Xem mẫu

  1. HỌC VIỆN NGOẠI GIAO KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ Tiểu Luận Kết Thúc Học Phần Học phần: CHÍNH TRỊ HỌC ĐẠI CƯƠNG ĐỀ TÀI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CHÍNH TRỊ VÀ KINH TẾ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY Giảng viên hướng dẫn: TS.Trần Thị Thu Huyền Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Nga Lớp/Khoa: CT47A2 – Khoa Chính trị quốc tế và Ngoại giao Mã sinh viên: CT47A1 – 0097 Hà Nội ngày 20 tháng 05 năm 2021 1
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ...................................................................................................................4 1.Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................4 2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ..................................................................5 2.1.Mục đích. .......................................................................................................5 2.2.Nhiệm vụ. ......................................................................................................5 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................5 3.1.Đối tượng nghiên cứu. ...................................................................................5 3.2.Phạm vị nghiên cứu. ......................................................................................5 4.Phương pháp nghiên cứu. .................................................................................6 5.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài.............................................................6 5.1.Ý nghĩa lý luận...............................................................................................6 5.2.Ý nghĩa thực tiễn ...........................................................................................6 NỘI DUNG ...............................................................................................................7 Phần 1. Phần lý luận .............................................................................................7 1.1.Khái niệm “ chính trị”....................................................................................7 1.2.Khái niệm “kinh tế” .......................................................................................7 1.3.Quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế. ..............................................8 1.4.Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa kinh tế và chính trị. ..............9 Phần 2. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới ( từ năm 1986).............................................................................................................10 2.1. Sơ lược về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của Việt Nam trước năm 1986. ..................................................................................................................10 2.2. Nhìn nhận về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới Việt Nam từ năm 1986 đến Đại hội XIII của Đảng. ..................................11 2.3.Thực tiễn về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị sau hơn 30 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng .............................................................................................13 Phần 3. Những phương hướng nhằm phát huy phù hợp với mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong xã hội Việt Nam hiện nay ..............................14 2
  3. KẾT LUẬN .............................................................................................................16 TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................17 3
  4. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Chính trị và kinh tế đều là những lĩnh vực quan trọng nhất, có tác động tích cực hoặc tiêu cực tới sự vận động của đời sống xã hội. Kinh tế là yếu tố quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của chính trị. Ngược lại, nếu chính trị không vững thì nền kinh tế khó có thể phát triển được. Do đó, cần thiết phải nhận thức đầy đủ về cả lý luận và cả những kinh nghiệm lịch sử về sự tác động qua lại của chính trị và kinh tế để có thể hiểu rõ hơn về mối quan hệ biện chứng này cũng như vai trò mà hai lĩnh vực này đã mang lại cho lĩnh vực còn lại. Trong suốt hơn 30 năm đổi mới, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị luôn được xác định như là mối quan hệ cơ bản và quan trọng hàng đầu tròn quá trình đổi mới đất nước, là nội dung quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước. Từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới (năm 1986), Đảng ta luôn chủ trương: “Đổi mới mạnh mẽ về kinh tế và giữ vững ổn định về chính trị”. Nhờ có sự tác động trở lại của chính trị với kinh tế và sự cần thiết “ưu tiên” chính trị so với kinh tế mà Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong suốt quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, ngày càng khẳng định được vị thế trên trường quốc tế, tiến gần hơn với mục tiêu trở thành một đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ý thức được tầm quan trọng của “Mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế trong công cuộc đổi mới”, sinh viên đã nghiên cứu và đưa ra những khái niệm có liên quan, các quan điểm của những nhà triết học đi trước, của Hồ Chí Minh về vấn đề này. Từ đó, với hi vọng rằng sẽ giúp mọi người có cái nhìn tổng quan và cụ thể hơn về mối quan hệ của hai lĩnh vực này trong quá trình đi lên CNXH của nước ta 4
