Xem mẫu

  1. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN LỜI MỞ ĐẦU Hiện tại chất thải bệnh viện đang trở  thành vấn đề  môi trường và xã hội cấp  bách  ở  nước ta, nhiều bệnh viện trở  thành nguồn gây ô nhiễm cho khu dân cư  xung  quanh, gây dư luận cho cộng đồng. Các chất thải y tế có chứa đựng các yếu tố truyền   nhiễm là chất độc hại có trong rác y tế, các loại hoá chất và dược phẩm nguy hiểm,   các chất thải phóng xạ, các vật sắc nhọn, v.v. những người tiếp xúc với chất thải y tế  nguy hại đều có nguy cơ nhiễm bệnh tiềm tàng, bao gồm những người làm việc trong  các cơ  Sở  Y Tế, những người bên ngoài làm việc thu gom chất thải y tế  và những  người trong cộng đồng bị  phơi nhiễm với chất thải do sự sai sót trong khâu quản lý  chất thải.Các chất thải y tế  này có chứa các chất hữu cơ  nhiễm mầm bệnh ô gây   nhiễm, bệnh tật nghiêm trọng cho môi trường xung quanh bệnh viện  ảnh hưởng xấu   đến sức khoẻ người dân. Gia Lai là một tỉnh miền núi phía bắc Tây Nguyên. Dân số chủ yếu là đồng bào  dân tộc, lượng dân nhập cư  vào tỉnh ngày càng nhiều. Khí hậu 2 mùa, mùa mưa kéo  dài, lượng mưa nhiều, độ ẩm cao, thường xảy ra các vụ dịch bệnh đặt biệt là trong các  huyện vùng sâu, vùng xa gây áp lực cho ngành y tế của tỉnh. Điều kiện kỹ thuật, cơ sở  vật chất của tỉnh còn gặp nhiều khó khăn. Phần lớn các bệnh viện trong tỉnh hiện nay   đều tiếp quản lại cơ sở của chế độ cũ, chưa được xây dựng lại. Hạ tầng cơ sở không   có gì, không gian kiến trúc còn nhiều hạn chế. Phải đối đầu với những thách thức về  mọi mặt như vấn đề  thu gom và xử  lý rác thải y tế  chưa đạt tiêu chuẩn, không đúng   qui định, chưa có hệ thống xử lý. Hiện trạng việc xử lý chất thải bệnh viện kém hiệu  quả gây dư luận trong cộng đồng và đặt ra nhiều thách thứ  đối với nhiều cấp, ngành,  đặc biệt là ngành môi trường và y tế. Tuy nhiên giải quyết vấn đề này không phải một  sớm một chiều vì có rất nhiều khó khăn. Nguồn kinh phí đầu tư cho xử lý chất thải y  tế là rất lớn, chưa kể chi phí cho sử dung đất, phương tiện thu gom, vận chuyển, kinh   phí vận hành và bào trì. Bên cạnh đó nhận thức về thực hành xử lý chất thải trong các   bộ  y tế, nhân viên làm công tác xử  lý chất thải và bệnh nhân còn chưa cao. Sự  quan   tâm của một số lãnh đạo còn chưa được đầy đủ, các giải pháp về xử lý chất thải còn  chưa được đồng bộ  và tuy đã có luật bảo vệ  môi trường, qui chế  quản lý chất thải  nguy hại do thủ tướng chính phủ ban hành, qui chế chất thải y tế do Bộ trưởng Bộ Y   Tế ban hành nhưng các văn bản pháp qui vẫn chưa thâm sâu vào đời sống. GVHD:Trân Văn Dũng 1 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  2. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN Chương 1 GIỚI THIỆU CHUNG 1.1.  Tính cần thiết của đề tài Tại Gia Lai hiện nay ô nhiễm môi trường đang diễn ra  ở  nhiều lĩnh vực với  mức độ khác nhau trong đó có y tế. Có thể nói ô nhiễm trong ngành Y Tế đang diễn ra  khá trầm trọng mà nổi bật là ở các bệnh viện. Mạng lưới y tế  ngày càng phát triển đáp  ứng được nhu cầu khám chữa bệnh   của nhân dân bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều vấn đề  cần phải giải quyết, đặt biệt là  trong vấn đề quản lý rác thải y tế.  Rác thải y tế bao gồm chất thải nguy hại như: kim tiêm, găng tay, cao su, bông,  băng thấm dịch hoặc máu, các loại thuốc quá hạn, bệnh phẩm và rác thải phóng xạ.   Tuy chỉ  chiếm tỷ  lệ  nhỏ  so với chất thải sinh hoạt và chất thải công nghiệp nhưng  chất thải rắn y tế và bệnh phẩm lại có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường và lây truyền  dịch bệnh, ảnh hưởng đến sức khoẻ người dân nếu không được xử lý đúng mức. Do chất thải bệnh viện  ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ  cộng đồng nên công tác   thu gom và xử lý phải triệt để. Nhưng, hiện nay khâu quản lý rác thải của các cơ sở y tế còn hết sức lỏng lẻo.   Hầu hết rác thải y tế, các bệnh phẩm chưa được phân loại theo đúng chuẩn loại, chưa  được khử khuẩn trước khi thải bỏ, không có nhà lưu chứa hoặc có nhưng không đúng   tiêu chuẩn, không đảm bảo vệ sinh và có nguy cơ lây nhiễm cho cộng đồng.  1.2.  Mục tiêu của đề tài Đề tài tập trung vào 2 vấn đề chính: Đánh giá hiện trạng thu gom và xử lý chất thải rắn tại một số bệnh viện trên   địa bàn tỉnh Gia Lai. Đề xuất các biện pháp để  thu gom và xử  lý chất thải rắn bệnh viện phù hợp   với điều kiện tỉnh.  1.3.  Nội dung đề tài Để đạt được những mục tiêu trên, nội dung đề tài bao gồm: Tìm  hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh. Khảo sát thực tế tình hình phân loại, thu gom, vận chuyển và xử  lý chất thải   rắn tại một số bệnh viện trên địa bàn tỉnh. Hiện trạng hệ thống quản lý chất thải rắn của tỉnh. GVHD:Trân Văn Dũng 2 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  3. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN Các vấn đề còn tồn tại trong hệ thống quản lý chất thải bệnh viện của tỉnh. Đề xuất một số biện pháp quản lý chất thải trên địa bàn tỉnh: Phương án trong việc   phân loại, thu gom, vận chuyển, tiêu huỷ  chất  thải. Phương án cải thiện hệ thống quản lý rác thải trên địa bàn tỉnh. Một số phương án khả thi khác 1.4.  Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập, kế  thừa và tổng hợp các tài liệu liên quan đến bệnh  viện trên địa bàn tỉnh (thu thập các tài liệu, số liệu có liên quan đến nội dung   đề tài từ các bệnh viện, Sở Y Tế, Sở Tài Nguyên và Môi Trường, từ thầy cô,   từ sách báo, thông tin trên mạng. v.v. Sau đó sẽ lựa chọn những thông tin cần   thiết nhất) Phương pháp điều tra, khảo sát (khảo sát tình hình thực tế  tại các bệnh viện   trên  địa bàn tỉnh) bằng phiếu điều tra. Phương pháp tổng  hợp phân tích và xử lý các số liệu (từ các số liệu thu thập   được, tổng hợp lại và đưa ra 1 số  liệu thống nhất, chính xác nhất làm cơ  sở  đánh giá và giải quyết các vấn đề cần quan tâm) Phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia (của thầy cô, những người có liên   quan, ý kiến đóng góp của một số nhân viên trong bệnh viện) Phương pháp so sánh. 1.5. Ý nghĩa thực tiễn Đánh giá được tình hình thu gom, xử  lý chất thải rắn bệnh viện trên địa bàn   tỉnh. Đề  xuất những biện pháp khả  thi nhằm làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường   cho các bệnh viện trong tỉnh, một trong những vấn đề cấp bách hiện nay. 1.6. Giới hạn nghiên cứu của đề tài Khảo sát tại 20 bệnh viện điển hình trên địa bàn tỉnh Gia Lai. GVHD:Trân Văn Dũng 3 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  4. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN Chương 2 TỔNG QUAN VỀ RÁC THẢI Y TẾ 2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA CHẤT THẢI Y TẾ 2.1.1. Nguồn phát sinh chất thải rắn y tế 2.1.1.1.Các định nghĩa a/ Chất thải y tế Là chất thải phát sinh trong các cơ  sở  y tế, từ  các hoạt động khám chữa bệnh,  các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, xét nghiệm, chuẩn đoán, các hoạt động trong công tác  phòng bệnh, các hoạt động nghiên cứu và đào tạo về y sinh học.  Chất thải y tế có thể ở dạng rắn, lỏng và khí.  Chất thải y tế thường bao gồm cả các loại chất thải có đặc tính và tác động đối   với môi trường sức khoẻ giống như các chất thải thông thường khác. b/ Chất thải nguy hại Là chất thải có chứa các chất hoặc hoá chất có một trong các đặc tính gây nguy   hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, gây ăn mòn, dễ lây nhiễm với các đặc tính   nguy hại), hoặc tương tác với các chất khác gây nguy hại tới môi trường và sức khoẻ  con người. Do có các đặc tính và tiềm năng gây rủi ro về  môi trường và sức khoẻ  mà các  loại chất thải y tế  nguy hại đòi hỏi phải được thu gom, phân lập và tiêu huỷ  theo  những qui trình đặc biệt và đảm bảo an toàn có áp dụng các công nghệ  phức tạp và   thường là tốn kém để tránh thoát thải ra môi trường bên ngoài. c/ Chất thải y tế nguy hại Là chất thải có một trong các thành phần như: máu, dịch cơ  thể, chất bài tiết,   các bộ  phận hoặc cơ  quan con người, động vật, bơm, kim tiêm và các vật sắc nhọn,  dược phẩm, hoá chất và các chất phóng xạ dùng trong y tế. Nếu những chất này không  được huỷ sẽ gây nguy hại cho môi trường và sức khoẻ con người. d/ Quản lý chất thải y tế nguy hại Là các hoạt động kiểm soát chất thải trong suốt quá trình từ  khi chất thải phát  sinh đến xử lý bắt đầu từ khâu thu gom, vận chuyển, lưu trữ và tiêu huỷ chất thải y tế  nguy hại. e/ Thu gom GVHD:Trân Văn Dũng 4 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  5. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN Là việc tách, phân loại, tập hợp, đóng gói và lưu trữ tạm thời tại điểm tập trung   của cơ sở y tế. f/ Vận chuyển Là quá trình chuyên chở  chất thải từ nơi phát sinh đến xử  lý ban đầu, lưu trữ,  tiêu huỷ. g/ Xử lý ban đầu Là quá trình khử khuẩn hoặc tiết khuẩn các chất thải có nguy cơ lây nhiễm cao   ngay gần nơi phát sinh khi vận chuyển tới nơi lưu trữ hoặc tiêu huỷ. h/ Tiêu huỷ Là quá trình sử  dụng công nghệ  nhằm cô lập (bao gồm cả chôn lấp) chất thải  nguy hại làm mất khả năng nguy hại đối với môi trường và sức khoẻ con người. 2.1.1.2. Cách xác định chất thải y tế Để  xác định nguồn phát thải, tải lượng của chất thải y tế  nói chung và tỷ  lệ  chất thải rắn nguy hại nói riêng có rất nhiều cách đánh giá khác nhau và chưa thực sự  thống nhất. Một cách tiếp cận thuyết phục để có thể dự  báo, ước lượng chất thải y tế nói  chung và số lượng hay tỷ lệ chất thải y tế nguy hại nói riêng phải dựa vào các yếu tố  sau:  Số lượng, đặc điểm, phạm vi cứu chữa, qui mô khám bệnh, điều trị  của tất  cả các cơ sở y tế.  Số  lượng giường bệnh tại bệnh viện và các cơ  sở  y tế  có giường bệnh từ  tuyến huyện và tương đương trở lên bao gồm cả  các bệnh viện do ngành y   tế quản lý và do các  ngành  khác quản lý.  Lượng chất thải y tế phát thải mỗi ngày xác định theo giường bệnh (giường   bệnh của cấp bệnh viện) mỗi ngày.  Tỷ  lệ  chất thải y tế  nguy hại trên tổng chất thải y tế  chung của giường   bệnh (giường bệnh cấp bệnh viện) mỗi ngày. Trên cơ sở này, có thể áp dụng ước lượng khối lượng chất thải của bệnh viện   cụ thể của khu vực, thậm chí có thể ước lượng khối lượng chất thải rắn cho phạm vi   toàn quốc. Các cơ sở y tế ở Việt Nam chủ yếu thuộc ngành y tế được tổ chức phân bố  theo 4 cấp:  Các cơ sở y tế trực thuộc Bộ Y Tế GVHD:Trân Văn Dũng 5 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  6. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN  Các cơ sở y tế trực thuộc tỉnh.  Các cơ sở y tế tuyến huyện.  