Xem mẫu

  1. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1.......................................................................................................... 3 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ .......... 3 1.1. Khái niệm ..................................................................................................... 3 1.2. Nội dung và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế ................................. 3 1.2.1. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế .............................................. 3 1.2.2. Nội dung của hội nhập .......................................................................... 3 1.3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam ............................... 3 CHƢƠNG 2.......................................................................................................... 5 QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ CHÍNH SÁCH VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM ............................................................................. 5 2.1. Quan điểm, mục tiêu của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế ....................... 5 2.1.1. Quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế ................................ 5 2.1.2. Mục tiêu của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế .................................... 5 2.2. Những chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế .............................................................................................. 5 CHƢƠNG 3.......................................................................................................... 7 CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ............................................................................................................. 7 3.1. Cơ hội của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế .................................. 7 3.1.1. Mở rộng thị trường xuất khẩu Việt Nam ............................................... 7 3.1.2. Tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức ........... 7 3.1.3. Đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, giúp đào tạo cán bộ quản lý và kinh doanh ..................................................................................................... 9 3.1.4. Duy trì hoà bình ổn định, tạo điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ................................................................ 9 3.1.5. Tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta với các nước .... 10 3.2. Thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế ......................... 10 3.2.1. Môi trường kinh doanh đầu tư ở Việt Nam nhìn chung còn chưa thuận lợi, còn nhiều khó khăn .................................................................................... 10 3.2.2. Nguồn nhân lực dồi dào nhưng tay nghề kém, lợi thế về lao động rẻ có xu hướng mất dần............................................................................................. 11 3.2.3. Thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng giảm ....................................... 11 Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01
  2. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế 3.2.4. Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ hàng nước ngoài ................... 11 3.2.5. Việt Nam trở thành bãi thải công nghệ ............................................... 12 3.2.6. Chảy máu chất xám ............................................................................. 14 3.2.7. Tỷ lệ đói nghèo cao, chênh lệch thu nhập tăng ................................... 15 3.2.8. Môi trường ngày càng bị ô nhiễm ....................................................... 16 3.2.9. Đặt ra những yêu cầu về gìn giữ độc lập – an ninh – chủ quyền và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc ............................................................................ 16 Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01
  3. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế LỜI NÓI ĐẦU Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản suất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thống nhất. Sự hợp nhất về kinh tế giữa các quốc gia tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế chính trị của các nước nói riêng và của thế giới nói chung. Đó là sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế có nhiều sự thay đổi. Theo xu thế chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là một mục tiêu nhiệm vụ nhất thời mà là vấn đề mang tính chất sống còn đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay cũng như sau này. Bởi một nước mà đi ngược với xu hướng chung của thời đại sẽ trở nên lạc hậu và bị cô lập, sớm hay muộn nước đó sẽ bị loại bỏ trên đấu trường quốc tế. Hơn thế nữa, một nước đang phát triển, lại vừa trải qua chiến tranh tàn khốc, ác liệt...thì việc chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới thì lại càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong quá trình hội nhập, với nội lực dồi dào sẵn có cùng với ngoại lực sẽ tạo ra thời cơ phát triển kinh tế. Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, thu hút được vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu được khoa học công nghệ tiên tiến, những kinh nghiệm quý báu của các nước kinh tế phát triển và tạo được môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt đối lập. Hội nhập kinh tế quốc tế mang đến cho Việt Nam rất nhiều thời cơ thuận lợi nhưng cũng đem lại không ít khó khăn thử thách. Nhưng theo chủ trương của Đảng: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước “, chúng ta sẽ khắc phục những khó khăn để hoàn thành sứ mệnh. Hội nhập kinh tế quốc tế là tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Em xin chọn đề tài: “Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập quốc tế”. Đây là đề tài rất sâu rộng, tuy đã được trao đổi, bàn luận nhiều trên các phương tiện truyền thông đại chúng, các bài giảng nhưng vẫn luôn mang tính thời sự cao. Đông thời cũng đã có rất nhiều nhà kinh tế đề cập đến vấn đề này. Bản thân em cán bộ quản lí trường tiểu học thuộc quận Liên Chiểu tham gia lớp Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 1
  4. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế học cao học tại trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, khi được chọn đề tài để viết thì vấn đề hội nhập quốc tế vẫn mang lại cho em nhiều cảm hứng và say mê. Tuy nhiên do sự hiểu biết còn hạn chế nên em chỉ xin đóng góp một phần nhỏ suy nghĩ của mình vào chủ đề rất lớn này. Bài viết còn có rất nhiều sai sót, em kính mong cô giúp đỡ em hoàn thành bài viết tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 2
  5. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 1.1. Khái niệm Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn bó một cách hữu cơ nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới góp phần khai thác các nguồn lực bên trong một cách có hiệu quả. 1.2. Nội dung và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế 1.2.1. Nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế Bất kì một quốc gia nào khi tham gia vào các tổ chức kinh tế trong khu vực cũng như trên thế giới đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc của các tổ chức đó nói riêng và nguyên tắc của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung. Sau đây là một số nguyên tắc cơ bản của hội nhập: - Không phân biệt đối xử giữa các quốc gia. - Tiếp cận thị trường các nước, cạnh tranh công bằng. - Dành ưu đãi cho các nước đang và chậm phát triển. Tuy nhiên, đối với từng tổ chức có các nguyên tắc cụ thể riêng biệt. 1.2.2. Nội dung của hội nhập Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường cho nhau, thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư. 1.2.2.1. Về thương mại hàng hoá Các nước cam kết bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như quota, giấy phép xuất khẩu…, biểu thuế nhập khẩu được giữ hiện hành và giảm dần theo lịch trình thoả thuận… 1.2.2.2. Về thương mại dịch vụ Các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả bốn phương thức: cung cấp qua biên giới, sử dụng dịch vụ ngoài lãnh thổ, thông qua liên doanh, hiện diện. 1.2.2.3. Về thị trường đầu tư Không áp dụng đối với đầu tư nước ngoài yêu cầu về tỉ lệ nội địa hoá, cân bằng xuất nhập khẩu và hạn chế tiếp cận nguồn ngoại tệ, khuyến khích tự do hoá đầu tư… 1.3. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là một trong những vẫn đề thời sự đối với hầu hết các nước. Nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế chung của thời đại, khó tránh khỏi rơi vào lạc Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 3
  6. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hậu. Trái lại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tuy có phải trả giá nhất định song đó là yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển của mỗi nước. Bởi với những tiến bộ trên lĩnh vực khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ truyền thông và tin học, thì giữa các quốc gia ngày càng có mối liên kết chặt chẽ, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Xu hướng toàn cầu hoá được thể hiện rõ ở sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế thế giới. Về thương mại: trao đổi buôn bán trên thị trường thế giới ngày càng gia tăng. Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, giá trị trao đổi buôn bán trên thị trường toàn cầu đã tăng 12 lần. Cơ cấu kinh tế có sự thay đổi đáng kể. Công nghiệp nhường chỗ cho dịch vụ. Về tài chính: số lượng vốn trên thị trường chứng khoán thế giới đã tăng gấp 3 lần trong 10 năm qua. Sự ra đời và ngày càng lớn mạnh của các tổ chức kinh tế quốc tế là một phần của quốc tế hoá. Nó góp phần thúc đẩy nền kinh tế của các nước phát triển mạnh hơn nữa. Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hoá các nước giàu luôn có những lợi thế về lực lượng vật chất và kinh nghiệm quản lý. Còn các nước nghèo có nền kinh tế yếu kém dễ bị thua thiệt, thường phải trả giá đắt trong quá trình hội nhập. Là một nước nghèo trên thế giới, sau mấy chục năm bị chiến tranh tàn phá, Việt Nam bắt đầu thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế tự túc nghèo nàn bắt đầu mở cửa tiếp xúc với nền kinh tế thị trường rộng lớn đầy rẫy những sức ép, khó khăn. Nhưng không vì thế mà chúng ta bỏ cuộc. Trái lại, đứng trước xu thế phát triển tất yếu, nhận thức được những cơ hội và thách thức mà hội nhập đem lại, Việt Nam, một bộ phận của cộng đồng quốc tế không thể khước từ hội nhập. Chỉ có hội nhập Việt Nam mới khai thác hết những nội lực sẵn có của mình để tạo ra những thuận lợi phát triển kinh tế. Chính vì vậy mà đại hội Đảng VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1991 đã đề ra đường lối chiến lược: “ Thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại”. Đến đại hội đảng VIII, nghị quyết Trung Ương IV đã đề ra nhiệm vụ: ” giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mới, hội nhập với khu vực và thế giới”. Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 4
  7. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế CHƢƠNG 2 QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ CHÍNH SÁCH VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 2.1. Quan điểm, mục tiêu của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế 2.1.1. Quan điểm của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế Nhận thức được xu thế và yêu cầu chung về toàn cầu hoá của thời đại, đại hội VI của Đảng (12/1996) trong khi ký quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cũng đồng thời chủ trương Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao đông quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học kĩ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Trong nghị quyết 07, Bộ Chính trị đã nêu ra quan điểm chỉ đạo về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế: - Quán triệt chủ trương được xác định tại đại hội Đảng IX: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. - Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp toàn dân, quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh; vừa đề phòng tư tưởng thụ động vừa phải chống tư tưởng đơn giản, nôn nóng... - Đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý phù hợp với trình độ phát triển của đất nước 2.1.2. Mục tiêu của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo định hướng XHCN Thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, trước mắt là thực hiện kế hoạch nhiệm vụ đưa ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 – 2010 và kế hoạch 5 năm 2001 – 2005”. 2.2. Những chính sách của Đảng và Nhà nƣớc nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 5
  8. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế Để thực hiện những mục tiêu theo những quan điểm trên, chính phủ đã ban hành những chính sách nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập. - Nhà nước ban hành hệ thống luật đồng bộ bao gồm: luật đầu tư, luật lao động, luật thương mại, luật ngân hàng, luật hải quan, luật bưu chính viễn thông, luật xây dựng, luật khoa học công nghệ, luật tài nguyên...Sửa đổi và bổ sung pháp luật và pháp lệnh hiện hành về thuế, khuyến khích đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam...Cải tiến việc ban hành văn bản pháp luật... - Đối với những chính sách: Nhà nước ban hành chính sách thương mại, tài chính, tiền tệ, đầu tư...để kích thích mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp...tạo điều kiện cho nước ta hội nhập kinh tế quốc tế. Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 6
  9. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế CHƢƠNG 3 CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ 3.1. Cơ hội của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế Tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển một cách nhanh chóng. Những cơ hội của hội nhập đem lại mà Việt Nam tận dụng được một cách triệt để sẽ làm bàn đạp để nền kinh tế sớm sánh vai với các cường quốc năm châu. 3.1.1. Mở rộng thị trường xuất khẩu Việt Nam Nội dung của hội nhập là mở cửa thị trường cho nhau. Vì vậy, khi Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng ưu đãi về thuế quan, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Tính đến hết ngày 30/11/2011, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đat 183,53 t USD, tăng 30,4 so với kết quả thực hiện của cùng kỳ năm trước, trong đó tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 87,36 t USD, tăng 35 . Bên cạnh đó, cơ cấu đối tác xuất khẩu của Việt Nam có sự điều chỉnh lớn. Thứ nhất là việc tiếp cận sâu hơn đối với các thị trường mới ở khu vực châu Phi. Thứ hai là cân bằng hơn đối với các đối tác thương mại chính. Trong năm 2011, mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu vào châu Phi của Việt Nam mới ở mức khoảng 3,1 t USD, nhưng tốc độ tăng trưởng đã lên tới 131%, riêng Nam Phi tăng 250 . NewZealand cũng nằm trong số các thị trường xuất khẩu mới của Việt Nam, có mức tăng trưởng kim ngạch khá cao, tới 29 . Trong khi đó, tất cả các thị trường xuất khẩu chủ lực của ta đều ghi nhận mức tăng trưởng kim ngạch cao hơn bình quân chung. Các ví dụ điển hình là xuất khẩu vào Hàn Quốc tăng tới 64 trong khi nhập khẩu tăng 34 ; sang Trung Quốc tăng 58 trong khi chiều ngược lại tăng 21 ; Nhật Bản tăng 37 và 14 ; liên minh châu Âu là 48% và 18%. 