- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Tiểu luận kết thúc học phần môn Lý luận văn học: Ngôn ngữ nghệ thuật trong tập thơ Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa
Xem mẫu
- lOMoARcPSD|16911414
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: LÝ LUẬN VĂN HỌC
TÊN ĐỀ TÀI: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
TRONG TẬP THƠ “GÓC SÂN VÀ KHOẢNG
TRỜI “ CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
Họ và tên: Phan Nguyễn Quỳnh Anh
MSSV: 3120150007
Mã học phần: 815058
Mã nhóm thi: 001
TP. HỒ CHÍ MINH, tháng 1 năm 2022
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 4
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT ................................ 5
1. Khái niệm ......................................................................................................... 5
1.1. Ngôn ngữ và ngôn từ nghệ thuật ............................................................. 5
1.2. Lời nói và lời văn ...................................................................................... 5
1.3. Ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ toàn dân ............................................... 5
2. Đặc điểm của ngôn từ văn học ........................................................................ 6
2.1. Tính phi vật thể ......................................................................................... 6
2.2. Không bị hạn chế về không gian và thời gian ........................................ 6
2.3. Có khả năng phản ánh vẻ đẹp tư tưởng của hình tượng ...................... 6
2.4. Tính vạn năng và phổ thông .................................................................... 7
3. Đặc trưng của lời văn nghệ thuật ................................................................... 7
3.1. Tính chính xác ........................................................................................... 7
3.2. Tính hàm súc ............................................................................................. 7
3.3. Tính biểu cảm ............................................................................................ 7
3.4. Tính nhiều nghĩa ....................................................................................... 7
3.5. Tính hình tượng ........................................................................................ 8
3.6. Tính tổ chức cao ........................................................................................ 8
4. Các phương tiện và phương thức tổ chức của lời văn nghệ thuật: ............. 8
4.1. Phương tiện................................................................................................ 8
4.2. Phương thức ............................................................................................ 10
5. Lời văn/ ngôn ngữ nghệ thuật trong các thể loại văn học.......................... 11
5.1. Ngôn ngữ trong tác phẩm kịch .............................................................. 11
5.2. Ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự (văn xuôi) .......................................... 11
5.3. Ngôn ngữ thơ ca ...................................................................................... 11
CHƯƠNG 2: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TẬP THƠ “GÓC SÂN VÀ
KHOẢNG TRỜI” CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA ....................................................... 12
1. Tác giả Trần Đăng Khoa .............................................................................. 12
1.1. Tiểu sử ...................................................................................................... 12
1.2. Sự nghiệp sáng tác .................................................................................. 12
2. Tập thơ “Góc sân và khoảng trời” ............................................................... 12
2.1. Hoàn cảnh sáng tác ................................................................................. 12
2.2. Nội dung ................................................................................................... 13
2.3. Số lượng bài ............................................................................................. 13
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
3. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tập thơ “Góc sân và khoảng trời”. ............... 13
3.1. Ngôn ngữ giàu tính hình tượng ............................................................. 13
3.2. Ngôn ngữ giàu âm thanh, nhịp điệu ...................................................... 18
3.3. Ngôn ngữ mang tính hàm xúc cao. ........................................................ 20
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 22
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống đời thường, ngôn ngữ tồn tại rất tự nhiên. Chúng mang trên
mình nhiệm vụ giải quyết những nhiệm vụ tức thời, một lần, phụ thuộc vào hoàn cảnh
diễn ra. Nếu tách biệt với hoàn cảnh, ngôn ngữ giao tiếp sẽ hoàn toàn mất giá trị.
Thế nhưng, ngôn ngữ trong văn học, hay ngôn từ nghệ thuật, thì hoàn toàn khác
biệt. Nó là một hiện tượng trọn vẹn, đầy đủ. Nhà văn hoàn thiện văn bản, đảm bảo
chúng truyền tải được toàn bộ những gì hợp với ý tình định nói. Ngôn ngữ nghệ thuật
không giản đơn mà có những đặc điểm rất riêng. Muốn hiểu rõ ngôn ngữ nghệ thuật
thì phải hiểu những đặc điểm ấy. Đó cũng là lý do em chọn đề tài này đồng thời sử
dụng những kiến thức đó nhằm tiến hành phân tích những đặc điểm về ngôn từ nghệ
thuật trong tập thơ “Góc sân và khoảng trời” của Trần Đăng Khoa.
1
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
1. Khái niệm
1.1. Ngôn ngữ và ngôn từ nghệ thuật
Ngôn ngữ: là tiếng nói của một dân tộc, là công cụ giao tiếp hàng ngày thuộc phong
cách sinh hoạt, gần với khẩu ngữ.
Ngôn từ nghệ thuật: là chất liệu tạo nên tác phẩm văn học, là công cụ của tư duy thuộc
phong cách nghệ thuật của nhà văn.
1.2. Lời nói và lời văn
Lời nói: Là phát ngôn trong đời sống hàng ngày, giải quyết các nhiệm vụ giao tiếp tức
thời, một lần, nó có quan hệ rất chặt với hoàn cảnh nói mà người nghe phải biết đầy đủ
hoàn cảnh đó thì mới hiểu được. Nếu tách khỏi hoàn cảnh ấy, lời nói trở nên vô nghĩa,
vô giá trị.