Các cơ sở y tế tuyến xã và tương đương. Trong đó, qui mô bệnh viện có từ  tuyến huyện gọi là bệnh viện huyện, tuyến   tỉnh gọi là bệnh viện tỉnh và tuyến sau cùng là các bệnh viện tuyến Trung Ương. Đa số  các bệnh viện của các tuyến là qui mô bệnh viện đa khoa, một số  bệnh viện chuyên  khoa. Các bệnh viện nêu trên là các cơ  sở  y tế  có giường bệnh, thường xuyên hoạt  động khám chữa bệnh và cũng thường xuyên phát thải chất thải rắn y tế. Một số ngành khác cũng có cơ sở y tế từ tuyến cơ sở cho tới tuyến chuyên khoa   như Bộ Quốc Phòng, Bộ Công An có hẳn một hệ thống y tế từ tuyến Trung Ương tới   cơ sở hoặc một số ngành có bệnh viện riêng như: Bưu Chính Viễn Thông, Giao Thông   Vận Tải, Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn. Trong cách xác định trên đây còn chưa đánh giá được nguồn và số lượng thải tại   các trạm y tế  xã, phòng mạch tư  nhân và các hoạt động từ  các cơ  sở  đào tạo, nghiên  cứu sinh học. Dưới đây là một số  tài liệu đã công bố  số  lượng phát thải chất thải rắn y tế  mỗi giường bệnh/ngày, tỷ lệ chất thải rắn y tế nguy hại, tải lượng chung toàn quốc. Bảng 2.1: Lượng chất thải rắn y tế trung bình trên giường bệnh/ngày. STT Nguồn Năm kg/GB/ngày Phạm   Thị   Ngọc   Bích,   Phạm   Ngọc   Châu.   Kinh   nghiệm  1 bước đầu xử lý chất thải tại một số bệnh viện cấp tỉnh  ở  1996 2,27 Việt Nam, hội thảo Việt Nam – Thuỵ Điển.  URENCO Hà Nội. Báo cáo nghiên cứu khả  thi xây dựng  2 1996 2,45 xưởng đốt CTYT Hà Nội.  3 Phạm Song. Hội thảo quản lý chất thải bệnh viện.  1998 2,27 4 Phạm Thị Ngọc Bích. Hội thảo xử lý chất thải bệnh viện. 1998 2,45 Nguyễn Xuân Nguyễn. Hội thảo quản lý chất thải bệnh  5 1998 2,27 viện.  6 Nguyễn Kim Thi. Hội thảo quản lý chất thải bệnh viện.  1998 1,17 7 Nguyễn Văn Lộ. Hội thảo xử lý chất thải bệnh viện. 1998 2,27 Giá trị trung bình.  2,21 (Nguồn: Môi trường bệnh viên nhìn từ góc độ quản lý chất thải ­ 2004) GVHD:Trân Văn Dũng 6 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  7. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN Như   vậy lượng chất thải rắn y tế trung bình phát thải theo mỗi giường bệnh   tại tuyến bệnh viện mỗi ngày là 2,21 kg/GB/ngày. Tuy nhiên hệ  số  phát thải này chỉ  nên áp dụng cho tuyến tỉnh và tương đương. Các bệnh viện tuyến huyện sẽ có hệ  số  phát thải thấp hơn do phạm vi cứu chữa, khả năng áp dụng các kỹ  thuật ở  mức thấp   hơn. Về đặc điểm chất thải và tỷ lệ chất thải y tế nguy hại cũng có khá nhiều  nghiên cứu công bố các số liệu khá tương đồng với nhau. Bảng dưới đây xin giới thiệu  một số số liệu được công bố. (Xem phụ lục 1) Hầu hết các tác giả đều đưa ra các số liệu tương đối gấn nhau thống nhất tỷ lệ  chất thải y tế nguy hại trong tổng chất thải y tế nói chung là 20% với đặc điểm tỷ  trọng 130 kg/m3, hàm lượng tro còn lại sau khi đốt là 9,76% và nhiệt trị trung bình  l2537 Kcal/kg. Kết luận chung:   Hệ số phát thải chất thải rắn y tế: 2,21 kg/GB/ngày  Tỷ lệ chất thải rắn nguy hại: 20% (tương đương) Từ cơ sở dữ liệu lượng chất thải y tế trung bình giường bệnh ngày, tỷ  lệ chất  thải y tế nguy hại trong tổng số chung và số lượng giường bệnh tại các cơ  sở y tế từ  tuyến huyện trở  lên và tương đương có thể  xác định được tổng lượng chất thải y tế  nguy hại phải xử lý theo địa bàn và theo khu vực cho mỗi bệnh viện.(Xem phụ luc 2).  Tính chung cho toàn quốc, lượng chất thải từ các hoạt động dịch vụ  chăm sóc  sức khoẻ, dịch vụ y tế là:  Chất thải rắn y tế chung: 252 tấn/ngày  Chất thải rắn y tế nguy hại: 50 tấn/ngày Trong đó 2 thành phố có tải lượng lớn nhất là:  Tp Hồ Chí Minh: 31,3 tấn chất thải rắn y tế chung, trong đó có 6,2 tấn chất  thải rắn y tế nguy hại  Tp Hà Nội: 26,5 tấn chất thải rắn y tế chung, trong đó có 5,3 tấn chất thải   rắn y tế nguy hại 2.1.2. Khuynh hướng phát thải chất thải y tế a/ Đối với chất thải y tế chung Tổng lượng chất thải y tế chung ít biến đổi do tổng số giường bệnh tương đối  ổn định. Mặc dù có sự gia tăng số giường bệnh của các bệnh viện tuyến huyện trở lên  GVHD:Trân Văn Dũng 7 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  8. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN trong các giai đoạn từ 1995 tới nay nhưng số giường bệnh tại các cơ sở y tế khác như  trạm y tế cơ quan, điều dưỡng lại giảm. b/ Chất thải y tế nguy hại Tuy tổng thải chung chất thải y tế tăng ít hoặc chỉ tăng nhẹ, nhưng lượng chất  thải y tế nguy hại phải xử lý đặc biệt lại gia tăng lên theo thời gian do 2 xu thế sau:  Tăng tỷ  lệ  sử  dụng các dụng cụ  dùng một lần như  kim bơm tiêm, đè lưỡi,   găng tay phẫu thuật,  ống thông, túi thu dịch dẫn lưu, bông băng, vải trải   phẫu thuật, quần áo phẫu thuật .v.v.  Tăng số  lượng các giường bệnh  ở  cơ sở điều trị  từ   tuyến huyện và tương  đương trở lên.  Ngày càng  ứng dụng nhiều hơn các kỹ  thuật cao trong tất cả  các khâu từ  khám bệnh, xét nghiệm, chuẩn đoán và điều trị. Bảng 2.2: Sự gia tăng chất thải y tế theo thời gian ở Việt Nam Chỉ số 1995 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Giường bệnh (1000  115, 118, 118, 120, 120, 121, 122,5 giường) 5 0 0 3 1 9 CTR y tế chung (tấn/ngày) 248, 253, 253, 258, 258, 262, 263,9 3 7 7 6 2 1 CTR y tế nguy hại  55,4 56,6 56,6 57,7 57,6 58,5 58,9 (tấn/ngày) 2.1.3. Nguồn và phân loại chất thải rắn y tế Theo định nghĩa, chất thải rắn y tế  nguy hại là chất thải dạng rắn phát sinh   trong các cơ sở y tế, từ các hoạt động khám chữa bệnh, chăm sóc, xét nghiệm, phòng   bệnh, nghiên cứu, đào tạo. Việc phân loại và xác định chất thải y tế của đa số  các nước trên thế  giới, kể  cả các nước trong khu vực cũng như hướng dẫn của tổ chức y tế thế giới (WHO) khá  nhất quán và nhìn chung đều bao gồm các loại chính như sau: a/ Nhóm chất thải lâm sàng  (clinical waste): bao gồm 5 phân nhóm khác  nhau là:  Nhóm A: chất thải nhiễm khuẩn (infectious waste): vật liệu thấm máu, dịch,  băng gạc, bông băng, túi đựng dịch, dẫn lưu v.v. GVHD:Trân Văn Dũng 8 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  9. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN  Nhóm B: các vật sắc nhọn (sharps): như các loại kim tiêm, lưỡi dao mổ, dao   lam dùng trong y tế, ống thuốc tiêm vỡ v.v.  