, ông Dương Văn Thực
- chồng bà Dương Thị Nga đã gửi đơn khiếu nại đến các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền về việc vợ của ông – bà Dương Thị Nga
bị bắt oan, kèm theo đơn khiếu nại của ông còn có Giấy xác nhận
của chính quyền địa phương – Uỷ ban nhân dân xã Chiềng Sơ,
huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xác nhận rằng : Cho đến ngày
13/10/2002 bà Ngọc vẫn ở xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn
La nên không thể thực hiện được hành vi lừa đảo ngày 12/10/1999.
Nhưng các cơ quan bảo vệ pháp luật ở quận Hoàn Kiếm vẫn
kiên quyết hoàn tất và hoàn tất các thủ tục điều tra và thụ lí vụ án
để có thể đưa ra xét xử trong thời gian ngắn nhất, nhằm b ảo vệ lợi
ích chính đáng của công dân Phạm Thị Lê ở huyện Gia Lộc, tỉnh
Hải Dương; Mặt khác, nhằm tăng cường pháp chế XHCN, giữ
nghiêm kỷ cương phép nước.
Chỉ trong vòng một tháng, sau khi có kết quả điều tra của
công an Quận, ông Đặng Đình Sơn - Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân quận Hoàn Kiếm và bà Vũ Thị Kim Thư - Phó viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, chịu trách nhiệm
kiểm sát viên thụ lí vụ án, đã thống nhất nội dung bản cáo trạng và
đề nghị Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm mở phiên toà xét xử vụ
án lừa đảo, chiếm đoạt tài sản công dân.
7
- Tại phiên toà, sau khi đã thực hiện xong các giai đoạn tố tụng
hình sự được quy định trong Bộ luật tố tụng Hình sự, ông Vũ
Ngọc Tuyên, Chánh án Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, chủ toạ
phiên toà đã đưa ra căn cứ pháp lý của vụ việc là Bộ luật Hình sự,
Điều139. “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của
người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi
triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt
hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm
hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ
quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến
dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến
dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
8
- 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử
hình:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở
lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng
đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm”.
Ông Vũ Ngọc Tuyên cũng tuyên rằng: Xét về nhân thân, bị
cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, cho nên Toà tuyên
phạt bị cáo Dương Thị Nga 04 tháng tù giam, đồng thời bồi thường
cho bà Phạm Thị Lê ở huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương số tiền là
200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Trong lúc vợ bị ngồi tù, ông Dương Văn Thực - chồng bà
Dương Thị Nga vẫn kiên trì đi gõ cửa các cơ quan pháp luật, các
đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, các cơ quan thông tin báo chí
để kêu oan cho vợ.
Bản tin thời sự 6 giờ sáng ngày 7/1/2003 của Đài tiếng nói
Việt Nam đưa ra công luận về vụ án của bà Dương Thị Nga 47
tuổi ở xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La về bệnh viện K
(Hà Nội) khám bệnh bị bà Phạm Thị Lê 50 tuổi ở Đồng Quang -
Gia Lộc - Hải Dương tố cáo là lừa đảo chiếm đoạt 200.000đ, sau
đó bị Công an quận Hoàn Kiếm, Viện kiểm sát nhân dân quận
Hoàn Kiếm và Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm bắt người, giam
giữ, truy tố và xét xử với mức án 04 tháng tù giam
Vụ việc bắt người, giam giữ, truy tố và xét xử oan sai kể trên
lại xảy ra giữa thủ đô Hà Nội đã được dư luận xã hội, đặc biệt là
9
- nhân dân Hà Nội hết sức quan tâm; Dư luận rất bức xúc bởi lẽ:
không hiểu tại sao một vụ việc bắt người, giam giữ, truy tố và xét
xử oan sai kể trên lại xảy ra giữa thủ đô Hà Nội, lại do đ ồng thời
cả ba cơ quan bảo vệ pháp luật là Công an quận Hoàn Kiếm, Viện
kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm và Toà án nhân dân quận Hoàn
Kiếm mắc sai phạm; các cơ quan đó sai phạm là do không hiểu
biết pháp luật hay là do chịu sự tác động của những yếu tố khác
…?