  5. hiện nay, đồng thời cũng đề xuất một số phương hướng để đất nước ngày càng vững mạnh hơn. 2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 2.1.Mục đích. Phân tích thực chất mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, từ đó liên hệ đến mối quan hệ này trong thời kì quá độ lên CNXH của nước ta. 2.2.Nhiệm vụ. Để đạt được những vấn đề nghiên cứu đã nêu trên, bài tiểu luận cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau: Đầu tiên, tìm hiểu rõ về khái niệm của kinh tế và chính trị. Thứ hai, phân tích mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế trong công cuộc đổi mới và quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị Thứ ba, vận dụng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình phát triển đất nước, đi lên XHCN. Thứ tư, đề xuất một số giải pháp tăng cường vai trò, phát huy mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đảm bảo định hướng XHCN. 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1.Đối tượng nghiên cứu. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới. 3.2.Phạm vị nghiên cứu. 5
  6. Bài tiểu luận tập trung nghiên cứu về công cuộc đổi mới của đất nuước Việt Nam từ năm 1986 cho đến nay. 4.Phương pháp nghiên cứu. Bài tiểu luận sử dụng tổng hợp các phương pháp như: phương pháp logic được sử dụng trong kết cấu của bài luận; phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết trong quá trình tìm kiếm và tổng hợp tài liệu; phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm trong các nhiệm kỳ Đại hội Đảng 5.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài. 5.1.Ý nghĩa lý luận Bài tiểu luận góp phần làm rõ các vấn đề lý luận về kinh tế, chính trị và mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong quá trình đi lên CNXH. Đồng thời, giúp ta có nhìn nhận đúng đắn và chuyên sâu hơn về quan điểm của hai vấn đề này của thời kì trước, của chủ tịch Hồ Chí Minh. 5.2.Ý nghĩa thực tiễn Bài tiểu luận có thể là nguồn tài liệu tham khảo để tiếp tục đi sâu nghiên cứu về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công tác giảng dạy, làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, gợi mở hướng nghiên cứu để tiếp tục phát triển và cải thiện nền kinh tế nước nhà. Ngoài ra, bài tiểu luận góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị. Để có được một đất nước phát triển, phù hợp với ‘’ mục tiêu dân giàu, nước mạnh,…” thì Đảng ta cần tìm hiểu những mặt tích cực và hạn chế trong thời gian vừa qua, từ đó phát huy những điểm mạnh, sửa chữa những hạn chế để nền kinh tế đất nước ngày càng vững mạnh hơn. 6
  7. NỘI DUNG Phần 1. Phần lý luận 1.1.Khái niệm “ chính trị” Có nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế. Dưới góc độ sản xuất của cải vật chất phục vụ nhu cầu của con người vã xã hội, có thể hiểu: kinh tế là những hoạt động để tạo ra cơ sở vật chất cho con người và xã hội. Dưới góc độ quan hệ giữa con người với con người, quan hệ giữa các giai cấp trong xã hội về sở hữu tư liệu sản xuất, về tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm, có thể hiểu: kinh tế là tổng hợp những quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của một hình thái kinh tế - xã hội. “Kinh tế” là một phạm trù dùng để chỉ tổ hợp tất cả các quan hệ kinh tế (quan hệ giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất) của một xã hội ở thời điểm lịch sử xác định, để chỉ cơ sở kinh tế của xã hội. Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở, kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ nhằm tổng thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn. Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất các điều kiện sống của con người, các mối quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. 1.2.Khái niệm “kinh tế” Thuật ngữ ‘’chính trị’’ (politica) theo nguyên nghĩa tiếng Hy Lạp có nguồn gốc từ ‘’thành bang’’ (polis). Theo đó, chính trị là công việc nhà nước. ‘’Chính trị” theo nghĩa chung nhất được hiểu như hoạt động liên quan đến mối quan hệ giữa các nhóm xã hội lớn, trước hết là giữa các giai cấp, xét rộng hơn nữa là quan hệ giữa các dân tộc, giữa các quốc gia trên thế giới. Xét về thực chất, chính tri là quan 7