Lời văn: Là hình thức ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn học (gồm lời thơ, lời văn,
lời tác giả, lời nhân vật…), là lời nói không chỉ có tác dụng giải quyết các nhiệm vụ
giao tiếp tức thời mà nó có tham vọng trở thành lời nói cho nhiều lần, với muôn đời.
Nó có khả năng tương đối độc lập, có thể tách rời ngữ cảnh giáo tiếp, tham gia nhiều
ngữ cảnh khác. Lời văn luôn là hiện tượng trọn vẹn, đầy đủ, có thể tự thuyết minh ý
nghĩa của văn bản. Trong nghệ thuật chỉ có một lời văn duy nhất hợp với ý tình định
nói của nhà văn. Lời văn không giản đơn là lời nói mà nó còn là hình thức của tác
phẩm văn học, có tổ chức quy luật riêng.
1.3. Ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ toàn dân
Ngôn ngữ toàn dân là ngôn ngữ dùng hằng ngày, phổ thông, phổ biến, là ngôn ngữ
được dùng trong các vấn đề hằng ngày.
Ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ của văn bản văn học, trong tác phẩm văn học, được
dùng để sáng tạo hình tượng nghệ thuật. Nó biểu đạt một thế giới hình tượng được
hình thành trong lòng nó nên mang những đặc điểm riêng, giá trị độc lập, tự thân.
Ngôn ngữ văn học còn là lời nói bên trong tâm hồn, là hình thức của tư duy, có nhiệm
vụ xây dụng hình thức cho hình tượng văn học, làm cho các hình tượng trong mỗi thể
loại có tính đặc thù và nội dung thẩm mĩ
2
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
Văn học miêu tả những đối tượng do chính nhà văn thể nghiệm nên ngôn ngữu văn
học buộc phải sử dụng các phương thức biến đổi và mở rộng vô hạn các giới hạn nghĩa
của ngôn từ.
Ngôn ngữ văn học chịu sự chi phối của trí tưởng tượng và đặc điểm tư duy nghệ thuật
của nhà văn, mang dấu ấn của thể loại và văn hóa của thời đại.
Mối quan hệ qua lại giữa ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ toàn dân diễn ra liên tục, thúc
đẩy nhau không ngừng phát triển. Do được chọn lọc, gọt giũa, hấp thu được những
tinh hoa trong vốn từ vựng và văn phạm của ngôn ngữ toàn dân, ngôn ngữ văn học có
điều kiện trở thành ngôn ngữ chuẩn mực của dân tộc.
Ngôn ngữ văn học có nhiệm vụ giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc, chống lại
mọi biểu hiện lai căng, lạm dụng tiếng địa phương, tiếng lóng, tiếng nghề nghiệp, tiếng
dân tộc ít người… Nó cũng không chấp nhận những sáng tạo bí hiểm, vi phạm chuẩn
mực tiếng nói của dân tộc. Bằng sự tinh nhạy và khả năng sáng tạo của mình, nhà văn
sẽ góp phần nâng cao và hoàn thiện ngôn ngữ văn học dân tộc.
2. Đặc điểm của ngôn từ văn học
2.1. Tính phi vật thể
Hình tượng văn học xây dựng bằng chất liệu ngôn từ nên tác động vào tư duy, liên
tưởng, tưởng tượng của người đọc. Không ai thấy hình tượng văn học bằng các giác
quan cụ thể mà bộc lộ qua “cái nhìn” bên trong thầm kín. Văn học có thể cảm nhận
được không chỉ thế giới hữu hình cụ thể mà còn cả những cái mơ hồ, thế giới tinh thần
trừu tượng.
2.2. Không bị hạn chế về không gian và thời gian
Với chất liệu ngôn từ, văn học có thể kéo dài, dồn nén, đảo lộn, đồng hiện thời gian
khi miêu tả. Thời gian trong văn học không chỉ đơn thuần là thời gian vật lý (tính bằng
giờ, phút, năm, tháng) mà còn là thời gian tâm lý của nhân vật. Khả năng miêu tả của
ngôn từ cũng khiến không gian trong tác phẩm không bị giới hạn, có thể mở rộng,
chuyển đổi hoặc đồng hiện...
2.3. Có khả năng phản ánh vẻ đẹp tư tưởng của hình tượng
3
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
Thông qua văn bản nghệ thuật ngôn từ: lời phát ngôn, giọng điệu của người trần thuật,
ngôn ngữ nhân vật, lời tác giả…, văn học có khả năng thể hiện những suy ngẫm, tư
duy của con người, khắc hoạ được chân dung tư tưởng của nhà văn. Đó là những tư
tưởng triết học, văn hóa, tâm lý, học thuật… của con người trong mọi thời đại. Suy
cho cùng, văn học là một cuộc trao đổi, tranh luận, đối thoại ngầm hoặc công khai về
tư tưởng, ý nghĩa...
2.4. Tính vạn năng và phổ thông
Do lấy ngôn từ làm chất liệu, văn học có thể phản ánh bất cứ phương diện nào của đời
sống hiện thực. Văn học có khả năng vô hạn trong việc tái hiện đời sống, thực hiện
chức năng nhận thức, biểu hiện tư tưởng một cách hoàn hảo nhất.