3.1.2. Tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức 3.1.2.1. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở rộng, điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào nước ta, sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của nước ta làm ra sản phẩm tiêu thụ trên thị trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 7
  10. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế rộng thị trường, kéo theo cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn. 3.1.2.2. Viện trợ phát triển chính thức (ODA) Tính đến cuối năm 2010, các nhà tài trợ đã cam kết cung cấp ODA cho Việt Nam trên 64 t USD. Những năm gần đây, lượng vốn ODA cam kết năm sau đều cao hơn năm trước, lên tới khoảng 8 t USD mỗi năm, thể hiện sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào khả năng phát triển (và trả nợ) của Việt Nam. Số liệu Bộ Kế hoạch – Đầu tư (KH-ĐT) cho thấy trong 5 năm 2006-2010, tổng số vốn ODA cam kết cho Việt Nam đạt 31,7 t USD, tăng 21,5 so với giai đoạn 5 năm trước đó. Các chương trình, dự án tài trợ được ký kết trong thời kỳ 2006- 2010 cũng đạt 20,1 t USD, tăng 17,9 so với 5 năm trước. Vốn giải ngân được trong thời kỳ này đạt 13,8 t USD, tăng 17 so với giai đoạn trước đó. 3.1.2.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Chỉ tiêu Đơn vị tính Số vốn So với cùng kì năm 2010 Vốn thực hiện Triệu USD 5,3 98,1 Vốn đăng kí Triệu USD 5,6 51,9 + Cấp mới Triệu USD 4,3 50,1 + Tăng vốn Triệu USD 1,26 105,3 Bảng 3.1: Vốn thực hiện và vốn đăng kí so với cùng kì năm 2010 Tuy nhiên, các đối tác đầu tư lớn của Việt Nam vẫn chủ yếu là các nước ở khu vực Châu Á. STT Đối tác vốn Vốn (triệu USD) 1 Singaphore 1.325 2 Hàn Quốc 673 3 Hồng Kồng 631 4 Nhật Bản 466 5 Malaysia 419 6 Vương quốc Anh 329 7 Quần đảo Virgin ( thuộc Anh) 291 8 Samoa 252 9 Thụy Sĩ 247 10 Đài Loan 238 Bảng 3.2: Danh sách 10 nhà đầu tư FDI lớn nhất 6 tháng đầu 2011 Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 8
  11. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế 3.1.3. Đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ, giúp đào tạo cán bộ quản lý và kinh doanh Việt Nam gia nhập kinh tế quốc tế sẽ tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá, tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để khai thông thị trường nước ta với khu vực và thế giới, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn và có hiệu quả. Qua đó mà các kỹ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào nước ta, đồng thời tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn kỹ thuật, công nghệ nước ngoài nhằm phát triển năng lực kỹ thuật, công nghệ quốc gia. Trong cạnh tranh quốc tế có thể công nghệ này là cũ đối với một số nước phát triển, nhưng lại là mới, có hiệu quả tại một nước đang phát triển như Việt Nam. Do yêu cầu sử dụng lao động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo nên nhiều việc làm mới. Trong những năm qua, cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, nhất là công nghệ thông tin và viễn thông phát triển mạnh làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận và phát triển mới này. Sự xuất hiện và đi vào hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng…và những xí nghiệp liên doanh trong ngành công nghệ dầu khí đã chứng minh điều đó. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học kĩ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo ở trong và ngoài nước. Bởi mỗi khi liên doanh hay liên kết hay được đầu tư từ nước ngoài thì từ người lao động đến các nhà quản ký đều được đào tạo tay nghề, trình độ chuyên môn được nâng cao. Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, theo số liệu tổng kết của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, năm 2010, cả nước đưa được 85.546 lao động đi làm việc ở nước ngoài, đạt 100,64 kế hoạch, tăng 16,4 so với năm 2009. 3.1.4. Duy trì hoà bình ổn định, tạo điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế Đây là thành tựu lớn nhất sau hơn một thập niên triển khai các hoạt động hội nhập. Trước đây, Việt Nam chỉ có quan hệ chủ yếu với Liên Xô và các nước Đông Âu, nay đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 166 quốc gia trên thế giới. Với chủ trương coi trọng các mối quan hệ với các nước láng giềng và trong khu vực Châu á Thái Bình Dương. Chúng ta đã bình thường hoá hoàn toàn quan Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 9