Nhóm C: chất thải có nguy cơ  lây nhiễm cao phát sinh từ  các phòng xét  nghiệm như găng tay, lam kính, bệnh phẩm v.v.  Nhóm D: (chất thải dược phẩm bao gồm dược phẩm quá hạn, bị  nhiễm  khuẩn, thuốc gây độc tế  bào kể  cảc các lọ  thuốc đã được sử  dụng nhưng  còn tồn lưu dư lượng, và hoá chất có tính gây độc đối với tế bào.  Nhóm E: bệnh phẩm (pathological waste): nhóm này bao gồm các mô và cơ  quan người, động vật, một phần chi thể  bị  cắt bỏ  do các can thiệp phẫu   thuật (cần lưu ý là đối với nhóm chất thải này thì ngay cả  khi chúng không   chứa nguồn lây nhiễm nhưng cũng vẫn có khả  năng gây ra tác động tâm lý   rất mạnh). b/ Nhóm chất phóng xạ Nhóm chất thải phóng xạ phát sinh từ các hoạt động chuẩn đoán, hoá trị liệu và  nghiên cứu như   ống tiêm, bơm tiêm, giấy thấm, gạc sát khuẩn có sử  dụng hoặc bị  nhiễm các đồng vị phóng xạ. c/ Nhóm chất thải hoá học Chất thải hoá học bao gồm các hoá chất có thể không gây nguy hại như đường,   axit béo, axít amin, một số  loại muối v.v. và hoá chất nguy hại như  phóc­man­đê­hít,   hoá chất quang học, các dung môi, hoá chất dùng để diệt khuẩn y tế và dung dịch làm  sạch, khử khuẩn, các hóa chất dùng trong khử trùng, tẩy uế, thanh trùng v.v. d/ Nhóm các bình chứa khí nén có áp suất Nhóm này bao gồm các bình chứa khí nén có áp suất như  bình đựng oxy, CO2  bình gas, bình khí dung, các bình chứa khí sử dụng một lần, v.v. đa số các bình chứa khí  nén này thường dễ nổ, dễ cháy nguy cơ tai nạn cao nếu không được tiêu hủy đúng qui  cách. e/ Nhóm chất thải sinh hoạt Nhóm chất thải này có đặc điểm chung như chất thải sinh hoạt thông thường từ  các hộ  gia đình gồm giấy loại, vải loại, vật liệu đóng gói bao gói, thức ăn còn thừa,   thực phẩm thải bỏ và chất thải ngoại cảnh như các loại lá cây, hoa quả rụng v.v. 2.1.4. Khối lượng chất thải phát sinh Khối lượng chất thải y tế không chỉ thay đổi theo từng khu vực địa lý,  mà còn  phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác như: GVHD:Trân Văn Dũng 9 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  10. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN  Cơ cấu bệnh tật bình thường, dịch bệnh, thảm hoạ đột xuất.  Loại  và qui mô bệnh viện, phạm vi cứu chữa.  Số  lượng bệnh nhân khám, chữa bệnh, tỷ  lệ  bệnh nhân điều trị  nội trú và   ngoại trú.  Điều kiện kinh tế xã hội của khu vực.  Phương pháp và thói quen của nhân viên y tế  trong việc khám, điều trị  và  chăm sóc.  Số lượng người nhà được phép đến thăm bệnh nhân. Tham khảo tài liệu nước ngoài cho thấy khối lượng chất thải rắn y tế  cũng  được  ước lượng trên cơ  sở  số  giường bệnh và hệ  số  phát thải phụ  thuộc vào nhiều  yếu tố  như  thay đổi theo mức thu nhập, thay đổi theo loại bệnh viện mức phát thải   khác nhau theo các khoa phòng chuyên môn cụ thể như sau: Bảng 2.3: Lượng chất thải thay đổi theo từng nước Chất thải bệnh viện nói chung  Chất thải y tế nguy hại  (kg/giường bệnh/ngày) (kg/giường bệnh/ngày) Nước thu nhập cao  1,2 – 12 0,4 ­ 5,5 Nước thu nhập  0,8 – 6 0,3 ­ 0,6 trung bình  Nước thu nhập  0,5 – 3 0,3 ­ 0,4 thấp  Bảng 2.4: Lượng chất thải thay đổi theo từng loại bệnh viện Nguồn phát sinh Lượng chất thải theo từng bệnh  viện  (kg/giường bệnh/ngày) Bệnh   viện   đại   học   y  4,1 – 8,7 dược  Bệnh viện đa khoa  2,1 – 4,2 Bệnh viện tuyến huyện  0.5 – 1,8 Trung tâm y tế  0,05 – 0,2 Bảng 2.5: Lượng chất thải thay đổi theo các bộ phận khác nhau trong cùng bệnh  viện GVHD:Trân Văn Dũng 10 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  11. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN Các bộ phận khác trong bệnh  Lượng chất thải (kg/giường  viện bệnh/ngày) Điều dưỡng y tế  1,5 Khoa điều trị  1,5 – 3 Khoa hồi sức cấp cứu  3 – 5 Bệnh phẩm chung toàn bệnh viện  0,2 Ở một số nước trên thế giới có hệ thống y tế giống Việt Nam là có bệnh viện  tuyến Trung  Ương, tuyến tỉnh và tuyến huyện thì hệ  số  phát thải chất thải rắn y tế  cũng dao động khá lớn về tổng lượng thải cũng như tỷ lệ chất thải nguy hại. Bảng 2.6: Lượng chất thải phát sinh theo tuyến bệnh viện Chất thải y tế nguy  Tổng lượng chất thải y tế  hại  Tuyến bệnh viện (kg/ giường bệnh /ngày) (kg/ giường  bệnh/ngày) Bệnh   viện   Trung  4,1­8,7 0,4­1,6 Ương  Bệnh viện tỉnh  2,1­4,2 0,2­1,1 Bệnh viện huyện  0,5­1,8 0,1­0,4 (Nguồn: Môi trường bệnh viện nhìn từ góc độ quản lý an toàn chất thải ­ 2004) 2.1.5. Thành phần chất thải rắn bệnh viện Chất thải rắn y tế  phát sinh trong bệnh viện chủ  yếu là do các hoạt  động   chuyên môn và phụ  thuộc vào số  giường bệnh, số  bệnh nhân nằm điều trị  (tỷ  lệ  sử  dụng giường bệnh) và còn một lượng chất thải sinh hoạt từ nhân viên y tế trong bệnh  viện. Đối với các bệnh viện ở Việt Nam, do đặc điểm có mặt một số lượng đáng kể  người nhà bệnh nhân, người thăm nuôi, một vài dịch vụ  khác như  nhà hàng ăn uống,  sách báo v.v. mà số  lượng người vãng lai này khá lớn nhiều khi tương đương với số  bệnh nhân nằm viện. Chính hiện trạng này làm cho khối lượng phát sinh chất thải rắn  trong bệnh viện tăng lên, đặc điểm thành phần chất thải bệnh viện cũng thay đổi theo  (có thể tăng tỉ lệ khối lượng chất thải rắn sinh hoạt). Kết quả này dẫn tới sự quá tải   hệ  thống thu gom và xử lý chất thải vốn được thiết kế  theo số giường bệnh. Sự quá  tải này cũng là nguyên nhân dẫn đến quản lý, thu gom và phân loại và xử  lý thiếu   nghiêm ngặt và không tuân thủ các qui định bắt buộc, do đó dẫn đến tình trạng là một  GVHD:Trân Văn Dũng 11 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  12. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN tỷ lệ chất thải rắn y tế nguy hại có thể bị lẫn vô chất thải rắn chung và phát tán ra môi   trường bên ngoài, trở thành nguồn gây ô nhiễm và có khả năng gây ra các rủi ro về môi  trường và sức khoẻ. Bảng 2.7: Đặc điểm, thành phần chất thải rắn y tế bệnh viện ST Giá trị  Đặc điểm, thông số T % A Thành phần giấy các loại bao gồm cả mảnh carton  2,9 B Thành phần kim loại, vỏ hộp kim loại  0,7 C Thành phần thuỷ tinh, ống thuốc tiêm, lọ thuốc tiêm, bơm kim tiêm  3,2 D Bông, gạc, băng, bột bó gãy xương, nẹp cố định  8,8 Chai thuốc, túi thuốc, chai dịch, túi dịch, túi máu, thành phần chất   E 10,1 dẻo  F Bệnh phẩm  0,6 G Rác thành phần hữu cơ  52,7 H Đất, vật rắn khó phân định 21,0 (Nguồn: Môi trường bệnh viện nhìn từ góc độ quản lý chất thải ­ 2004) Chất thải rắn y tế  nguy hại bao gồm các t hành phần chất thải trong các mục  phân loại C,D,E,F. 2.2. Tác động của chất thải y tế tới môi trường và sức khoẻ 2.2.1. Tác hại của chất thải y tế lên sức khoẻ a/ Các rủi ro từ chất thải y tế Chất thải y tế bao gồm một lượng lớn chất thỉ có đặc điểm như chất thải sinh   hoạt chung và một tỷ  lệ nhỏ  hơn (khoảng 20%) các chất thải có khả  năng gây rủi ro  cao. Chất thải rắn y tế có thể tạo nên những mối nguy cơ tiềm tàng cho sức khoẻ con   người. b/ Các loại hình rủi ro Việc tiếp xúc với chất thải y tế có thể gây nên bệnh tật hoặc tổn thương. Khả  năng gây rủi ro từ chất thải y tế có thể do một hay nhiều đặc trưng cơ bản sau đây:  Chất thải y tế chứa đựng các yếu tố truyền nhiễm, là tác nhân nguy hại  trong rác thải y tế.  Các hoá chất dược phẩm có thành phần độc, tế bào nguy hiểm. GVHD:Trân Văn Dũng 12 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  13. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN  Các chất chứa đồng vị phóng xạ.  Các vật sắc nhọn có thể gây tổn thương.  Chất thải có yếu tổ ảnh hưởng tâm lý xã hội. c/ Những đối tượng có thể tiếp xúc với nguy cơ Tất cả mọi cá nhân tiếp xúc với chất thải y tế nguy hại là những ngưới có nguy  cơ  tiềm tàng, bao gồm những người làm việc trong các cơ  sở  y tế, những người làm  nhiệm vụ  vận chuyển các chất thải y tế  và những người trong cộng đồng bị  phơi  nhiễm chất thải do hậu quả của sự bất cẩn và tắc trách trong các khu quản lý và kiểm  soát chất thải. Dưới đây là những nhóm đối tượng chính có nguy cơ  cao đối với tác hại của   chất thải y tế:  Bác sĩ, y tá, hộ  lý và các nhân viên hành chính của bệnh viện, những người  thực hiện các thủ thuật xâm lấn, tiêm, thay băng, v.v.  Những người thực hiện nhiệm vụ  phân loại, thu gom và vận chuyển chất  thải y tế từ ngay tại nguồn về nơi tập kết của bệnh viện.  Bệnh nhân điều trị nội trú hoặc bệnh nhân ngoại trú.  Khách tới thăm hoặc người nhà bệnh nhân, người thăm nuôi.  Những công nhân làm việc trong các dịch vụ hỗ trợ bệnh viện phục vụ cho   các cơ sở khám chữa bệnh và điều trị, chẳng hạn như giặt là, lao công, vận  chuyển bệnh nhân, vệ sinh tẩy uế.  Những người làm việc trong các cơ  sở  xử  lý chất thải (tại bãi đổ  rác thải,   các lò đốt rác) và những người bới rác, thu rác. Chất thải y tế nguy hại phát sinh từ dịch vụ cơ sở y tế tư nhân, qui mô lẻ, nằm   rải rác cũng là nguồn thải có tiềm năng gây rủi ro về  môi trường và sức khoẻ  do  nguồn chất thải này thường khó kiểm soát và ít khi được chú ý tới. Đôi khi, ngay cả  những tủ  thuốc gia đình hoặc một số  tế  nạn xã hội như  tiêm chích ma tuý cũng là   nguồn phát sinh chất thải y tế nguy hại có tiềm năng gây rủi ro cao về môi trường và  sức khoẻ.  Các nguy cơ từ chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn: Các vật thể  trong thành phần chất thải y tế  nguy hại có thể  chứa đựng một  lượng rất lớn bất kỳ tác nhân vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm nào như tụ cầu, HIV,   viêm gan B. Các tác nhân gây bệnh có thể xâm nhập vào cơ thể thông qua các hình thức  sau: GVHD:Trân Văn Dũng 13 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  14. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN  Qua da, qua một vết thủng, trầy xước hoặc vết cắt trên da do vật sắc nhọn   gây tổn thương.  Qua các niêm mạc, màng nhầy.  Qua đường hô hấp do xông, hít thở phải.  Qua đường tiêu hoá do nuốt, ăn phải. Các ví dụ về sự nhiễm khuẩn do tiếp xúc với chất thải y tế được liệt kê trong  bảng dưới đây qua đường truyền là các dịch thể  như  máu, dịch não tuỳ, chất nhờn,  nước mắt, tuyến nhờn. Có một mối liên hệ đặc biệt giữa sự nhiễm khuẩn do virus gây ra hội chứng suy   giảm miễn dịch người (HIV) và virus viêm gan B, C đó là những bằng chứng của việc   lan truyền các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm qua đường phát thải chất thải rắn y tế.  Những virus này thường lan truyền qua vết tiêm hoặc các tổn thương do kim tiêm có  nhiễm máu người bệnh. Trong các cơ  sở  y tế, tính kháng đa thuốc kháng sinh của các vi khuẩn đối với  hàng loạt họ kháng sinh và các hoá chất sát khuẩn cũng có thể tạo ra những mối nguy   cơ  do sự  quản lý yếu kém chất thải y tế. Điều này đã được chứng minh, chẳng hạn  các plasmid từ  các động vật thí nghiệm có trong chất thải y tế  được truyến cho vi   khuẩn gốc qua hệ thống xử lý chất thải. Hơn nữa, vi khuẩn E.coli kháng thuốc đã cho  thấy nó vẫn còn sống trong môi trường bùn hoạt tính mặc dù  ở  đó có vẻ  như  không  phải là môi trường thuận lợi cho loài sinh vật này trong điều kiện thông thường của hệ  thống xử lý và tiêu huỷ chất thải y tế. Độ tập trung các các tác nhân gây bệnh và các vật sắc nhọn bị nhiễm các vi sinh  vật gây bệnh (đặc biệt là những mũi kim đã được tiêm qua da) hầu như là những mối  nguy cơ tiềm ẩn sâu sắc đối với sức khoẻ trong các loại chất thải bệnh viện. Các vật   sắc nhọn có thể không chỉ là nguyên nhân gây ra những vết cắt, vết đâm thủng mà còn   gây nhiễm trùng các vết thương nếu nó bị  nhiễm các tác nhân gây bệnh. Như  vậy,  những vật sắc nhọn được coi là một loại chất thải y tế  rất nguy hiểm bởi nó gây   những tổn thương kép: vừa gây tổn thương lại vừa lây truyền các bệnh truyền nhiễm.  