Ngôn từ là phương tiện giao tiếp phổ biến nhất của con người. Xét về phương diện
sáng tác, truyền bá và tiếp nhận thì văn học là loại hình nghệ thuật phổ thông nhất.
Việc tàng giữ, tiếp nhận văn học không đòi hỏi nhiều phương tiện vật chất như các loại
hình nghệ thuật khác (Âm nhạc, hội hoạ, điêu khắc…)
3. Đặc trưng của lời văn nghệ thuật
3.1. Tính chính xác
Đây có thể được xem là đặc trưng đầu tiên của lời văn nghệ thuật. Nhà văn với
những lời văn chính xác và trong sáng mới có thể biểu hiện đầy đủ, đúng đắn những
cảm xúc, những điều muốn diễn đạt. Để đạt được điều này đòi hỏi nhà văn phải học
hỏi để mở mang vốn từ, lựa chọn nghiêm khắc để có được từ diễn đạt đắc địa nhất
những tư tưởng của mình.
3.2. Tính hàm súc
Xuất phát từ nguyên tắc tiết kiệm trong ngôn ngữ, “lời chật mà ý rộng”, tính hàm xúc
là miêu tả mọi hiện tượng cuộc sống một cách cô động, lời ít ý nhiều, ý ở ngoài lời mà
vẫn đạt đến một hiệu quả nghệ thuật tối đa.
3.3. Tính biểu cảm
Ngôn ngữ văn học có thể biểu hiện cảm xúc, tác động đến tình cảm của người đọc, làm
cho người đọc cũng nảy sinh thái độ, tâm trạng… trước đối tượng được miêu tả.
3.4. Tính nhiều nghĩa
4
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
Ngôn ngữ văn học có những tầng lớp nghĩa khác nhau, hoà quyện vào nhau. Đây là
một trong những nguyên nhân quan trọng tạo nên sức sống, đem lại chiều sâu và giá trị
nghệ thuật của ngôn ngữ văn học.
Đây là đặc điểm phổ biến chính của ngôn ngữ. Từ ngữ ngoài nghĩa chính còn có nghĩa
phụ, ngoài nghĩa đen thì còn được dùng với nghĩa bóng.
3.5. Tính hình tượng
Là sự kết hợp hữu cơ giữa tính chính xác, tính hàm xúc, tính tạo hình, tính biểu cảm
của ngôn ngữ văn học; là cách thức sử dụng từ vựng, ngữ pháp, âm thanh, nhịp điệu có
khả năng khơi gợi trí tưởng tượng, gợi lên các biểu tượng về sự vật, hiện tượng hoặc
con người được miêu tả trong tác phẩm văn học; là kết quả của khả năng quan sát tinh
tế, nhạy bén, vốn sống đa dạng và trình độ sử dụng ngôn ngữ rất điêu luyện.
Biểu hiện của tính hình tượng:
- Dùng nhiều từ tượng hình, tượng thanh, tượng sắc → giàu sức gợi tả
- Dùng nhiều phương thức chuyển nghĩa (các biện pháp tu từ từ vựng, tu từ cú pháp:
lối nói ví von, ẩn dụ, khoa trương, tượng trưng…)
3.6. Tính tổ chức cao
Biểu hiện của tính tổ chức trong tác phẩm văn học:
- Cách sắp xếp vần, nhịp, niêm, đối chặt chẽ (trong thơ)
- Cách chọn lựa hình ảnh, kết cấu, bố cục
- Ngôn ngữ mang tính đa nghĩa, gợi mở.
4. Các phương tiện và phương thức tổ chức của lời văn nghệ thuật:
4.1. Phương tiện
- Các phương tiện biểu đạt (thuộc các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, các
phương thức tu từ)
- Về mặt ngữ âm:
5
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
Ngôn ngữ văn học gồm các yếu tố như âm (nguyên âm, phụ âm, vần,…), thanh (bằng,
trắc, trầm, bổng), nhịp điệu (sự phối hợp âm thanh, tiết tấu tạo ra sự nhịp nhàng, khoan
thai hay gấp gáp).
Sự kết hợp các yếu tố âm thanh, vần, nhịp điệu,… có những vai trò nhất định trong
việc diễn đạt những sắc thái khác nhau của lời văn trong tác phẩm nghệ thuật.
- Về mặt từ vựng:
Từ vựng là toàn bộ các từ trong một ngôn ngữ, là phương tiện tạo hình và biểu cảm vô
cùng quan trọng để tạo nên lời văn nghệ thuật. Có thể kể đến: từ đồng nghĩa , phản
nghĩa, tiếng nghề nghiệp, tiếng địa phương, tiếng nước ngoài đã được việt hóa, từ tôn
giáo…
Để có thể tạo dựng lời văn nghệ thuật, nhà văn phải tích lũy một vốn từ thật phong phú
để sử dụng đúng lúc, đúng chỗ. Còn với phương diện người đọc muốn hiểu được lời
văn nghệ thuật, cần phải nắm vững các phương tiện và cách thức tạo nên nó, xem các
phương tiện đó đã được tổ chức như thế nào trong việc tạo lời văn nghệ thuật.