  12. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hệ với Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực Đông Nam á. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng môi trường quốc tế hoà bình, ổn định nhằm tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Ngoài ra đối với Mĩ chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1955. Tháng 7 Việt Nam, Mĩ đã kí kết hiệp định thương mại, đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình bình thường hoá nối quan hệ kinh tế giữa hai nước.. 3.1.5. Tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực nước ta với các nước Với dân số khoảng 80 triệu người, nguồn nhân lực nước ta khá dồi dào. Nhưng nếu chúng ta không hội nhập quốc tế thì việc sử dụng nhân lực trong nước sẽ bị lãng phí và kém hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội để 10 nguồn nhân lực của nước ta khai thông, giao lưu với các nước. Ta có thể thông qua hội nhập để xuất khẩu lao động hoặc có thể sử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời tạo cơ hội để nhập khẩu lao động kĩ thuật cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có. Những thành tựu đó đã góp phần tạo dựng và duy trì môi trường hòa bình, ổn định thuận lợi cho phát triển, đồng thời đóng góp trực tiếp vào quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước. Hội nhập đã tranh thủ nguồn lực bên ngoài rất quan trọng cho công cuộc xây đựng đất nước. Đồng thời, việc chúng ta tham gia tích cực vào việc giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế, đóng góp vào quá trình xây dựng luật lệ và các chuẩn mực quốc tế đã và đang góp phần bảo đảm hòa bình và an ninh cho chính mình. 3.2. Thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế Mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đưa lại những lợi ích mà còn đặt nước ta trước nhiều thử thách. Nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt thì sự thua thiệt về kinh tế và xã hội có thể rất lớn. Ngược lại, nếu chúng ta có chiến lược thông minh, chính sách không khéo thì sẽ hạn chế được thua thiệt, dành được lợi ích nhiều hơn cho đất nước. 3.2.1. Môi trường kinh doanh đầu tư ở Việt Nam nhìn chung còn chưa thuận lợi, còn nhiều khó khăn Khuôn khổ pháp lý chưa đảm bảo cho cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, sự độc quyền trong một số lĩnh vực của một số tổng công ty nhà nước, hệ thống tài chính ngân hàng còn yếu kém, sự thiếu minh bạch về cơ chế chính sách, chế độ thương mại còn nặng về bảo hộ, thủ tục hành chính còn Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 10
  13. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế rườm rà, chưa thông thoáng. Các thể chế thị trường như thị trường vốn, sức lao động, thị trường công nghệ, thị trường bất động sản…còn sơ khai, chưa hình thành đồng bộ. 3.2.2. Nguồn nhân lực dồi dào nhưng tay nghề kém, lợi thế về lao động rẻ có xu hướng mất dần Trước mắt, do giá nhân công còn rẻ và đang có thị trường rộng lớn nên ngành may mặc và giầy da là hai ngành có lợi thế cạnh tranh cao nhất trong nhóm năm sản phẩm công nghiệp có khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên lợi thế về nhân công rẻ đang mất dần và giá nhân công các ngành này hiện đang cao hơn một số nước trong khu vực. Hơn thế nữa, để đào tạo nghề, nâng cao kĩ năng, trình độ tay nghề cần phải chi phí đầu tư lớn, điều này sẽ làm cho giá thành sản phẩm tăng lên, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hoá. 3.2.3. Thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng giảm Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, tính đến ngày 15/12/2011, vốn đăng ký mới và tăng thêm tại Việt Nam đạt 14,7 t USD chỉ bằng 74 so với năm 2010, đây là năm thứ ba liên tiếp thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam sụt giảm. Trong đó, vốn thực hiện ước đạt 11 t USD, bằng với mức thực hiện của năm ngoái và đóng góp 25,9 tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Ngoài ra, các dự án đầu tư nước ngoài đã giải ngân được 2,52 t USD trong 3 tháng đầu năm 2012, bằng 99,2 với cùng kỳ năm 2011. Về thu hút vốn đăng ký, tính đến ngày 20/3, cả nước đã có 120 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký 2,26 t USD, bằng 77,2 so với cùng kỳ năm 2011. Theo các chuyên gia kinh tế, sự sụt giảm dòng vốn FDI trên được đánh giá là có phạm vi ảnh hưởng trên toàn cầu chứ không riêng tại Việt Nam. Bởi trước hết, chính là sự khó khăn của các nhà đầu tư nước ngoài, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế ngày càng lan rộng ở nhiều quốc gia. Về những nguyên nhân nội tại, các điều kiện để thu hút nguồn vốn đầu tư này vẫn còn tắc nghẽn ở một số khâu như: hạ tầng, cơ sở vật chất phục, chất lượng nguồn nhân lực vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của các nhà thầu quốc tế. Ngoài ra, trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ cũng đang có nhiều chính sách thu hẹp dần các chính sách ưu đãi dành cho các nhà đầu tư nước ngoài. 3.2.4. Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ hàng nước ngoài Hội nhập kinh tế thế giới cho phép mở rộng thị trường, trong khi đó, khả năng mở rộng thị trường hàng hóa của nước ta ra khu vực và thế giới còn hạn chế và phải đối đầu, cạnh tranh gay gắt với các nước có trình độ phát triển cao Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 11