  8. hệ về lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc, trong đó trước hết và cơ bản là lợi ích kinh tế trong việc giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Ph.Ăngghen khẳng định, chính trị là sự thống trị của giai cấp này đối với các giai cấp khác trong xã hội, là việc một giai cấp hay liên minh giai cấp nào đó nắm quyền lực để cai trị các giai cấp khác, để lãnh đạo các lĩnh vực của đồi sống xã hội. Còn theo Leenin, trong chính trị vấn đề cốt lõi nhất là ‘’thiết chế quyền lực nhà nước’’. Các nhà khoa học Liên Xô đã đưa ra định nghĩa: ‘’Chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến mối quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia, các lực lượng xã hội xoay quanh vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, mà cơ bản nhất là quyền lực nhà nước. 1.3.Quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế. Theo C.Mác, kinh tế có vai trò hết sức to lớn đối với chính trị. Vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị được thể hiện rõ ở chỗ: Kinh tế tạo ra những cơ sở cho sự xuất hiện giai cấp và đối kháng giai cấp; kinh tế tạo ra điều kiện để hình thành các chính đảng của các giai cấp thông quan các cuộc đấ tranh giai cấp, đồng thời kinh tế còn là cơ sở cho sự ra đời của nhà nước… Do đó, khi nói về vai trò quyết định của kinh tế đối với những quan hệ chính trị, Ph.Ăngghen viết: “Tôi đã nhận thấy rất rõ ràng rằng những sự kiện kinh tế mà từ trước đến nay, những tác phẩm sử học cho là không đóng một vai trò nào, hoặc có chăng nữa thì chỉ đóng một vai trò thảm hại, thì ít nhất trong thế giới hiện đại, cũng đã là một lực lượng lịch sử quyết định”. Kế thừa tư tưởng cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen về quan hệ chính trị với kinh tế, Leenin cho rằng mối quan hệ này chính là nội dung tập trung cốt lõi của cơ sở hạ tầng với kiến trúc hạ tầng. Leenin đã khái quát bản chất mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị như sau: “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế’’, “Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại”. Trong quá trinh trực tiếp lãnh đạo sự 8
  9. nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới ở Liên Xô, V.I.Leenin cho rằng, phát triển LLSX, phát triển sản xuất là một trong những cơ sở, tiêu chí cơ bản để đánh gia sự tác động của chính trị đối với kinh tế. Sự phát triển và bổ sung của V.I.Leenin vào quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về vai trò của chính trị đối với kinh tế được thể hiện một cách rõ nét trong câu nói của Người: “Cội rễ sâu xa nhất của chính sách đối nội, cũng như chính sách đối ngoại của nhà nước chúng ta đều do lợi ích kinh tế, đại vị kinh tế của giai cấp thống trị ở nước ta quyết định”, “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”, “chính trị là kinh tế cô đọng lại”, “pháp quyền không bao giờ có thể cao hơn chế độ kinh tế” và “chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế” Chính trị phản ánh kinh tế nhưng không phải là sự phản ánh máy móc, không phải là bản sao thụ động kinh tế và cũng không phản ánh những nhu cầu có tính cá nhân; mà nó chỉ phản ánh những nhu cầu, lợi ích kinh tế của cộng đồng – xã hội và phản ánh tính tất yếu của các quy luật vận động kinh tế. 1.4.Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Nét chủ đạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Điểm đặc sắc trong tư duy kinh tế của Người là “không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhan dân’’, là “kinh tế phải gắn liền với chính trị’’, “kinh tế gắn liền với con người, với xã hội’’. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị được lồng ghép ngay trong những tư tưởng về những lĩnh vực cụ thể, trong những giai đoạn cụ thể. Theo Hồ Chí Minh, chính trị có vai trò rất quan trọng đối với phát triển kinh tế. Người nói: “Phải nhớ là chính trị đầu, chính trị tốt thì sản xuất mới tốt được”; 9
  10. “Muốn tiến bộ, nông nghiệp cũng như mọi việc khác phải lấy chính trị làm đầu, tư tưởng phải thông suốt từ trên xuống dưới, từ trong Đảng ra nhân dân’’ và “để cải tạo xã hội, một mặt phải cải tạo vật chất như tăng gia sản xuất, một mặt phải cải tạo tư tưởng. Nếu không có tư tưởng xã hội chủ nghĩa thì không làm việc xã hội chủ nghĩa được’’. Tiếp theo đó, Hồ Chí Minh đánh giá cao vai trò lãnh đạo của chính trị: “Tại sao nhân dân ta mấy nghìn năm lạc hậu, bị đàn áp bóc lột không làm sao đươc, mà nay cũng vẫn nhân dân Việt Nam lại làm cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi, xây dựng chủ nghĩa xã hội? Cũng là do có lãnh đạo, có chính trị. Đấy là điều rất rõ ràng, cho nên phải coi trọng công tác chính trị’’. Phần 2. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới ( từ năm 1986) 2.1. Sơ lược về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị của Việt Nam trước năm 1986. Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước ngày 30/4/1975, cả nước độc lập thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, bước vào thời kỳ khôi phục kinh tế. Trong giai đoạn này Đảng cũng vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình hình trên là nền kinh tế nước ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý kinh tế có nhiều hạn chế,…Nhưng những điểm bất hợp lý trong quan hệ sở hữu Đảng lại chưa chỉ ra. Ở miền Bắc, Đảng chủ trương củng cố và hoàn thiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức toàn dân và tập thể. Ở miền Nam, Đảng chủ trương tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế. Suy cho cùng thì quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhằm xóa bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế độ công hữu. Tuy nhiên, đây là mục tiêu rất lâu dài và phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phải nhằm phục vụ việc phát triển sản xuất. Điều này đã làm suy yếu đi một lực lượng sản xuất to lớn, lợi ích cá nhân không được coi trọng đúng mức hay như lời của một số nhà nghiên cứu: “ở nước ta 10