II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống
- Giải quyết những rắc rối trong việc bắt, giam giữ công dân,
điều tra, truy tố, xét xử công dân trái pháp luật của các cơ quan bảo
vệ pháp luật;
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của gia đình công dân trong việc bị
bắt, bị giam giữ, bị điều tra, truy tố, xét xử trái pháp luật;
- Giải quyết hài hoà giữa tính pháp lý với lợi ích kinh tế của
công dân;
- Xử lí kỉ luật đối với những cán bộ, công chức nhà nước vi
phạm pháp luật khi thực thi công vụ;
- Tăng cường pháp chế XHCN, kỷ cương phép nước.
10
- III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
1. Phân tích nguyên nhân
Trước hết ta phải nắm vững quy định của Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thông qua ngày
15/4/1992 (đã sửa đổi, bổ xung theo Nghị quyết số: 51, Quốc hội
khoá 10, tháng 12/2001 )
. Luật khiếu nại, tố cáo đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X kỳ họp thứ 4 thông qua ngày
2/12/1998 (đã sửa đổi, bổ xung năm 2005) và luật có liên quan.
Việc ông Dương Văn Thực, chồng bà Dương Thị Nga đã gửi
đơn khiếu nại đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc
vợ của ông – bà Dương Thị Nga bị bắt oan là việc làm đúng quy
định pháp luật về các quyền công dân trong Hiến pháp năm 1992
(đã SĐ).
Tại Điều 74, Chương V, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (đã
SĐ) quy định:
11
- "Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân hoặc bất cứ cá nhân nào.
Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét
và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định.
Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý
nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật
chất và phục hồi danh dự.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi
dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người
khác ".
Liên quan đến việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân,
Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tại Điều139, Chương XIII
“Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của
người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi
triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt
hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm
hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
12
- d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ
quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến
dưới hai trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến
dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử
hình:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở
lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng
đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị
cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất
định từ một năm đến năm năm”.
Liên quan đến trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 đã quy định tại Điều 255, Chương XXV:
” Những bản án và quyết định được thi hành
1. Những bản án và quyết định được thi hành là những bản án
và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm:
13
- a) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;
b) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm;
c) Những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm.
2. Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp
sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn trách
nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là
tù giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn
phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc
quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị
kháng nghị, kháng cáo”.
Dư luận xã hội bức xúc vì một vụ việc bắt người, giam giữ,
truy tố và xét xử oan sai kể trên lại do đồng thời cả ba cơ quan bảo
vệ pháp luật là Công an quận Hoàn Kiếm, Viện kiểm sát nhân dân
quận Hoàn Kiếm và Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm mắc sai
phạm; Vấn đề xã hội quan tâm, cần được lí giải ở đây là:
+ Có đúng là bà Dương Thị Nga đã phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản của công dân hay không ?
+ Nếu đúng là bà Dương Thị Nga đã phạm tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản, nhưng số lượng tiền chiếm đoạt chỉ là 200. 000 đ, thì
hành vi đó đã đủ để cấu thành tội phạm, đủ để truy cứu truy cứu
trách nhiệm hình sự hay chưa ?
+ Việc làm đó có trái với quy định của Bộ luật Hình sự 1999
tại Điều139, Chương XIII “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản “ hay
không ?
+ Nếu việc làm đó trái với quy định pháp luật (Bộ luật Hình
sự 1999) thì việc giải quyết, xử lí với những cá nhân sai phạm của
3 cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ như thế nào ?
14
- Qua thực tế các cơ quan nhà nước khi giải quyết vụ việc, dù
ở mức độ nào cũng phải ra quyết định, các quyết định hành chính
đóng một vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các cơ quan
quản lý hành chính nhà nước, thông qua các quyết định được ban
hành theo luật định, các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện thẩm
quyền của mình trong việc điều hành, quyết định hành chính trực
tiếp phản ánh ý chí của quyền lực nhà nước, thể hiện ý chí quyền
lực đơn phương của cơ quan nhà nước, các cơ quan, tổ chức Nhà
nước uỷ quyền ban hành các quyết định trên cơ sở pháp luật và
nhằm thực hiện theo trình tự và hình thức văn bản theo quy định
của pháp luật. Việc ban hành các quyết định hành chính là nhiệm
vụ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm định ra chính sách,
quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các quy định pháp luật hành chính cụ
thể, nhằm thực hiện các nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của
quyền hành pháp nhà nước. Do đó phải đề cao trách nhiệm vật
chất cá nhân và cơ quan ra quyết định. Cấp càng cao khi ra quyết
định càng đòi hỏi phải có luận cứ nghiêm túc, quyết định sáng tạo
hay quan liêu phụ thuộc vào năng lực, tư duy của cá nhân và cơ
quan quản lý nhà nước.
Với đặc điểm như trên, quyết định hành chính là hành vi của
các cơ quan hành chính Nhà nước hoặc cá nhân, tổ chức được uỷ
quyền nhằm đưa ra các quyết định chung hay tình trạng pháp lý cụ
thể cá biệt cho công dân hay tập thể hoặc tổ chức.
Nguyên tắc quản lý nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi mọi
hành động của cơ quan quản lý nhà nước trong đó có hoạt động ra
các quyết định hành chính phải phù hợp với pháp luật hiện hành về
nội dung và trình tự ban hành, đó là mọi quyết định hành chính
được ban hành trên cơ sở hiến pháp, pháp luật, văn bản của cơ
quan quản lý nhà nước cấp trên phải nhằm thực hiện Hiến pháp,
pháp luật.
Mặt khác các quyết định hành chính phải đảm bảo được
15
- nguyện vọng của nhân dân và thực tiễn trong từng giai đoạn cụ
thể. Tuy nhiên trong thực tế còn nhiều quyết định hành chính chưa
tuân thủ pháp luật của cấp trên dẫn đến tình trạng khiếu nại của
công dân trên các lĩnh vực đời sống xã hội.
Tính hợp pháp và tính hợp lý quyết định hành chính có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau, khi ban hành quyết định hành chính các
cơ quan hành chính nhà nước bảo đảm được tính hợp pháp và tính
hợp lý chỉ khi đó văn bản đưa ra mới có khả năng thực thi, đ ược xã
hội chấp nhận.
Tính hợp pháp của quyết định hành chính được thể hiện ở
chỗ các quyết định hành chính phải phù hợp với nội dung và mục
đích của luật, nghĩa là các quyết định hành chính không được trái
với hiến pháp, pháp luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên, các quyết định đó phải được ban hành trong phạm vi thẩm
quyền của cơ quan hoặc chức vụ, yêu cầu này đòi hỏi mỗi cơ quan
chỉ có quyền hạn ban hành quyết định, giải quyết các vấn đề nhất
định do pháp luật quy định (chức năng, nhiệm vụ), không lạm
quyền, lẩn tránh trách nhiệm.
Việc phân định rõ thẩm quyền của mỗi cấp cơ quan nhà
nước bảo đảm cho cơ quan thực hiện trách nhiệm một cách chủ
động, không can thiệp trái thẩm quyền vào quyền hạn của cơ quan
khác, để tránh lạm quyền, lẩn tránh trách nhiệm, làm mất trật tự
trong quản lý hành chính nhà nước.
Quyết định hành chính nhà nước phải được ban hành xuất
phát từ những lý do xác thực, bức xúc nghĩa là chỉ khi nào trong đời
sống xã hội xuất hiện có nhu cầu, các sự kiện được pháp luật quy
định cần phải ban hành thi cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền mới ban hành quyết định nhằm quy định chung hoặc áp
dụng pháp luật cho các trường hợp cụ thể (ví dụ như trong vụ án
Dương Thị Nga).