  14. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hơn ở khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là với các nước ASEAN và Trung Quốc. Hơn nữa, những sản phẩm hàng hóa của ta phần lớn đồng dạng với các quốc gia này. Phải nói rằng trong hội nhập, hàng hoá của Việt Nam rất khó mở rộng chiếm lĩnh được thị trường mà ngược lại chúng ta trở thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của các nước. Theo số liệu của Tổng cục hải quan, trong năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm qua đạt trên 96,26 t USD, tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 105,77 t USD, với kết quả này, nhập siêu cả năm là 9,51 t USD. Công nghiệp chủ yếu là gia công, phần lớn sản phẩm các ngành được sản xuất ra trên cơ sở tiêu thụ các nguyên phụ liệu, linh kiện, chi tiết, bán sản phẩm của các nước. Do thiếu các ngành công nghiệp phụ trợ nên đa số các công ty làm hàng xuất khẩu đều phải nhập khẩu nguyên liệu. Vì vậy hàm lượng nội địa Việt Namtrong hàng xuất khẩu rất thấp. Có thể nói chính sách nội địa hóa của ta chưa thỏa đáng. Chính sách đó ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển các ngành liên quan và hỗ trợ, các ngành này phát triển rất ít và rất chậm trong thời gian qua và phải nhập phụ tùng linh kiện từ bên ngoài, do đó làm tăng giá thành sản phẩm, làm cho sản phẩm của Việt Nam đắt hơn các nước trong khu vực, giảm khả năng cạnh tranh. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế trong hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế của Việt Nam, chi phí sản xuất đều rất cao. Giá cả sản phẩm công nghiệp “đầu vào” nguyên liệu, vật tư, điện, nước, chất đốt, xăng dầu cho sản xuất còn cao, chi phí cơ sơ hạ tầng, dịch vụ của Việt Nam cao đưa đến giá thành nhiều sản phẩm Việt Nam cao hơn giá thị trường quốc tế, cao hơn các đối thủ cạnh tranh, dẫn tới không xuất khẩu được hoặc phải chịu lỗ. 3.2.5. Việt Nam trở thành bãi thải công nghệ Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa theo chiều hướng là các nước công nghiệp phát triển sẽ chiếm giữ quyền độc tôn sản xuất và làm chủ các sản phẩm công nghệ kỹ thuật cao, các nước đang phát triển sẽ chịu lép vế, sản xuất các mặt hàng chiếm nhiều lao động, giá trị thấp, tốn nhiều nguyên liệu hơn. Các nước công nghiệp phát triển sẽ tìm cách chuyển giao toàn bộ những công nghệ cũ, lạc hậu, gây ô nhiễm sang các nước đang phát triển, những công nghệ này phù hợp với tiềm năng kinh tế và nhân lực của các nước đang phát triển. Mặt khác, do giá trị tiền công cao và ô nhiễm nên một số sản phẩm và công nghệ không cần giữ bí mật, tốn nhiều lao động và ô nhiễm môi trường được chuyển giao cho các nước có giá lao động rẻ hơn, đó là việc mà Hàn Quốc, Nhật, Mỹ, Đức… đang làm với các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 12
  15. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế Thực tiễn trong khu vực thu hút đầu tư FDI của nhiều nước trên thế giới cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài chỉ chuyển sang nước nhận đầu tư các máy móc thiết bị và công nghệ thế hệ thứ hai và thứ ba. Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển đang lo ngại bị biến thành bãi thải công nghệ cho các nước phát triển, đặc biệt là những thiết bị đã qua sử dụng. Một nghiên cứu mới đây về chất lượng công nghệ chuyển giao vào Việt Nam cho thấy, trên 727 thiết bị và 3 dây chuyền sản xuất nhập khẩu trong 42 xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì có 76 thiết bị được sản xuất từ những năm 1950-1960, 50 là các máy móc đã qua sử dụng. Những con số đó cho thấy chất lượng thấp của công nghệ nhập khẩu. Mặt bằng chung về trình độ công nghệ và trang thiết bị của Việt Nam lạc hậu từ 2-3 thế hệ so với các nước công nghiệp phát triển, t lệ trang thiết bị kỹ thuật cũ, công nghệ lạc hậu và trung bình chiếm 60-70%. Lợi ích của khoa học công nghệ ngày càng nổi lên là một trong những yếu tố có tính chất quan trọng nhất ảnh hưởng đên khả năng cạnh tranh của sản phẩm, tác động đến triển vọng tăng trưởng. Đầu tư cho nghiên cứu khoa học công nghiệp và nông nghiệp đem lại hiệu quả rất lớn. Ở Việt Nam, đầu tư cho khoa học công nghệ đã tác động đến tăng trưởng kinh tế. Thực vậy nghiên cứu triển khai nông nghiệp đã đem lại lãi gấp chục lần từ phát triển nông nghiệp (chẳng hạn trong nông nghiệp từ 20-40 tăng trưởng nông nghiệp ở các nước châu Á.). Trong giai đoạn 1985-1989 dựa vào công nghệ có sẵn từ trước chưa được khai thác đã đóng góp lớn cho phát triển nông nghiệp, chiếm đến 55,5 phần tăng sản lượng nông nghiệp. Trong giai đoạn 1990-1999, công nghệ không thêm gì nhiều nên công nghệ chỉ góp thêm 5,4 phần tăng sản lượng nông nghiệp. Theo Viện chính sách lương thực quốc tế, trong giai đoạn 1985-1990 tác động của khoa học công nghệ đóng góp gần 63 mức tăng sản lượng lúa của Việt Nam. Trong giai đoạn 1991-1995, phần đóng góp của khoa học công nghệ trong mức tăng sản lượng lúa giảm xuống 29,2 , trong giai đoạn 1996-2000 chỉ còn 22,8 . Tuy nhiên đầu tư cho nghiên cứu khoa học nông nghiệp ở nước ta ngày càng ít ỏi. Trong ngành công nghiệp, theo đánh giá của Quỹ phát triển tự động hóa quốc gia thuộc Bộ công nghiệp, đổi mới công nghệ đã đóng góp khoảng 30-40 tăng trưởng GDP toàn ngành. Tuy vậy, việc đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp hiện còn rất chậm.Mức đóng góp của khoa học công nghệ ngày càng giảm thể hiện rõ sự đầu tư yếu kém cho khoa học công nghệ nước ta. Đầu tư cho khoa học công nghệ và đầu tư đổi mới công nghệ của Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 13