- Về mặt ngữ nghĩa
Các phương tiện chuyển nghĩa là một biện pháp nghệ thuật được sử dụng để tạo nên
những khả năng biểu hiện của lời văn. Là các phương thức chuyển nghĩa dựa vào sự
tương ứng của hai hiện tượng hay dùng hiện tượng này để nhận thức và giải thích hiện
tượng kia. Chức năng chung là làm hiện lên sự vật, hiện tượng trong các tương quan, ý
nghĩa khác nhau
Các phương thức chuyển nghĩa tiêu biểu như:
- So sánh: đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có một dấu hiệu chung nào đó để
diễn tả một đặc điểm của một đối tượng. Đây là hình thức sử dụng quen thuộc nhất
trong các tác phẩm. Phép so sánh thường dùng các liên từ (như, giống như, là, bao
nhiêu…). Một số trường hợp không sử dụng từ so sánh.
- Ẩn dụ: biện pháp so sánh ngầm, chỉ có vế so sánh xuất hiện nhưng nhờ sự liên
tưởng và văn cảnh, người đọc vẫn có thể liên hệ đến đối tượng được so sánh.
- Nhân hóa: cách miêu tả, diễn tả con vật hoặc sự vật có cảm xúc, tính cách,
hành động giống như con con người bằng các thủ pháp nghệ thuật.
6
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
- Phúng dụ: là một ẩn dụ được phát triển, bao trùm toàn bộ tác phẩm, thường
mang tính chất ngụ ý, là sự tổ chức các hình ảnh sinh động, cụ thể để biểu thị một ý
niệm về triết lí, nhân sinh dựa trên cơ sở liên tưởng những nét tương đồng giữa các
hình ảnh sinh động và ý niệm về triết lí nhân sinh. Phúng dụ bao giờ cũng có 2 ý
nghĩa: ý nghĩa bề mặt và ý nghĩa bề sâu.
- Tượng trưng: Khi hoán dụ, ẩn dụ được sử dụng quen thuộc, được cố định lại
trong tư duy của con người, trở thành hình ảnh có tính chất ước lệ, được gọi là tượng
trưng.
- Chơi chữ: cách tu từ vận dụng linh hoạt các tiềm năng về ngữ âm, chữ viết, từ
vựng, ngữ pháp nhằm tạo ra một phần tin khác với phần tin cơ sở. Phần tin khác này
mang nghĩa hoàn toàn mới, bất ngờ mà về bản chất không liên quan gì với phần tin cơ
sở.
- Các phương tiện cú pháp
Các phương tiện cú pháp như câu, điệp từ, chấm câu, câu nghi vấn, câu cảm thán..cũng
gíúp cho lời văn nghệ thuật có sức truyền cảm nhằm diễn đạt ý tình của nhà văn
Văn học thiếu nhi, nhất là thơ thường giàu chất nhạc. Đó là sự hoà kết của hệ thống
thanh điệu bằng, trắc, cách ngắt nhịp, những biện pháp song thanh, điệp vận, từ đồng
âm khác nghĩa, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình, phép trùng điệp trong câu chữ, cú
pháp...
4.2. Phương thức
- Tổ chức lời văn nghệ thuật thành các dạng văn: văn xuôi (tác phẩm truyện như tiểu
thuyết, truyện vừa, truyện ngắn…), văn vần (thường chia dòng, giữa các dòng được
nối kết bởi một vần hay nhiều vần (Các tác phẩm thơ), văn đối thoại (Dùng trong kịch
bản văn học. Ở đó lời văn chủ yếu được tạo nên bởi các câu thoại giữa các nhân vật.)
Ngoài các dạng trên còn có loại văn biền ngẫu dùng trong nhiều thể văn cổ như: phú,
văn tế, hịch, cáo v.v… Câu văn thường được tổ chức thành các vế sóng đôi đối nhau
từng cặp.
- Tổ chức lời văn nghệ thuật thành các dạng văn trần thuật, miêu tả:
7
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
Lời văn trong tác phẩm văn học có chức năng tái hiện đời sống, thể hiện sự lý giải,
đánh giá, cảm hứng...
Lời văn nghệ thuật luôn luôn biểu hiện là lời của ai đó (của tác giả, của nhân vật). Mỗi
nhà văn, qua điểm nhìn được cá thể hoá, tạo nên “bút lực” của mình, cuốn hút người
đọc tham gia vào câu chuyện.
Các phương tiện, phương thức nói trên chỉ thực sự trở thành lời văn nghệ thuật khi nó
gắn liền với một nội dung cụ thể của tác phẩm biểu hiện đắc lực cho nó.
5. Lời văn/ ngôn ngữ nghệ thuật trong các thể loại văn học
5.1. Ngôn ngữ trong tác phẩm kịch
Là ngôn ngữ các nhân vật được tổ chức thông qua hệ thống đối thoại và độc thoại.
Trong kịch không có ngôn ngữ tác giả, thái độ tác giả được biểu hiện ngầm sau hệ
thống đối thoại của ngôn ngữ nhân vật.
Ngôn ngữ kịch gần gũi với tiếng nói thông thường của nhân dân và phải là những từ
chính xác nhất, có tính điển hình rõ rệt, sức biểu hiện tối đa.
Sự ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật sẽ làm rõ tính cách của từng nhân vật và làm
nổi bật tư tưởng chủ yếu của tác phẩm.