  11. trước đây (trước thời kỳ đổi mới), lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thê, sự vận động của nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động”. 2.2. Nhìn nhận về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới Việt Nam từ năm 1986 đến Đại hội XIII của Đảng. Rút kinh nghiệm từ những sai lầm của các thời trước, trong giai đoạn tiến hành công cuộc đổi mới (từ năm 1986) Đảng ta đã chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả về mặt thực tiễn. Tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (3-1998), Đảng ta cũng đã khẳng định và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị: “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi vối tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới”. Đại hội VI đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tạo ra bước đột phá lớn và toàn diện, đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội, làm xoay chuyển tình hình, đưa đất nước tiến lên. Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị được tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII. Trước những diễn biến phức tạp của thế giới, Đảng kịp thời khẳng định những vấn đề có tính nguyên tắc của công cuộc đổi mới, bảo đảm ổn định chính trị để thực hiện đổi mới có kết quả. Tại Đại hội này, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất 11
  12. nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Đại hội chỉ rõ: Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải tập trung sức làm tốt, đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mối trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của HTCT, phát huy ngày càng tốt hơn quyền làm chủ, năng lực sáng tạo của nhân dân trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị. Tại Đại hội VIII(1996), Đảng ta đã làm rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo trong thời kỳ quá độ, chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh công nghiêp hóa, hiện đại hóa đất nước là “phấn đấu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020”. Đảng ta cũng đã xác định trong giai đoạn hiện nay, việc “lãnh đạo kinh tế là nhiêm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, do đó, song song với việc lãnh đạo sự phát triển kinh tế cần “củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ,…Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao trình độ và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với HTCT và toàn xã hội”. Về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Đại hội chỉ rõ: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Đó là những quan điểm đúng đắn của Đảng ta phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của nhân dân lao động, những quan điểm này tiếp tục được khẳng định trong các kỳ Đại hội IX, X với mục tiêu: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.” Đại hội XI của Đảng đã đưa ra quan điểm về đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh 12
  13. tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương..”. Và tại Đại hội XII, Đảng ta đã coi mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong 9 mối quan hệ cơ bản của quá trình đổi mới. Tuy các mối quan hệ đó có nội dung, bản chất khác nhau nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tại Đại hội đã chỉ rõ ra những thành tựu đã đạt được trọng suốt 30 năm qua: tốc độ tawnng trưởng kinh tế nhanh, lạm phát được kiểm soát, tiềm lực quốc phòng an ninh tiếp tục được tăng cường,… Tiếp tục kế thừa và phát huy những điểm mạnh trong những năm vừa qua, tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta một lần nữa chứng tỏ đường lối đổi mới do Đại hội XII đề ra là đúng đắn, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp. Mặc dù trong năm 2020, đại dịch COVID-19 gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, song nhờ phát huy được sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị, đất nước ta đã từng bước kiểm soát có hiệu quả đại dịch, từng bước phục hồi sản xuất, kinh doanh và các hoạt động kinh tế - xã hội; ổn định đời sống nhân dân. Tại Đại hội, Tổng Bí thư nêu rõ: “Đảng ta tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.” 2.3.Thực tiễn về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị sau hơn 30 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Về kinh tế: Nhờ thực hiện chủ trườn “lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm”, tâp trung giải quyết những vấn đề cấp thiết của nhân dân về sản xuất và đời sống, 13