  16. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế các doanh nghiệp Việt Nam rất thấp, chi phí đổi mới công nghệ chỉ khoảng 0,2- 0,3 doanh thu, trong khi ở Ấn Độ là 5 , Hàn Quốc là 10 . Ngân sách nhà nước dành cho khoa học công nghệ năm 2002 khoảng 3.000 t đồng, chiếm 2 tổng ngân sách nhà nước, t lệ khá nhỏ. Cần phải tập trung cho khoa học công nghệ, coi khoa học công nghệ là một mũi đột phá trong phát triển kinh tế, đầu tư cho khoa học là hướng rút ngắn cho giai đoạn phát triển theo chiều sâu. Xã hội hóa hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, xóa bỏ bao cấp trong lĩnh vực khoa học công nghệ không có nghĩa là nhà nước không đầu tư vào khoa học công nghệ, nhà nước cần tăng đầu tư vào những lĩnh vực, những hướng ưu tiên, đừng để cho cơ chế thị trường chi phối 100 hoạt động khoa học công nghệ. Trước mắt cần tăng ngân sách đầu tư cho khoa học công nghệ, nâng t lệ chi ngân sách cho khoa học công nghệ lên trên 5-10 tổng chi ngân sách, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. 3.2.6. Chảy máu chất xám Việt Nam thiếu trầm trọng nguồn lao động chuyên môn kỹ thuật, t lệ người có chuyên môn kỹ thuật trong tổng dân số từ 15 tuổi trở lên đạt 8,1 năm 2000 là rất thấp (ở các nước trong khu vực là 49-50 ), 9,5 số người trong độ tuổi lao động và 11,7 lực lượng lao động. Năm 2001, lao động không có chuyên môn kỹ thuật chiếm đến 26,7 lao động. Đây là một tồn tại và thách thức lớn đối với nước ta. Song chúng ta có một tiềm năng lớn nguồn chất xám. Cụ thể là, lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật từ đại học trở lên của Việt Nam đến cuối năm 2002 là 1.300.000 người, trong đó tiến sĩ chiếm 10 , tập trung nhiều nhất ở Hà Nội 19,2 , TP.Hồ Chí Minh 14 . Việt Nam có khoảng 300.000 Việt kiều có trình độ đại học trở lên, trong đó có rất nhiều nhà khoa học hàng đầu trong nhiều lĩnh vực là người gốc Việt đang làm việc trong những tập đoàn kinh tế lớn của thế giới. Hiện có khoảng 10.000 học sinh sinh viên Việt Nam học tập ở nước ngoài, hàng năm chi tiêu cho sinh hoạt và học tập mất khoảng 200 triệu USD. Việt Nam đã không khai thác được nguồn chất xám đó do cơ chế chính sách còn nhiều điều bất cập (lương, điều kiện làm việc, đòi hỏi khoa học đáp ứng ngay yêu cầu của thực tiễn, nhà khoa học bị cơ chế hành chính trói buộc, thủ tục thanh quyết toán…). Các công ty nước ngoài tại Việt Nam đã đa dạng hóa phương thức thu hút nhân tài: trao học bổng hỗ trợ sinh viên năm cuối, đào tạo nghề miễn phí, tuyển chọn các sinh viên giỏi gửi đi đào tạo thêm ở nước ngoài. Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 14
  17. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế Cán bộ khoa học kỹ thuật chạy từ cơ quan nhà nước sang các cơ quan nước ngoài, các sinh viên tốt nghiệp giỏi là nguồn tuyển dụng của các công ty nước ngoài, trí thức Việt kiều không về nước làm việc, học sinh đi học nước ngoài học xong ở lại nước sở tại làm việc không về nước. Hiện tượng chảy máu chất xám là rõ ràng. Nhà nước cần điều chỉnh chính sách theo hướng tạo những điều kiện làm việc thuận lợi cho các nhà khoa học, tạo chỗ ở cho gia đình, học tập cho con cái và chăm sóc y tế, phương tiện đi lại làm việc nghĩa là cần có một chính sách xã hội tiến bộ (như một số nước châu Âu) và có chế độ lương tương xứng, bên cạnh đó cần có những biện pháp chống tham nhũng, chống làm giàu từ đất đai và buôn lậu. 3.2.7. Tỷ lệ đói nghèo cao, chênh lệch thu nhập tăng Mặc dù t lệ hộ nghèo tại Việt Nam đã giảm từ trên 70 vào giữa thập niên 1980, còn 37 năm 2000 xuống còn 29 năm 2002 và còn khoảng 14 năm 2011, tuy nhiên, theo thống kê, cả nước hiện có 3,1 triệu hộ nghèo và 1,65 triệu hộ cận nghèo (7,69 ). Các tỉnh có hộ nghèo nhiều nhất là Lào Cai, Điện Biên (trên 50 ), Lai Châu, Hà Giang (trên 40 ), Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Sơn La, Hòa Bình, Kon Tum (trên 30 ). Bên cạnh đó, năm 2011, chênh lệch giàu, nghèo ở Việt Nam lên tới 9,2 lần. Theo Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, chuẩn nghèo chính thức của Việt Nam hiện ở mức thấp so với các tiêu chuẩn quốc tế, và thấp hơn hầu hết các quốc gia ở khu vực Đông Á. Cụ thể, theo Multidimensional Poverty Index (MPI) – “Chỉ số nghèo đa chuẩn”, ngưỡng nghèo năm 2010 là 1,25 đôla một ngày (37,5USD một tháng = 750.000VND một tháng). Trong khi đó, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho biết, năm 2010, khu vực nông thôn là những hộ có mức thu nhập bình quân từ 300.000 đồng/người/tháng (dưới 3,6 triệu đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo; Khu vực thành thị là những hộ có mức thu nhập bình quân từ 390.000 đồng/người/tháng (dưới 4.680.