5.2. Ngôn ngữ trong tác phẩm tự sự (văn xuôi)
Ngôn ngữ nhân vật: rất phong phú và đa dạng vì mỗi nhân vật có tiếng nói riêng,
phong cách ngôn ngữ riêng. Nó thường thể hiện qua lời nói trực tiếp (bằng đối thoại
hoặc độc thoại) nhằm tỏ rõ thái độ của mình đối với các sự việc, hiện tượng hoặc với
các nhân vật khác trong những hoàn cảnh nhất định.
Ngôn ngữ người kể chuyện: đóng vai trò tổ chức và chỉ đạo. Nó có ý nghĩa quyết định
đối với toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ toàn tác phẩm (bộc lộ chủ đề và tư tưởng tác phẩm,
khắc hoạ đặc điểm của tính cách, dẫn dắt quá trình phát triển của cốt truyện, thực hiện
nhiệm vụ kết cấu tác phẩm...)
5.3. Ngôn ngữ thơ ca
Ngôn ngữ thơ ca được xem là tiêu biểu cho ngôn ngữ văn học bởi nó có tác dụng gợi
cảm đặc biệt. Ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ được tổ chức theo quy luật riêng của từng
8
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
thể thơ (cách luật và thơ tự do): cách chia khổ, gieo vần, ngắt nhịp, cách sử dụng hình
ảnh, tu từ.
CHƯƠNG 2: NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT TRONG TẬP THƠ “GÓC SÂN VÀ
KHOẢNG TRỜI” CỦA TRẦN ĐĂNG KHOA
1. Tác giả Trần Đăng Khoa
1.1. Tiểu sử
Nhà thơ Trần Đăng Khoa sinh ngày 24-4-1958 tại Tỉnh Hải Dương, nước Việt Nam.
Ông sống và làm việc chủ yếu ở Thành phố Hà Nội, nước Việt Nam.
Trần Đăng Khoa là một nhà thơ nổi tiếng được mệnh danh là “Thần đồng thơ trẻ”.
Ông cũng là một nhà văn và một nhà báo. Ông giữ chức vụ biên tập viên Tạp chí Văn
nghệ Quân đội, nguyên là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ Phát thanh
có hình của kênh VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam. Hiện nay, ông giữ chức Phó Bí
thư Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam.
1.2. Sự nghiệp sáng tác
Nhà thơ Trần Đăng Khoa bắt đầu sáng tác từ rất sớm, năm 8 tuổi ông đã có một số
sáng tác được in trên báo.
Tác phẩm: Từ góc sân nhà em (1968), Góc sân và khoảng trời (tập thơ, 1968), Khúc
hát người anh hùng (trường ca, 1974), Bên cửa sổ máy bay (tập thơ, 1986), Chân dung
và đối thoại (tiểu luận phê bình, Hà Nội: Nhà xuất bản Thanh niên, 1998), Bài “Thơ
tình người lính biển" (đã được Hoàng Hiệp phố nhạc), Đảo chìm (tập truyện – ký).
Giải thưởng: Giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền phong các năm 1968, 1969,
19711; Giải nhất báo Văn nghệ năm 1982; Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ
thuật năm 2001
2. Tập thơ “Góc sân và khoảng trời”
2.1. Hoàn cảnh sáng tác
Tuyển tập thơ “Góc sân và Khoảng trời” do Trần Đăng Khoa sáng tác từ những năm
lên 8. Đến năm nhà thơ lên 10 tuổi thì “Góc sân và Khoảng trời” được in lần đầu. Tập
thơ là góc nhìn trong trẻo, hồn nhiên của trẻ thơ về một thế giới con người và sự vật
mà trong đó con người nào cũng đều để lại một dấu ấn tốt đẹp
9
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
2.2. Nội dung
“Góc sân và khoảng trời” tập thơ mở ra một thế giới đầy dấu ấn tốt đẹp trong con mắt
thi sĩ tí hon Trần Đăng Khoa, sự vật đều được nhân cách hóa, trở thành bạn bè than
thiết, không thể xa rời dưới đôi mắt trẻ thơ. Trong bài thơ còn có một mảng thơ về
người thầy giáo, họ là người thầy – người lính – người thương binh.
2.3. Số lượng bài
Tập thơ gồm có 105 bài thơ và Trường ca đánh Thần Hạn có 4 chương.
3. Ngôn ngữ nghệ thuật trong tập thơ “Góc sân và khoảng trời”.
3.1. Ngôn ngữ giàu tính hình tượng
Trong bài thơ “Mưa”, bức tranh về cơn mưa rào được Trần Đăng Khoa miêu tả
theo trình tự thời gian, từ lúc “Sắp mưa” cho đến lúc “Mưa”.
