Xem mẫu

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA KINH TẾ-QUẢN TRỊ KINH DOANH ----------&---------- BÀI TẬP NHÓM MARKETING NÔNG NGHIỆP GIÁ CẢ VÀ MARKETING TRONG NÔNG NGHIỆP Giáo viên hướng dẫn: Bùi Văn Trịnh Sinh viên thực hiên Nhóm1. 4 Cần Thơ 09/2010 GVGD Bùi Văn Trịnh 1 Nhóm 1.4 LỜI MỞ ĐẦU Trong hơn một thập kỷ qua, dưới tác động của đường lối đổi mới, nông nghiệp nông thôn Việt Nam dã có những chuyển biến đáng kể, nhiều tiềm năng trong nông thôn đã được khai thác có hiệu quả, vấn đề lương thực đã được giải quyết, cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo xu hướng tiến bộ, sự đa dạng về sản phẩm và mô hình phát triển kinh tế xuất hiện ở nhiều nơi. Từ một nước nghèo đói, lạc hậu Việt Nam đã vươn lên là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới, từng bước khẳng định được vị trí của mình trên trường quốc tế. Tuy nhiên để tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ của nông nghiệp cần phải giải quyết được hàng loạt vấn đề bất cập trong quá trình phát triển nông nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp nông nghiệp cho rằng chỉ cần tập trung mọi cố gắng sản xuất nhiều sản phẩm, tăng năng suất cây trồng vật nuôi, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật là chắc chắn thắng lợi. Họ không hề quan tâm đến nhu cầu thị trường đang cần gì. Điều đó cho thấy giữa người sản xuất, các doanh nghiệp nông nghiệp và người tiêu dùng vẫn còn một khoảng cách rất lớn. Khi người nông đân được mùa thì giá cả thị trường giảm xuống và ngược lại, họ luôn phải đối mặt với nỗi lo được mùa mất giá. Vì thế mà ngành nông nghiệp nước ta cứ mãi loay hoay tìm cách giải bài toán “trồng – chặt, chặt – trồng”. Trong khi đó, trong cơ chế thị trường muốn hoạt động có hiệu quả đòi hỏi người sản xuất phải tìm hiểu nhu cầu thị trường thật kỹ trước khi có quyết định sản xuất sản phẩm gì. Điều này đòi hỏi các nhà sản xuất phải có hoạt động marketing để tìm cách kết nối hoạt động sản xuất của mình với thị trường, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh hướng theo thị trường, lấy thị trường nhu cầu và ước muốn của khách hàng làm căn cứ quan trọng cho mọi quyết định sản xuất. Chính vì thấy được sự quan trọng của giá cả và khâu marketing trong nông nghiệp mà nhóm chúng em quyết định chọn đề tài “Giá cả và marketing trong nông nghiệp” để giúp người đọc có cái nhìn cụ thể hơn về quy luật cung - cầu và việc hình thành giá cả, sự quan trọng của marketing trong kinh doanh, về mối quan hệ của marketing và giá cả để từ đó có quyết định sản xuất và chính sách giá phù hợp. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này qua một trong những mặt hàng nông sản xuất khẩu mạnh của Việt Nam đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, đó chính là cà phê. GVGD Bùi Văn Trịnh 2 Nhóm 1.4 CHƯƠNG 4 GIÁ CẢ VÀ MARKETING TRONG NÔNG NGHIỆP I. GIÁ CẢ TRONG THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH 1.1 Đặc điểm của giá cả trong kinh doanh nông nghiệp Sản phẩm nông nghiệp luôn giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó là sản phẩm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của con người, là nguyên liệu cho nhiều ngành công nghiệp chế biến, tham gia xuất khẩu. Trong từng hoàn cảnh cụ thể, giá cả nông sản ngoài những đặc điểm chung của giá cả thị trường còn có những đặc điểm riêng chi phối đến sự lựa chọn và các quyết định về giá của doanh nghiệp nông nghiệp. Có nhiều cách tiếp cận để thể hiện vấn đề này, ở đây trong giới hạn kinh doanh nông nghiệp, đề cập đến những giá cả nông sản qua hai loại hàng hóa nông sản chủ yếu là nông sản tiêu dùng trực tiếp và nông sản tiêu dùng qua trung gian (chế biến, dịch vụ,…) 1.1.1 Đặc điểm của giá cả nông sản tiêu dùng trực tiếp Nông sản tiêu dùng trực tiếp là nông sản tươi sống, được các doanh nghiệp tiêu thụ trực tiếp cho các tổ chức và cá nhân cho những mục tiêu nhất định. Gía cả của nông sản trực tiếp có biến động lớn và chứa đựng nhiều rủi ro. Điều đó có thể do những nguyên nhân chủ yếu sau: - Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ, làm cho cung sản phẩm đó tập trung tại những giai đoạn nhất định, điều này chi phối đến quan hệ cung cầu của nông sản. - Nhu cầu tiêu dùng sản phẩm nông nghiệp chịu sự chi phối của yếu tố thời tiết. Ví dụ: những sản phẩm thanh nhiệt được tiêu dùng nhiều vào mùa nóng, khi nhiệt độ cao. Ngược lại khi lạnh, nhiệt độ thấp nhu cầu của sản phẩm đó giảm xuống. - Quan hệ cung cầu của sản phẩm trực tiếp rất đa dạng và phong phú. Nó bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, phong tục tập quán trong tiêu dùng chẳng hạn lúc nào người mua cũng thích hàng hóa