16
- Ba ngày sau, khi vụ việc được phát trên bản tin thời sự 6 giờ
ngày 7/1/2003, ngày 10/1/2003 Chánh án Toà án nhân dân thành phố
Hà Nội đã ra Quyết định số 01/KN/QĐ kháng nghị Bản án sơ thẩm
số 438 ngày 2/12/2002 của Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm, đề
nghị Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xử lại
vụ án theo trình tự giám đốc thẩm. Cùng ngày, Chánh án Toà án
nhân dân thành phố Hà Nội đã ra Quyết định số: 01/QĐ-GĐT tạm
đình chỉ thi hành hình phạt tù và quyết định trả lại tự do ngay cho
bị cáo Dương Thị Nga).
Quyết định hành chính nhà nước chỉ bảo đảm tính hợp pháp là
chưa đủ mà phải bảo đảm tính hợp lý thì mới có tính thực thi cao,
tính hợp lý của quyết định hành chính phải đảm bảo hài hoà giữa
lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân. Yêu cầu này đòi hỏi sự
cân đối hợp lý giữa Nhà nước và xã hội, coi lợi ích Nhà nước, lợi
ích tập thể, lợi ích của xã hội với lợi ích của công dân là tiêu chí
để đánh giá tính hợp lý của quyết định hành chính.
Quyết định hành chính phải có tính cụ thể và phù hợp với
từng vấn đề, với các đối tượng thực hiện, một quyết định có hiệu
lực và khả năng thực thi cao khi nó ban hành đúng lúc, phù hợp với
nhu cầu quản lý, trong trường hợp không cần thiết mà vẫn ban
hành quyết định thì không những không mang lại hiệu quả mà
thậm chí còn gây thiệt hại về vật chất và tinh thần của đối tượng
quản lý.
Trong trường hợp vụ án bà Dương Thị Nga, giả sử bà Dương
Thị Nga có lừa đảo thật 200.00đ của bà Lê thì chỉ cần xử phạt hành
chính là xong, vì theo pháp luật hiện hành thì: nếu số tiền lừa đ ảo
chưa đến 500.000đ thì không cần thiết phải có Quyết định bắt
khẩn cấp của Công an quận Hoàn Kiếm, cũng không đến mức
Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm phải ra quyết định truy
tố
17
- “Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của
người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi
triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt
hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm
hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm” ( Điều 139, BLHS 1999)”.
Bà Dương Thị Nga chưa bao giờ bị xử phạt hành chính về
hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản và
giả sử bà Dương Thị Nga có lừa đảo thật 200.00đ của bà Lê thì
cũng không thể gây ra “hậu quả nghiêm trọng ”. Thế nhưng, người
ta vẫn cố tình “Hình sự hoá ” một vụ việc cỏn con đó bằng sự
phối hợp của 3 cơ quan với một loạt các biện pháp nghiệp vụ của
các cơ quan bảo vệ pháp luật :
- Quyết định bắt khẩn cấp của Công an quận Hoàn Kiếm;
- Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm phải ra quyết định
truy tố;
- Toà án nhân dân quận Hoàn Kiếm mở ngay một phiên toà để
xét xử và phán quyết phạt tù Dương Thị Nga 04 tháng tù giam.
Chính vì các quyết định của các cơ quan thi hành pháp luật
quận Hoàn Kiếm, Hà Nội ra không đúng lúc, không đúng pháp luật
nên bị dư luận xã hội và nhân dân trong cả nước bất bình.
Quyết định thi hành chính phải đảm bảo tính hệ thống toàn
diện, nội dung quyết định phải đảm bảo các yếu tố chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội, các biện pháp phải đồng bộ, phù hợp với biện
pháp trong các quyết định có liên quan.
Xem một quyết định có hợp pháp hay không khi nó đã đảm
bảo tính hợp pháp, điều đó có nghĩa là trước khi ra quyết định hành
chính phải hợp pháp không thể vì lý do hợp lý mà ban hành các
18
- quyết định trái với pháp luật.
Đáng ra việc khiếu nại của công dân không xảy ra nếu trước
đó ở một cơ quan quản lý nhà nước ra các quyết định đúng đắn,
tuân thủ pháp luật, chấp hành cơ quan quản lý cấp trên, đảm bảo
hài hoà hợp lý giữa lợi ích của Nhà nước, tập thể và lợi ích công
dân. Mặt khác, phải phát hiện sớm và xử lý nghiêm minh đối với
cơ quan đơn vị, cá nhân ra quyết định hành chính vi phạm pháp
luật.