Sắp mưa
Sắp mưa
Những con mối
Bay ra
Mối trẻ
Bay cao
Mối già
Bay thấp
Gà con
Rối rít tìm nơi
Ẩn nấp
Ông trời
Mặc áo giáp đen
Ra trận
Muôn nghìn cây mía
Múa gươm
Kiến
Hành quân
Đầy đường
10
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
Lá khô
Gió cuốn
Bụi bay
Cuồn cuộn
Mở đầu bài thơ là phép điệu “Sắp mưa” tận hai lần. Kết hợp với những câu thơ ngắn
gọn tạo nhịp điệu nhanh như một lời báo động là cơn mưa đang kéo đến. Quang cảnh
xung quanh được miêu tả với hàng loạt hoạt động của những sinh vật sống, cực kì
sống động và chi tiết. Đầu tiên là hình ảnh họ hàng nhà mối. Chúng bay ra khỏi tổ,
những chú mối trẻ thì “bay cao”, những cụ mối già thì “bay thấp”. Tiếp theo đó là
những chú gà đi tìm nơi ẩn nấp, ông trời, cây mía, đàn kiến, những chiếc lá khô, cỏ gà,
bụi tre, hàng bưởi, chớp, sấm, cây dừa, ngọn mùng tơi, …
Tác giả sử dụng phép nhân hóa cực kì đặc sắc cùng những liên tưởng thú vị. Khi bầu
trời muốn mưa thì những đám mây đen sẽ kéo đến, phủ kín bầu trời. Dưới góc nhìn
của đứa trẻ thì như “Ông trời/ Mặc áo giáp đen/ Ra trận”, gió nổi lên, thổi bụi, lá khô
cùng lá mía nghiêng ngả như “Muôn nghìn cây mía/ Múa gươm”, những chú kiến chạy
đi tránh mưa thành từng đàn tựa như “Kiến/ Hành quân/ Đầy đường”.
Những hình ảnh quen thuộc nhưng lại phảng phất không khí hùng tráng của những
tháng ngày dân tộc ta chống Mĩ. Từ “ông trời” đến “cây mía”, “đàn kiến” kết hợp với
phép nhân hóa và động từ mạnh, nom như chúng đều như ra trận, múa gươm hành
quân rất hùng hồn.
Những câu thơ tiếp theo cho thấy rõ sự tinh tế, hóm hỉnh của cậu bé 9 tuổi.
Cỏ gà rung tai
Nghe
Bụi tre
Tần ngần
Gỡ tóc
Hàng bưởi
Đu đưa
Bế lũ con
Đầu trò
11
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
Trọc lốc
Chớp
Rạch ngang trời
Khô khốc
Sấm
Ghé xuống sân
Khanh khách
Cười
Cây dừa
Sải tay
Bơi
Ngọn mùng tơi
Nhảy múa
Những bụi cỏ gà “rung tai/ Nghe”, bụi tre xa xa đang “tần ngần / Gỡ tóc”, hàng bưởi
trĩu quả đung đưa trong gió nom như người mẹ hiền dịu đang ru những con “Đầu tròn /
Trọc lốc” say giấc ngủ ngon, cây dừa cao vút với tán lá dang rộng như đang “Sải tay/
Bơi”, ngọn mùng tơi dẻo dai đang “Nhảy múa”. Trần Đăng Khoa đã xây dựng nên một
không gian hết sức nghệ thuật và đẩy sức sống. Mỗi một vật đều có linh hồn riêng, có
hành động,… thông qua biện pháp nhân hóa rất nỗi đáng yêu. Tiếng sấm chớp ầm ầm
như muốn xé toạc bầu trời cao cao nhưng qua con mắt trẻ thơ lại ngộ nghĩnh, vui vẻ
“cười” đến lạ.
Mấy chốc đã đến cảnh trời mưa được diễn tả trong 14 câu thơ tiếp theo. Từng hạt mưa
rơi trong gió tạo nên tiếng ù ù, được so sánh như tiếng xay lúa. Chúng tiếp tục rơi
“Lộp bộp / Lộp bộp”. Mưa to khiến đất trời trở nên “mù trắng nước”. Mưa chéo còn
khiến mặt sân “sủi bọt”.
Tưởng chừng mọi thứ thật ảm đạm thì hình ảnh những con cóc, con chó, cỏ cây lại
hiện lên, gợi sự vui tươi:
Cóc nhảy lồm chồm
Chó sủa
Cây lá hả hê.
12
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
Cơn mưa tưới mát cái nóng của mùa hè, giúp cây lá tốt tươi. Chúng vươn người, hả hê
đón những giọt nước mát. Mưa là nguồn gốc của sự sống, là niềm vui đáng cho sự đợi
chờ.
Những dòng thơ cuối đã xuất hiện hình ảnh của con người. Đó là người bố với tư thế
quen thuộc của người nông dân:
Bố em đi cày về
Đội sấm
Đội chớp
Đội cả trời mưa...
Nào sấm, nào chớp rồi cả cơn mưa tầm tã như đang đội trên đầu của bố em. Phép điệu
chữ “đội” tận 3 lần gợi tả những sự bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, dãi nắng dầm
mưa của người bố, của những người nông dân Việt Nam thuở xưa.
Trong hình ảnh thơ còn là sự đối lập giữa thiên nhiên rộng lớn và con người nhỏ bé.
Một phía là mưa, là sấm, là chớp ầm ầm, hung dữ. Một bên là con người, bình tĩnh,
chủ động. Tác giả như sử dụng phép đòn bẩy, dùng thiên nhiên như một tấm nền làm
bật lên tư thế của con người. Người cha lam lũ, đi cày về. Việc đi cày quen thuộc song
rất nổi bật với sự vững vàng giữa báo táp thiên nhiên, vượt lên trên để chiến thắng.
Những biện pháp tu từ kết hợp lại, đưa hình ảnh con người thành điểm tỏa sáng giữa
bức tranh thiên nhiên.
Một bài thơ khác là bài “Trăng ơi…từ đâu đến?