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Chương Trình Phát Triển Liên hợp Quốc (UNDP) lưu ý về một số lĩnh vực mà Việt Nam phải phấn đấu hơn nữa, đó là t lệ người suy dinh dưỡng 18 , trung bình của khu vực là 10 , t lệ đói nghèo ở các vùng nông thôn vẫn còn cao, chiếm tới 90 người nghèo của cả nước. Tốc độ giảm nghèo đang chững lại: Trong giai đoạn 1993-1998 Việt Nam đã giảm được 20 t lệ nghèo từ 57 xuống còn 37 , giai đoạn 1998-2002 mức giảm chỉ đạt được 8,1 . Thu nhập và mức sống thời kỳ 1999-2002 tăng không bằng thời kỳ 1993-1998. Đáng lo ngại Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 15
  18. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế là nguy cơ tái nghèo còn ở mức cao, sự phân hóa giàu nghèo đang tăng rất nhanh. 3.2.8. Môi trường ngày càng bị ô nhiễm Môi trường đang ngày càng xấu đi như thoái hóa môi trường đất, do lạm dụng phân bón, thuốc trừ sâu, phát triển giống lúa cao sản làm cho đất bạc mầu nhanh, xói mòn tài nguyên đất, làm giảm độ phì đất, môi trường nước bị ô nhiễm do công nghiệp và sử dụng phân bón hóa chất trong nông nghiệp gây ra, sự tàn phá rừng tự nhiên, xuống cấp chất lượng rừng, trong đó do sử dụng phát triển thủy sản, bão, lụt, lũ, hạn hán, cháy rừng xẩy ra nghiêm trọng. Sâu bệnh ngày càng phát triển theo chiều hướng khó kiểm soát. Sự phát triển lương thực thực phẩm còn thiếu bền vững. Để phát triển nông nghiệp bền vững không phải chỉ có bền vững về môi trường mà phải đảm bảo cả bền vững về kinh tế, bền vững về xã hội. Vì mưu sinh, người ta phải khai thác tài nguyên một cách bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, một số doanh nghiệp Việt Nam lấy danh nghĩa nhập phế liệu để về tận dụng tái chế, thực chất nhập rác do phế liệu có lẫn tạp chất khó có thể loại bỏ trong quá trình xử lý từ các nước phát triển, chủ yếu từ Mỹ với giá rẻ. Điều đó biến môi trường sống Việt Nam thành bãi rác của các nước phát triển. 3.2.9. Đặt ra những yêu cầu về gìn giữ độc lập – an ninh – chủ quyền và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đã và đang phát triển mạnh trên thế giới. Những mối quan hệ kinh tế ngày càng mở rộng ra khỏi phạm vi của từng quốc gia riêng biệt và vươn tới nhiều lĩnh vực, không còn hạn chế trong thương mại hàng hóa mà lan toả sang các lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, môi trường. Vấn đề đặt ra là phải có quan niệm đúng đắn về khái niệm chủ quyền quốc gia trước xu thế mới và làm thế nào để có thể tận dụng một cách có hiệu quả và phát huy những lợi thế của mình mà vẫn bảo đảm giữ gìn bản sắc, bảo đảm chủ quyền quốc gia và định hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Xu thế toàn cầu hoá và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế thông qua “siêu lộ” thông tin với mạng Internet, một mặt tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có để các dân tộc, cộng đồng ở mọi nơi có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hàng hoá, dịch vụ, kiến thức…Qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ, mở mang sự hiểu biết về văn hoá của nhau. Mặt khác, quá trình trên cũng làm nảy sinh mối nguy cơ ghê gớm về sự đồng hoá các Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 16
  19. Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe doạ, làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hoá, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại của nhân loại. Nguy cơ nói trên lại càng tăng gấp bội khi một siêu cường nào đó tự xem giá trị văn hoá của mình là ưu việt, từ đó nảy sinh thái độ ngạo mạn và ý đồ áp đặt các giá trị của mình cho các dân tộc khác bằng một chính sách có thể gọi là xâm lược văn hoá với nhiều biện pháp trắng trợn tinh vi. Trước tình hình đó chúng ta không thể lui về chính sách đóng cửa, khước từ giao lưu, trao đổi, đối thoại với bên ngoài. Ngược lại, chúng ta, với bản lĩnh vốn có của dân tộc: “hoà nhập chứ không hoà tan”, tiếp thu những yếu tố nhân bản, hợp lí, khoa học tiến bộ của văn hoá các nước để làm giàu bản sắc văn hoá dân tộc. Đây sẽ là nhân tố khơi dậy tiềm năng sáng tạo làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới trong quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên chúng ta cũng tỉnh táo phản đối những văn hoá ngoại lai không phân biệt tốt hay xấu dẫn đến mất gốc, lai căng về văn hoá gây hậu quả xấu về tư tưởng đạo đức của các tầng lớp dân cư. Như vậy chỉ có trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị ưu tú của văn hoá dân tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại thì văn hoá Việt Nam ngày nay mới có thể đóng được vai trò vừa là mục tiêu, vừa là động lực và sẽ điều tiết sự phát triển của kinh tế xã hội. Trịnh Sỹ Chung – K43.QLGD.01 17
nguon tai.lieu . vn