Diễn biến của vụ án Dương Thị Nga xảy ra ở quận Hoàn
Kiếm, Hà Nội như đã trình bày ở phần trên, nhưng ở đây muốn nói
đến công tác quản lý cán bộ còn thiếu sót ở một cơ quan chức năng
thi hành pháp luật mà còn để xảy ra vi phạm pháp luật, điều này
cũng nói lên sự quan tâm giáo dục thường xuyên cho cán bộ chưa
được coi trọng, không quản lý theo dõi được cán bộ nên không kịp
thời phát hiện các sai sót trong công tác nghiệp vụ chuyên môn.
Chính vì vậy trong công tác về thu thập chứng cứ của vụ án
Dương Thị Nga của công an, Viện kiểm sát quận Hoàn Kiếm lại
có những thiếu sót nghiêm trọng đã vi phạm các điều 47, 48, 79
của Bộ luật tố tụng hình sự, làm cho việc đánh giá chứng cứ phiến
diện không đầy đủ, thiếu khách quan, đặc biệt Dương Thị Nga có
những giấy tờ của chính quyền địa phương chứng minh là bà
Dương Thị Nga không hề có mặt tại Hà Nội vào ngày xảy ra vụ
án;
Ông Dương Văn Thực, chồng bà Dương Thị Nga đã gửi đơn
khiếu nại đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó có
cho công an quận Hoàn Kiếm kèm theo đơn khiếu nại của ông còn
có Giấy xác nhận của chính quyền địa phương – Uỷ ban nhân dân
xã Chiềng Sơ, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.
Nhưng hồ sơ truy tố ra trước toà không thấy những giấy tờ
này. Vì khi quy tội cho một đối tượng thì trước hết phải tìm cách
19
- gỡ tội, sau đó mới kết tội đó là đạo lý của những người thi hành
pháp luật. Khi xét xử Toà án lại không triệu tập ông Dương Văn
Thực - chồng bà Dương Thị Nga để thẩm phán làm rõ lời khai tại
cơ quan điều tra là ngày 12/10/2002 bà Dương Thị Nga đang bị ốm
ở Sơn La cũng là một thiết sót của cơ quan xét xử.
Trong công tác, tổ chức cán bộ là khâu then chốt, là sự sắp
xếp đầy tính khoa học và nghệ thuật về sự thiết lập các mối liên
hệ giữa con người với con người để thực hiện các mục tiêu đề ra,
cần căn cứ vào khả năng, kinh nghiệm và năng lực của mỗi người
cụ thể để sắp xếp công việc cho phù hợp, yếu tố quan trọng trong
tổ chức cán bộ là làm rõ chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền của mỗi
người, những người có liên quan trong vụ án này nến thể hiện rõ
điều nói ở trên thì vụ án có thể không xảy ra.
Trong tình huống cụ thể này, nguyên nhân của tình huống thể
hiện khái quát ở các khía cạnh sau :
- Thiếu xót trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước ở các
cấp, đặc biệt là các cơ quan bảo vệ pháp luật trong hoạt động,
điều hành, sử dụng thẩm quyền, công tác kiểm tra, kiểm soát.
- Sự bất cập trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến vụ việc.
- Sự thiếu trách nhiệm, sự yếu kém về năng lực công tác và cũng
có thể liên quan đến phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức
trong giải quyết vụ việc.
2. Hậu quả của sự việc trên
Nếu không giải quyết thoả đáng những rắc rối trong việc bắt,
giam giữ công dân, điều tra, truy tố, xét xử công dân trái pháp luật
của các cơ quan bảo vệ pháp luật, thì sẽ gây bất bình trong dư
luận xã hội, nhân dân sẽ thiếu tin tưởng vào các cơ quan bảo vệ
pháp luật;
20
nguon tai.lieu . vn