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ cánh rừng xa
Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay biển xanh diệu kỳ
Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi
13
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ một sân chơi
Trăng bay như quả bóng
Đứa nào đá lên trời
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ lời mẹ ru
Thương Cuội không được học
Hú gọi trâu đến giờ!
Trăng ơi... từ đâu đến?
Hay từ đường hành quân
Trăng soi chú bộ đội
Và soi vàng góc sân
Trăng ơi... từ đâu đến?
Trăng đi khắp mọi miền
Trăng ơi có nơi nào
Sáng hơn đất nước em...
Từ khổ đầu tiên cho đến tận khổ cuối, tác giác đã sử dụng phép điệp “Trăng ơi…từ
đâu đến?” như một câu hỏi, gợi lên biết bao sự bâng khuâng. Quan sát kĩ sẽ thấy
những không gian mà trăng xuất hiện sao thật bao la và mênh mông quá. Từ “cánh
đồng xa”, “một sân chơi”, “lời mẹ ru”, “đường hành quân” và “đi khắp mọi miền”.
Không còn những cách so sánh với lá lúa, với chiếc liềm, đĩa bạc, …Trần Đăng Khoa
đã cho ta cảm nhận trăng bằng những xúc cảm, rung động của trẻ thơ hồn nhiên:
“Trăng hồng như quả chín
Lửng lơ lên trước nhà”.
Cách sử dụng từ“lửng lơ” gợi tả một vầng trăng nhẹ nhàng, chậm rãi muốn bay lên
“trước nhà”. Trăng trông thật gần biết bao, nhất là với những đứa trẻ ở nông thôn.
14
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
Không có những ngôi nhà cao, không có đèn sáng rực, không có gì cản trở chúng nhìn
ngắm trăng tỏa sáng hằng đêm.
Từ nhà, trăng lại từ biển xanh xa xôi, diệu kì. Trăng tròn trịa, lung linh được so sánh
với mắt cá “chẳng bao giờ chớp mi”. Cách tu từ rất giàu chất thơ:
“Trăng tròn như mắt cá
Chẳng bao giờ chớp mi”
Từ chỗ xa tận biển khơi, bóng gần gũi trở lại. Lúc này đây, trăng được so sánh với quả
bóng trong sân chơi của những đứa trẻ con. Trăng đã được “Bạn nào đá lên trời”, thật
ngây ngô làm sao.
Trong lời ru của mẹ, trăng cũng xuất hiện : “Chú Cuội ngồi gác cây da – Thả trâu ăn
lúa, gọi cha ời ời….”. Trăng gắn bó từ khi ta lọt lòng, còn nằm trong nôi ê a những
tiếng đầu tiên. Thân nhau đến thế nên bé Khoa cất tiếng thương Cuội:
“Thương Cuội không được học
Hú gọi trâu đến giờ!”.
Tiến đến hai khổ thơ cuối cùng, trăng hiện lên như bạn đồng hành của bộ đội. Bài thơ
được viết năm 1967, những năm tháng đất nước kháng chiến chống quân Mĩ. Trăng
soi sáng cho Giải phóng quân hành quân ra trận:
“Trăng soi chú bộ đội
Và soi vàng góc sân”.
Đất nước tươi đẹp nhưng dưới ánh trăng lãng mạn lại càng đẹp biết bao nhiêu:
“Trăng ơi, có nơi nào
Sáng hơn đất nước em”.
Hai câu thơ, đơn giản, ngắn gọn nhưng gợi lên một tình yêu đất nước dạt dào, một
lòng tự hào dân tộc rất lớn lao.
3.2. Ngôn ngữ giàu âm thanh, nhịp điệu
Hơn các ngôn ngữ ở những thể loại khác, ngôn ngữ trong thơ rất giàu nhịp điệu, đa
dạng từ cách hòa âm, tiết tấu, từ láy âm, từ tượng hình hòa quyện cùng nhau tạo nên
một ngôn ngữ giàu tính nhạc. Tập thơ “Góc sân và khoảng trời” cũng không nằm
15
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
ngoài phạm vi đó. Nhà thơ Phạm Hổ từng nhận xét: “Thơ Trần Đăng Khoa với tập
Góc sân và khoảng trời “có sự phong phú trong nhạc điệu, mỗi bài thơ, có một nhạc
điệu riêng, âm sắc riêng”.
“Mưa” là một kiệt tác, hòa quyện âm thanh và nhịp điệu. Bài thơ là một bài
đồng dao nên mang trong mình sự hồn nhiên, khỏe khoắn. Nhưng nó còn có tiết tấu rất
khác, vẽ ra một thế giới thanh âm phức tạp, lúc trầm lúc bổng, lúc mạnh lúc nhẹ, lúc
tắt lúc vang.
Bản hòa ca cơn mưa chia làm hai phần. Ở phần đầu, cơn giông kéo đến nên giai
điệu lẫn âm thanh trong đoạn này vừa nhịp nhàng nhưng cũng rất hối hả. Sự nhịp
nhàng có trong những chuyển đổi của thời tiết: “Mối trẻ/ Bay cao/ Mối già/ Bay
thấp…”. Hòa cùng là nhịp ba, nhịp bốn để diễn tả sự vội vàng: “Gà con/ Rối rít tìm
nơi/ Ẩn nấp/ Ông trời/ Mặc áo giáp đen/ Ra trận/ Muôn nghìn cây mía/ Múa gươm/
Kiến/ Hành quân/ Đầy đường/ Lá khô/ Gió cuốn/ Bụi bay/ Cuồn cuộn/ Cỏ gà rung tai/
Nghe/ Bụi tre/ Tần ngần/ Gỡ tóc/ Hàng bưởi/ Đu đưa/ Bế lũ con/ Đầu tròn/ Trọc lóc/
Chớp/ Rạch ngang trời/ Khô khốc/ Sấm/ Ghé xuống sân/ Khanh khách/ Cười…”.