Những vấn đề  đáng lưu tâm là sự  nhiễm trùng có thể  được lây truyền bởi sự  xâm   nhập qua da do các tác nhân gây bệnh, ví dụ như nhiễm khuẩn huyết do virus. Các loại  kim tiêm đã tiêm qua da là một thành phần quan trọng nhất của loại chất thải sắc nhọn   và là mối nguy hiểm đặc biệt bởi chúng thường bị dính máu bệnh nhân. Bảng 2.8: Một số ví dụ về sự nhiễm khuẩn gây ra do tiếp xúc với các loại  chất thải y tế, các loại sinh vật gây bệnh và phương thức lây truyền GVHD:Trân Văn Dũng 14 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  15. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN Dạng chất  Loại nhiễm khuẩn Vi sinh vật gây bệnh thải y tế Nhóm enterobacteri: salmonella, shigella spp,  Phân hoặc  Nhiễm  khuẩn tiêu hoá  vibrio cholerac, các loại giun sán.  chất nôn Các loại dịch  Nhiễm khuẩn hô hấp  Vk lao, virus sởi, streptococcus pneumoniac.  tiết, đờm  Dịch tiết của  Nhiễm khuẩn mắt  Virus herpes  mắt  Dịch tiết  Nhiễm khuẩn sinh dục  Neiserreria gonorrhoeac, virus herpes.  sinh dục  Nhiễm khuẩn da Streptococcus spp Mủ  Chất tiết của  Bệnh than  Bacillus antharacis.  da (mồ hôi,  chất nhờn)  Viêm màng não  Não mô cầu (neisseria meningitides)  Dịch não tuỷ  Máu, chất  AIDS  HIV  tiết sinh dục  Tất cả các  sản phẩm  Sốt xuất huyết  Các virus: junin, lassa, ebola, Marburg. máu và dịch  tiết  Nhiễm khuẩn huyết do  Staphylococcus spp Máu tụ cầu  Nhiễm khuẩn huyết do  Nhóm tụ cầu khuẩn (Staphylococcus spp, chống  các loại vi khuẩn khác  đông: Staphylococcus arueus); enterobacter;  Máu nhau  enterococus; klebssiella; Streptococcus spp Nấm candida Candida albican Máu Viêm gan A Virus viêm gan A Phân  Máu, dịch  Viêm gan B, C Virus viêm gan B, C thể  Những mối nguy cơ từ loại chất thải hoá chất và dược phẩm GVHD:Trân Văn Dũng 15 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  16. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN Nhiều loại hoá chất và dược phẩm được sử  dụng trong các cơ  sở  y tế  là mối   nguy cơ đe doạ sức khoẻ con người như các độc dược, các chất gây độc gen, chất độc  tế  bào, chất ăn mòn, các chất gây phản  ứng, gây nổ, gây shock phản vệ, v.v các chất  này thường chiếm số  lượng nhỏ  trong chất thải y tế  hoặc đôi khi với tỷ  lệ  khá lớn   nhưng trong các dạng thuốc, sinh phẩm bị quá hạn, thuốc thừa hoặc hết tác dụng cần  vứt bỏ. Chúng có thể gây nhiễm độc do tiếp xúc cấp tính và gây nhiễm độc mãn tính,  gây ra các tổn thương như bỏng. Sự  nhiễm độc này có thể  là do kết quả  của sự  hấp   thụ hóa chất, hoặc dược phẩm qua da, qua niêm mạc, qua đường hô hấp hoặc đường  tiêu hoá. Việc tiếp xúc với các chất dễ  cháy, chất ăn mịn, các hố  chất gây phản ứng   (phóc ­man­đê­hít và các chất dễ  bay hơi khác) có thể  gây nên những tổn thương tới   da, mắt, hoặc niêm mạc đường hô hấp. Các tổn thương phổ biến hay gặp nhất là dạng   các vết bỏng. Các hoá chất khử trùng là những thành phần đặc biệt quan trọng của nhóm chất  thải y tế dạng hoá chất. Chúng thường được sử  dụng với số  lượng lớn và thường là  những chất ăn mòn. Cũng cần phải lưu ý rằng đây cũng là loại hóa chất gây phản ứng  và cũng có thể tạo nên các dạng hỗn hợp thứ cấp có tính độc cao. Các loại hoá chất diệt côn trùng quá hạn lưu trữ trong các thùng bị rò rỉ hoặc túi   rách thủng có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khoẻ của bất cứ ai tới   gần và tiếp xúc chúng. Trong những trận mưa lớn, các hoá chất diệt côn trùng bị  rò rỉ  có thể  thấm sâu   vô đất và tiếp theo gây ô nhiễm nước ngầm. Sự nhiễm độc có thể xảy ra do tiếp xúc  trực tiếp với sản phẩm hoá chất, do hít phải hơi độc hoặc do uống phải nước hoặc   thức ăn đã bị nhiễm độc. Các mối nguy cơ khác có thể là khả năng dẫn đến các vụ hoả  hoạn hoặc gây ô nhiễm do việc xử lý chất thải không đúng cách chẳng hạn như thiêu  huỷ hoặc chôn lấp. Các sản phẩm hoá chất được thải thẳng vào hệ thống cống thải có thể  gây nên  bất lợi tới hoạt động của hệ thống xử lý nước thải (nhất là hệ thống xử lý công nghệ  phân huỷ  sinh học) hoặc gây  ảnh hưởng độc hại tới hệ  sinh thái tự  nhiên tiếp nhận  nguồn nước này. Những vấn đề  tương tự  như  vậy cũng có thể  xảy ra do sản phẩm   của quá trình bào chế dược phẩm bao gồm các kháng sinh và các loại thuốc khác, do   các kim loại nặng như  thuỷ  ngân, phenol và các dẫn xuất, các hoá chất khử  trùng và   tẩy uế.  Những nguy cơ từ chất thải gây độc gen tế bào Đối với các nhân viên y tế do nhu cầu công việc phải tiếp xúc và xử lý loại chất   thải gây độc gen tế  bào mà mức độ   ảnh hưởng và chịu tác động  từ  các rủi ro tiềm   GVHD:Trân Văn Dũng 16 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  17. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN tàng sẽ  phụ  thuộc vào các yếu tố  như  tính chất, liều lượng gây độc của chất độc và   khoảng thời gian tiếp xúc với chất độc đó. Quá trình tiếp xúc với các chất độc trong  công tác y tế  có thể  xảy ra trong lúc chuẩn bị  hoặc trong quá trình điều trị  bằng các   thuốc đặc biệt hoặc bằng phương pháp hoá trị  liệu. Những phương thức tiếp xúc   chính là hít phải hoá chất có tính nhiễm độc  ở  dạng bụi hoặc hơi mùi qua đường hô   hấp, bị hấp thụ qua da do tiếp xúc trực tiếp, qua đường tiêu hoá do ăn phải thực phẩm   nhiễm thuốc. Việc nhiễm độc qua đường tiêu hoá thường là do ảnh hưởng của những  thói quen xấu, chẳng hạn như dùng miệng để  hút  ống pipet trong các công việc như  khi định lượng dung dịch, xét nghiệm sinh hoá. Mối nguy hiểm cũng có thể xảy ra khi   tiếp xúc với các loại dịch thể và chất tiết nhất là các bệnh phẩm cần xét nghiệm của   những bệnh nhân đang trong giai đoạn điều trị bằng phương pháp hoá trị liệu. Độc tính đối với tế bào của nhiều loại thuốc chống ung thư là tác động đến các   chu kỳ đặc biệt của tế bào, nhằm vào các quá trình tổng hợp hoặc quá trình phân bào   nguyên phân. Các thuốc chống ung thư  khác, chẳng hạn như  nhóm ankyl hoá, không   phải là pha đặc hiệu, chỉ biểu hiệu độc tính tại một vài điểm trong chu kỳ tế bào. Các  nghiên cứu thực nghiệm cho thấy nhiều loại thuốc chống ung thư lại nên ung thư  và  gây đột biến. Nhiều loại thuốc có tính độc gây kích thích cao độ  và gây nên những hậu quả  huỷ  hoại cục bộ  sau khi tiếp xúc trực tiếp với da hoặc mắt, chúng có thể  gây chóng  mặt, buồn nôn, đau đầu hoặc viêm da. Cần phải đặc biệt cẩn thận trong việc sử dụng, vận chuyển chất thải gây độc  gen tế  bào. Việc làm thoát thải những chất thải như  vậy vào môi trường có thể  gây   nên những hậu quả  sinh thái không thể  lường trước được, nhiều khi tác hại tới môi   trường và sinh thái rất nghiêm trọng.  Những nguy cơ từ các loại chất thải phóng xạ Loại bệnh và hội chứng gây ra do chất thải phóng xạ  được xác định bởi các   chất thải, đối tượng và phạm vi tiếp xúc. Chất thải phóng xạ cũng như chất thải dược   phẩm là một loại độc hại tới tế bào, gen, và cũng có thể ảnh hưởng tới các yếu tố  di   truyền. Tiếp xúc với các nguồn phóng xạ có hoạt tính cao, ví dụ như: các nguồn phóng   xạ  của các phương tiện chuẩn đoán như  máy Xquang, máy chụp cắt lớp, v.v. có thể  gây ra một loạt các tổn thương chẳng hạn như  phá huỷ  các mô, nhiều khi gây bỏng   cấp tính (với một số trường hợp mức độ  bị  ảnh hưởng trầm trọng tới mức phải dẫn   tới việc xử lý loại bỏ hoặc cắt cụt các phần cơ thể bị ảnh hưởng.) Các nguy cơ từ các loại chất thải có chứa các đồng vị hoạt tính thấp có thể phát  sinh do việc nhiễm xạ  trên bề  mặt của các vật chứa, do phương thức hoặc khoảng   GVHD:Trân Văn Dũng 17 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  18. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN thời gian lưu giữ loại chất thải này. Các nhân viên y tế  hoặc những người làm nhiệm   vụ thu gom và vận chuyển rác khi phải tiếp xúc với chất thải có chứa các loại đồng vị  phóng xạ này là những người thuộc nhóm nguy cơ cao.  Tính nhạy cảm xã hội Bên cạnh việc lo ngại đối với những nguy cơ  lây bệnh của chất thải rắn y tế  tác động lên sức khoẻ, cộng đồng thường cũng rất nhạy cảm với những ấn tượng tâm  lý, ghê sợ đặc biệt là khi nhìn thấy loại chất thải thuộc về giải phẫu, các bộ phận cơ  thể  bị  cắt bỏ  trong phẫu thuật như: chi thể, dạ dày, các khối u, rau thai, bào thai nhi,   máu, tổ chức hoại tử, dập nát. 2.2.2. Ảnh hưởng của chất thải y tế tới sức khoẻ cộng đồng a/ Ảnh hưởng của các loại chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn Đối với những bệnh có khả năng truyền nhiễm, nguy hiểm do virus gây ra như  HIV/AIDS, viêm gan B hoặc C, những nhân viên y tế, đặc biệt các y tá, hộ lý là những   người có nguy cơ nhiễm cao nhất qua những vết thương do các vật sắc nhọn bị nhiễm  máu bệnh nhân gây nên. Các nhân viên hành chính của bệnh viện là những người vận   hành hệ thống quản lý chất thải trong phạm vi bệnh viện cũng như ngoài bệnh viện ở  các trạm xử lý chất thải của địa phương, khu vực cũng có nguy cơ đáng kể, chẳng hạn   như những nhân viên quét dọn vệ sinh, những người bới rác tại các bãi đổ  rác mặc dù  chưa có nhiều bằng chứng ghi nhận những nguy cơ này. Nguy cơ của loại bệnh truyền   nhiễm này trong số các bệnh nhân và cộng đồng không phải tiếp xúc với chất thải y tế  thấp hơn nhiều. Trong một số trường hợp, một vài bệnh truyền nhiễm lây truyền và   lan rộng ra cộng đồng xung quanh nhiều khi trở thành dịch, một bằng chứng được ghi  nhận là vụ dịch tả hoành hành ở Trung Mỹ năm 1996­1997 mà nghi can chính là nước   thải từ một bệnh viện truyền nhiễm  ở Peru không được xử lý và thải ra lưu vực, kết   quả là gây nhiễm bệnh và gây bùng phát thành dịch bệnh. Các trường hợp tai nạn riêng lẻ hoặc nhiễm trùng thứ phát do chất thải y tế gây   ra đều được chứng minh bởi các tài liệu đáng tin cậy. Tuy vậy nhìn chung vẫn khó   đánh giá trực tiếp ảnh hưởng của chất thải rắn y tế, đặc biệt là ở các nước đang phát  triển. Vẫn còn những nghi ngờ đối với những trường hợp nhiễm khuẩn với số lượng   lớn mà tác nhân gây bệnh do tiếp xúc với chất thải y tế. Tỷ lệ tổn thương hàng năm do các vật sắc nhọn trong chất thải y tế và dịch vụ  vệ  sinh môi trường cả trong và ngoài các bệnh viện gây ra đã được các cơ  quan đăng   ký độc chất và bệnh tật Hoa Kỳ (ATSDR) đánh giá. Nhiều tổn thương gây ra do kim   GVHD:Trân Văn Dũng 18 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  19. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN tiêm  trước khi vức bỏ  vào các thùng chứa, do những thùng chứa nhốt kim không kín  hoặc được làm bằng những loại vật liệu dễ bị rách, bị xuyên thủng. Một báo cáo của cơ  quan bảo vệ Hoa Kỳ (EPA) tại hội nghị chất thải y tế đã  đánh giá số  trường hợp nhiễm virus viêm gan B và C hàng năm do tổn thương gây ra  bởi các chất thải sắt nhọn có trong số  các nạn nhân có nhiều nhân viên y tế  và các   nhân viên trong hệ thống quản lý xử lý chất thải. Số người bị nhiễm virus viêm gan B  hàng năm ở Hoa Kỳ mà nguyên nhân do tiếp xúc với chất thải y tế vào khoảng từ 162  đến 321 ca so với tổng số 300.000 trường hợp bị nhiễm mới hằng năm. Có những tài liệu về các trường hợp nhiễm trùng khác liên quan tới chất thải y   tế nhưng không đầy đủ để có thể cho phép đưa ra bất kỳ một kết luận nào. Nhiều khi   dựa trên cơ sở các chỉ số viêm gan B cho thấy tất cả các nhân viên làm nhiệm vụ tiếp  xúc và vận chuyển chất thải y tế nên được tiêm chủng để  phòng chống lại bệnh tật,   nhưng đáng tiếc là cho đến nay vẫn chưa có loại vắc xin ngừa virus viêm gan C một   cách có hiệu quả. Nếu những thực tế ảnh hưởng của chất thải rắn y tế nguy hại được ngoại suy   áp dụng cho các nước đang phát triển, thì tác hại tới sức khoẻ  cộng  đồng còn có  khuynh hướng cao hơn. Lý do là việc tư  vấn và huấn luyện cho những nhân viên do  nhu cầu công việc phải tiếp xúc với chất thải rắn y tế  nguy hại  ở  những quốc gia   nghèo hay những quốc gia đang phát triển có thể không chặt chẽ cho lắm do vậy ngày  càng có nhiều người tiếp xúc với chất thải bệnh viện cả bên trong lẫn bên ngoài các   cơ sở y tế. Trong bất kỳ một cơ sở y tế nào, y tá và những nhân viên quản lý bệnh viện là  những nhóm nguy cơ  chính bị  tổn thương, tỷ lệ  tổn thương hàng năm của những đối   tượng này vào khoảng 10­20 phần nghìn. Tỷ  lệ  tổn thương cao nhất trong số  tất cả  các nhân viên có thể  đã tiếp xúc với chất thải đã được báo cáo với các nhân viên lao  công và nhân viên xử lý chất thải, tỷ lệ hàng năm ở Mỹ là 180 phần nghìn. Mặc dù các   tổn thương có liên quan đến công việc trong số các nhân viên y tế và những ngưới thu  gom rác hầu hết là các tổn thương cơ  lý như  sang chấn, bong gân, va đập và căng  thẳng mệt mỏi do làm việc quá sức. Tuy vậy vẫn có một tỷ lệ đáng kể các tổn thương  là do các vết cắt, đâm thủng do các vật sắc nhọn có lẫn trong chất thải rắn gây ra. Cho đến thời điểm hiện nay tại Việt Nam vẫn chưa có một công trình nghiên   cứu nào phản ánh được tình trạng tổn thương do nghề nghiệp của các nhân viên y tế  và các nhân viên các Công Ty Môi Trường Đô Thị cũng như người dân sống cận kề bãi  rác thải có lẫn rác từ các bệnh viện. b/ Ảnh hưởng của các chất thải hoá chất và dược phẩm GVHD:Trân Văn Dũng 19 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
  20. QUẢN LÍ CHẤT THẢI RẮN Trong khi không có tài liệu khoa học nào cho thấy mức độ  phổ  biến của bệnh  tật gây ra do chất thải hoá chất hoặc dược phẩm từ các bệnh viện đối với cộng đồng,   thì nhiều trường hợp nhiễm độc qui mô lớn do chất thải hoá chất công nghiệp đã xảy   ra. Cũng có một số  thông báo về  nhiều vụ  tổn thương hoặc nhiễm độc do việc vận   chuyển hoá chất và việc vận chuyển dược phẩm trong bệnh viện không đúng quy  cách. Các dược sĩ, bác sĩ gây mê, y tá, kỹ thuật viên, cán bộ hành chính có thể có nguy   cơ mắc các bệnh đường hô hấp, bệnh ngoài da do tiếp xúc với các loại hoá chất dạng   chất lỏng dễ  bay hơi, dạng phun sương và các dung dịch khác. Để  hạn chế  tới mức  thấp nhất loại nguy cơ nghề nghiệp này nên thay thế  hoặc giảm lượng hoá chất độc  hại xuống bất cứ lúc nào có thể và cung cấp các phương tiện bảo hộ cho tất cả những  người tiếp xúc trực tiếp với hoá chất. Những khoa phòng nơi sử  dụng và bảo quản  loại hoá chất nguy hiểm cũng nên được thiết kế  hệ  thống thông gió phù hợp, huấn  luyện các biện pháp phòng hộ cá nhân, tập thể và các kỹ năng xử lý, cấp cứu ban đầu   cho những người có liên quan. c/ Những ảnh hưởng của các chất thải gây độc gen Thực chất cần phải có đủ  thời gian để  thu thập những bằng chứng về   ảnh  hưởng lâu dài đối với sức khoẻ của các chất thải gây độc gen từ các cơ sở y tế, bởi vì   rất khó đánh giá  ảnh hưởng lâu dài đối với sức khoẻ  của các chất thải gây độc gen  trong y tế lên mối nguy cơ đối với con người. Một nghiên cứu được tiến hành ở Phần  Lan đã tìm ra một vài dấu hiệu liên quan giữa tỷ lệ sẩy thai trong ba tháng đầu của thai   kỳ  liên quan tới việc tiếp xúc nghề  nghiệp với các thuốc chống ung thư, nhưng các   nghiên cứu tương tự được tiến hành tại Pháp và Mỹ lại không xác nhận kết quả này. Có rất nhiều nghiên cứu được xuất bản và điều tra khả năng kết hợp giữa nguy  cơ đối với sức khoẻ và việc tiếp xúc với thuốc chống ung thư, biểu hiện bằng sự tăng   đột biến các thành phần trong nước tiểu  ở  những người đã tiếp xúc và tăng nguy cơ  sẩy thai. Một nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng những nhân viên quét dọn trong  bệnh viên phải tiếp xúc với nguy cơ hoá chất độc tế bào có hàm lượng chất này trong  nước tiểu tăng vượt trội so với những y tá và dược sĩ không phải chịu phơi nhiễm   trong bệnh viện đó. Phần lớn những đối tượng này thường ít ý thức được mối nguy   hiểm và do vậy ít áp dụng các biện pháp phòng hộ  hơn. Mức độ  tập trung của các  thuốc gây độc gen trong bầu không khí bên trong bệnh viện cũng đã được xem xét  trong một số nghiên cứu thiết kế để đánh giá các ảnh hưởng về sức khoẻ liên quan tới   việc tiếp xúc các yếu tố  có nguy cơ. Hiện vẫn chưa có những công bố  khoa học nào   ghi nhận những hậu quả bất lợi đối với sức khoẻ do công tác quản lý yếu kém đối với   các chất thải gây độc gen từ trong các cơ sở y tế như bệnh viện. GVHD:Trân Văn Dũng 20 SVTH: VŨ ĐÌNH PHONG
nguon tai.lieu . vn