  14. giải phóng sức sản xuấ, hình thannhf và phát huy vai trò của hệ thống động lực,… nước ta đã thoát khỏi tình trạng trì trệ và khủng hoàng về kinh tế - xã hội vốn kéo dài nhiều năm; hơn thế, còn tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, ổn định và liên tục, mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia và tổ chức kinh tế quốc tế…tạo môi trường để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Về chính trị: việc đổi mới về thể chế, tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động được thực hiện đồng bộ trong các cơ quan Đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng dân chủ hóa; khắc phục và loại bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, hành chính, mệnh lệnh, xơ cứng, giáo điều, tách rời và cản trở sự phát triển của kinh tế. Đánh giá ảnh hưởng tích cực của đổi mới chính trị đối với kinh tế, Đảng ta khẳng định: “Những kết quả của đổi mới hệ thống chính trị, từ dodooir mới tư duy, chính sách, pháp luật đến tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước, tuy mới là bước đầu, song đã tạo nền tảng vững chắc cho đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh. Như vậy, với việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu, đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, chúng ta vừa thúc đẩy được nền kinh tế của đất nước phát triển thep quy luật khách quan, vừa tạo nên sự năng động, tích cực trong tư duy, tu tưởng và đời sống tinh thần nói chung của xã hội, làm cho con người được thực sự tự do và có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Phần 3. Những phương hướng nhằm phát huy phù hợp với mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị trong xã hội Việt Nam hiện nay Trong tình hình diễn biến thế giới ngày càng phức tạp, nạn dịch COVID-19 ngày càng căng thẳng, để thực hiện tốt được những chiến lược mà Đảng ta đã đề ra, phát huy tinh thần toàn dân tộc, đưa đất nước ngày càng một phát triển với chủ trường “dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh”, toàn Đảng, toàn dân 14
  15. ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây: Thứ nhất, Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường..., Thứ hai, Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thứ ba, cần tăng cường vai trò lãnh đạo chính trị đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình hội nhập. Đây là phương hướng chiến lược, lâu dài, có ý nghĩa quyết định và thành công. Thứ tư, cần phải đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập kinh tế có phẩm chất đạo đức trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng. Thứ năm, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Thứ sáu, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Thứ bảy, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. 15
  16. KẾT LUẬN Có thể nói, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là đại diện tiêu biểu cho mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị. Một đất nước có nền chính trị vững chắc khi có nền kinh tế phát triển và kinh tế muốn phát triển thì đòi hỏi phải có nền chính trị vững chắc. Qua đó, ta có thể thấy rõ vai trò quyết định của kinh tế với chính trị. “Nếu không có một lập trường chính trị đúng đắn thì một giai cấp nhất định nào đó sẽ không thể nào giữ vững được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong sản xuất”. (Lenin) Để phát huy hết thế mạnh về mối quan hệ tác động qua lại giữa kinh tế và chính trị, quá trình thực hiện Đổi mới từ năm 1986 đến nay, thông qua các kì Đại hội, Đảng ta đã đề ra những đường lối, chính sách, bước đi đúng đắn giúp đất nước ta ngày càng phát triển, tiến dần CNXH, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN. Qua nghiên cứu, sinh viên đã đưa ra vai trò của chính trị đối với kinh tế và ngược lại, nhằm khẳng định được mối quan hệ của hai lĩnh vực này. Đồng thời cũng đã đưa ra một số phương hướng với mục đích giúp cho nền kinh tế nước nhà ngày càng phát triển, khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. 16
  17. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng việt 1. Giáo trình Chính trị học đại cương ( PGS.TS.Nguyễn Văn Vĩnh – PGS.TS Lê Văn Đính, NXB giáo dục Việt Nam, 2015). 2. Đảng Cộng sản Việt Nam – Ban Chấp hành Trung ương, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua hai mươi năm đổi mới (1986 - 2006) , NXB Chính trị quốc gia. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Chính trị quốc gia. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia. 6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia. 7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia. 8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị quốc gia. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia. 10. Tạp chí Triết học, số 1(101), tháng 2-1998. 11. V.I.Lê-nin: Toàn tập, NXB.Tiến Bộ, Mát-xco-va,1977 17
  18. Tài liệu trực tuyến 1. Báo điện tử Cộng sản Việt Nam, 2020. http://truongchinhtrina.gov.vn/tin-tuc-99/ve-moi-quan-he-giua-kinh-te-va-chinh- tri-trong-quan-diem-cua-2144 2. Lê Huy Nam (2020), “Nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.” ,Tuyên giáo. http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/nhan-thuc-va-giai-quyet-moi-quan-he- giua-doi-moi-kinh-te-va-doi-moi-chinh-tri-129865 18
nguon tai.lieu . vn