Đến phần tiếp theo, cơn mưa ập đến. Những giai điệu, nhịp điệu như nhanh
hơn, vang xa hơn. Nhịp một ở hai chữ “Mưa”, “Mưa”. Nối sau đó là nhịp năm của câu
“Ù ù như xay lúa”. Rồi lại có sự bất thường trong giai điệu “Lộp bộp/ Lộp bộp/ Rơi/
Rơi/ Đất trời/ Mù trắng nước/ Mưa chéo mặt sân/ Sủi bọt…”. Luật thơ không còn theo
lối thường mà là bản hòa âm giữa hài âm – nghịch âm, giữa độ cao trầm – bổng, giữa
âm sắc tắt – vang và trong – đục, cường độ nhanh – chậm, mạnh – nhẹ. Tất cả vẽ nên
hình ảnh những cơn gió lốc trước cơn mưa.
Ngoài ra, những âm điệu của vạn vật trong cơm mưa ấy còn là bản hùng ca về một thời
chiến tranh hào hùng: Muôn nghìn cây mía/ Múa gươm/. Kiến/ Hành quân/ Đầy
đường… Ông trời/ Mặc aó giáp đen/ Ra trận và cả sức mạnh của con người Việt Nam:
Bố em đi cày về/ Đội sấm/ Đội chớp/ Đội cả trời mưa…
Một tuyệt tác nhịp nữa trong tập thơ là bài “Mẹ ốm” với câu lục bát:
“Cả đời đi gió đi sương
Bây giờ mẹ lại vịn giường tập đi”
Từ thành ngữ gốc “đi gió về sương”, Trần Đăng Khoa đã sáng tạo, biến âm thành “đi
gió đi sương”. Việc thay đổi từ âm vực thấp của chữ “về” thành âm vực cao của chữ
16
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
- lOMoARcPSD|16911414
“đi” đã khiến âm hưởng câu lục trở nên xuyên suốt, nhẹ tênh. Câu thơ như thể muốn
nói rằng những lam lũ, cực nhọc đối với người mẹ là điều bình thường. Bà đã quen với
những điều ấy.
3.3. Ngôn ngữ mang tính hàm xúc cao.
Tập thơ “Góc sân và khoảng trời” tuy được viết khi tác giả còn rất trẻ. Song điều
đó không có nghĩa là thơ ca ông đơn giản. Thực tế, ẩn sâu trong những câu thơ giản
đơn lại là những xúc cảm, những nét cảm xúc rất hợp thời đại.
Trong bài “Bà và cháu”, với khổ thơ năm chữ, tác giả tái hiện hình ảnh người bà
đang ôm đứa cháu bé bỏng, lòng ngổn ngang suy nghĩ. Bà nhớ về lúc ông bị giặc
Pháp bắt, để lại “Cái vành tang cho bà”. Chúng còn “Sục sạo tìm du kích/ Giặc đốt
hết xóm làng” khiến ba Hương phải trốn đi, vượt qua Lục Đầu Giang.
Sau hòa bình, bố bé Hương trở về. Ngỡ tưởng gia đình đoàn tụ nhưng lúc này “Chỉ
vắng mẹ Hương thôi/ Bố ngồi trơ như đá”. Tác giả chẳng dùng từ ngữ nặng nề hay
nói trực tiếp nhưng lúc này người đọc chợt ngộ ra sự thật đau lòng ấy, không khí
như trầm hẳn xuống.
Đất nước lại có giặc, bố Hương lại sắp xếp lên đường. Quá nhiều mất mát nhưng
người bà vẫn “vui công việc”, “chả lúc nào ngơi tay”. Nào là đi thăm trận địa, nào
là đi trồng hàng cây. Bà còn nuôi bộ đội suốt bấy năm trời. Nhiều chú còn ghé
thăm và gửi thư cho bà. Nhưng rồi “Lâu nay, Hương không thấy/ Chú nào về thăm
đây”. Câu thơ khiến người đọc như rơi vào khoảng không. Liệu là như lời bà “Bà
bảo: Các chú bận/ Đánh Mỹ suốt đêm ngày” hay chính cái khốc liệt, nguy hiểm
rình rập đã khiến những người con ấy ngã xuống?
Bài thơ tưởng chừng là những kí ức riêng của người bà, của người cháu nhưng đó
còn là hiện thực đất nước những tháng năm chiến tranh ấy. Những đau xót do quân
giặc gây ra đã cướp đi những người con, người bố, người mẹ của biết bao gia đình.
Hình ảnh người bà còn là biểu tượng cho những bà mẹ Việt Nam anh hùng trên cả
nước, không ngừng hi sinh, cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
đất nước.
17
Downloaded by Nguynhavy Ha Vy (Ntkphuong205@gmail.com)
nguon tai.lieu . vn