tươi ngon đa số các bà nội trợ thích sử dụng nguyên liệu tươi ở chợ để chế biến thức ăn. - Các loại sản phẩm này thường trao đổi diễn ra trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo, nhiều người mua, nhiều người bán, giá cả là giá thị trường, độ co giãn cầu theo giá giá thấp. - Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác như tác động của tiến bộ kỹ thuật, sự xuất hiện của những sản phẩm thay thế,… GVGD Bùi Văn Trịnh 3 Nhóm 1.4 Đối với sản phẩm này có nhiều mức giá: + Giá mùa vụ (giá cả khác nhau đầu, chính, cuối vụ) + Giá khu vực (giá cả khác nhau giữa các khu vực) + Giá cả theo loại sản phẩm (giá cả khác nhau do phẩm cấp, do chất lượng sản phẩm) + Thậm chí khác nhau tại từng thời điểm trong ngày… Trên thị trường giá nông sản trực tiếp có xu hướng giảm. 1.1.2 Đặc điểm của giá cả nông sản tiêu dùng qua trung gian Nông sản tiêu dùng qua trung gian là những sản phẩm nông nghiệp đã được các tổ chức trung gian làm thay đổi thuộc tính của sản phẩm hoặc bổ sung những dịch vụ cho sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Giá nông sản tiêu dùng qua trung gian có những đặc điểm chủ yếu sau: + Có tính ổn định tương đối + Có xu thế tăng do tăng thêm các yếu tố dịch vụ trong khâu trung gian. Ví dụ: Cà phê là nông sản tiêu dùng qua trung gian nên giá của cà phê cũng tương đối ổn định. Chúng ta tham khảo Bảng giá cà phê dưới đây: Giá cà phê trong nước ĐVT:VND/ kg; giá FOB: USD/ tấn TT nhân xô 1/9/2010 Giá trung bình 15/09/2010 21/09/2010 Thay đổi 1/9/2010 15/09/201021/09/2010 ĐakLak Lâm Đồng Gia Lai Đaknông 28,200 – 28,400 28,100 – 28,300 29,000 – 29,200 28,200 – 28,400 28,100 – 28,300 29,000 – 29,200 28,100 – 28,300 28,000 – 28,200 28,900 – 29,100 28,100 – 28,300 28,100 – 28,200 28,900 – 29,100 + 100 + 400 - 300 + 100 + 400 -300 + 100 + 400 - 300 + 100 + 400 - 300 FOB ( HCM) 1,500 1,510 1,575Trừ lùi 100 Trừ lùi 80 Trừ lùi 80 Tỷ giá 19,607 19,607 19,607 USD/VND Nhìn chung giá cà phê biến động rất ít trong thời gian ngắn GVGD Bùi Văn Trịnh 4 Nhóm 1.4 1.2 Giá cả trong khoảng thời gian rất ngắn Trong quá trình tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp luôn chịu chi phối từ phía thị trường, từ các đối thủ cạnh tranh.. Trong hoàn cảnh đó, giá cả là công cụ đắc lực, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vượt qua áp lực thị trường, cũng như các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng cạnh tranh về giá là cạnh tranh sống còn, sắc bén giữa các doanh nghiệp trên thị trường cạnh tranh. Đặc biệt, với sản phẩm nông nghiệp giá cả biến động rất lớn và chứa đụng nhiều rủi ro khiến người sản xuất và người tiêu thụ sản phẩm khó có thể đoán trước và quyết định giá bán chính xác. Trong một khoảng thời gian rất ngắn thì cung sản phẩm hoàn toàn không co giãn. Đối với loại sản phẩm nàycó nhiều mức giá: - Giá mùa vụ (giá cả khác nhau đầu, chính, cuối vụ) - Giá khu vực (giá cả khác nhau giữa các khu vực) - Giá theo loại sản phẩm (giá cả khác nhau do phẩm cấp, do chất lượng sản phẩm) -Thậm chí giá có sự khác nhau tại từng thời điểm trong ngày Trên thị trường giá nông sản tiêu dùng trực tiếp có xu hướng giảm, mùa thu hoạch sản lượng nông sản thường được cung ra thị trường đồng loạt làm cho giá sản phẩm bị giảm. Đặc biệt, nông sản là loại sản phẩm khó tồn trữ, nếu như không dược tiêu thụ sớm sẽ bị thất thoát, chất lượng giảm và chi phí tồn trữ tăng lên. Tuy nhiên đối với một số nông sản được tiêu dùng qua trung gian thì giá cả có tính ổn định tương đối và có thể tăng nhờ các yếu tố dịch vụ trong khâu trung gian. Khi sản phẩm được tiêu thụ hết trong một khoảng thời gian rất ngắn và nhu cầu về sản phẩm đó còn cao thì những hàng được tồn trữ sẽ đạt được mức giá cao. Từ đó, cung và cầu trở nên co giãn nhiều hơn nhờ vào khả năng tồn trữ. Với muc tiêu tăng tối đa mức tiêu thụ, một số doanh nghiệp tin rằng khối lượng tiêu thụ càng lớn thì chi phí sản xuất một đơn vị sản phẩm càng thấp và lợi nhuận lâu dài càng cao. Với quan điểm này các doanh nghiệp thường ấn định mức giá thấp với hi vọng mở rộng thị trường và tăng khối lượng tiêu thụ. Theo mục tiêu này các doanh nghiệp chấp nhận lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm thấp nhưng tổng lợi nhuận và lâu dài lợi nhuận sẽ cao hơn do bán được nhiều hàng. Tuy nhiên việc định giá thấp chỉ diễn ra trong những điều kiện: thị trường rất nhạy cảm với giá, giá thấp kích thích thị trường, tăng trưởng, giá thấp phải đi liền với tiết kiệm chi phí sản xuất và lưu thong đồng thời với việc tích lũy kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh. GVGD Bùi Văn Trịnh 5 Nhóm 1.4 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn