- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Tiểu luận Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Liên hệ với việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay
Xem mẫu
- HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA LỊCH SỬ ĐẢNG
***
TIỂU LUẬN
MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Đề tài: VAI TRÒ CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG VIỆC THÀNH
LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM. LIÊN HỆ VỚI VIỆC
XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
Sinh viên thực hiện: Phạm Thành Nhân
Lớp: KHQLNN K40B Kiên Giang
- 2
KIÊN GIANG 2022
2
- MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài......................................................................................
2. Mục tiêu nghiên cứu.................................................................................
3. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................
PHẦN 2: NỘI DUNG............................................................................................
1. Tiểu sử vắn tắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh ...........................................
2. Tình hình xã hội Việt Nam và các phong trào đấu tranh
của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời........................................................
3. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện cần thiết
cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam........................................................
4. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng.................................................................................................................
a. Hội nghị thành lập Đảng..........................................................................
b. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng..................................................
c. Ý nghĩa lịch sử của sự ra đời Đảng cộng sản Việt Nam
và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng...........................................................
PHẦN 3: CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
TRONG THỜI KỲ MỚI.....................................................................................
1. Vai trò, sự cần thiết phải kết hợp xây dựng với chỉnh đốn Đảng.........
2. Một số giải pháp xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay......................
2.1. Tăng cường xây dựng Ðảng về chính trị, hoàn thiện đường
lối đổi mới và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện............................................
2.2. Tăng cường công tác tư tưởng; rèn luyện phẩm chất,
đạo đức cách mạng
2.2.1 Tăng cường công tác tư tưởng............................................................
2.2.2 Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân .......................................................................................
2.3. Ðẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí..........
2.4. Ðổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Ðảng
và của hệ thống chính trị........................................................................................
2.5. Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, công tác bảo vệ
chính trị nội bộ. ......................................................................................................
2.5.1 Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ.......................................................
2.5.2 Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ...........................................
2.6. Xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng; nâng cao
- chất lượng đảng viên.............................................................................................
2.6.1 Xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng.............................................
2.6.2 Nâng cao chất lượng đảng viên.........................................................
2.7. Ðổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát............................
2.8. Xây dựng và tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Ðảng
với nhân dân ...........................................................................................................
2.9. Ðổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Ðảng...................
PHẦN 4: KẾT LUẬN.................................................................................
- PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 1958 thực dân Pháp tiến hành cuộc xâm lược Việt Nam. Sau khi
thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chúng đã từng bước thiết lập chế độ thống
trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta, sau gần 30 năm
bình định bằng vũ trang, Việt Nam đã trở thành thuộc địa của Pháp. Giữa lúc
cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước,
ngày 561911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái
Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngoài, bắt đầu đi tìm con đường cứu nước. Người
đã bắt đầu hành trình cứu nước của mình trên con tàu đô đốc Latuso Torevin.
Kể từ giờ phút này, trái tim của Người đã thật sự hoà nhịp với trái tim của
những người dân An Nam, với những người dân ở các nước thuộc địa đang
sống trong sự thống khổ trái tim mong ước hoà bình và hạnh phúc cho nhân
loại. Giờ đây, Người đang sống cho cả dân tộc Việt Nam – một dân tộc mà
trong lịch sử không bao giờ chịu khuất phục trước giặc ngoại bang. Chính
nguồn gốc lịch sử oai hùng ấy, chính dòng máu của người dân Việt Nam ấy đã
nung đúc nên một con người mà tương lai sẽ trở thành ngọn đuốc soi đường
cho dân tộc bước qua muôn vàn thử thách. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
là con đường cách mạng duy nhất để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của
Đảng cộng sản Việt Nam đã gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc Hồ
Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta. Bác là người đầu tiên
gieo hạt giống MácLenin trên đất nước Việt Nam, làm cho cách mạng Việt
Nam nên hoa kết quả. Người đã trở thành người cộng sản đầu tiên của nước ta
khi gia nhập vào Quốc tế cộng sản và trở thành người có vai trò rất quan trọng.
Sau đó, Người tiếp tục thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niêntiền thân
của Đảng Cộng sản Việt Nam, với báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận của
Hội, góp phần truyền bá những tư tưởng tiến bộ vào đất nước. Tiếp đó, Người
đã hợp nhất ba tổ chức Đảng: Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam Cộng Sản
Đảng và Đông Dương cộng sản liên Đoàn thành Đảng Cộng sản Việt Nam và
dày công đào tạo cho Đảng ta một đội ngũ cán bộ ưu tú, chăm lo xây dựng
Đảng ta thành một khối đoàn kết, thống nhất, vững mạnh.
Đến nay, đã 91 năm trôi qua, kho lịch sử bằng vàng ấy đã tiếp tục toả
sáng trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam, đưa đến những bước ngoặt căn
bản, có tính cách mạng làm thay đổi cả vận mệnh dân tộc, thay đổi thân phận
của người dân và vị thế của đất nước Việt Nam trên đấu trường quốc tế. Cùng
quay lại trang sách lịch sử lúc bấy giờ, để thấy rõ được và trân quý hơn cuộc
- sống độc lập có được ngày hôm nay là một sự đóng góp hy sinh to lớn của
Người cha anh hùng, Người đã dành hết nửa phần cuộc đời cho mảnh đất hình
chữ S. Vai trò của Người được thể hiện rất rõ nét trong quá trình thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam cũng như trong quá trình giải phóng dân tộc thời kì
này. Đó cung là lý do mà e chọn đề tài “Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Liên hệ với việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng
hiện nay” làm tiểu luận kết nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu, sau khi học tập và kết thúc bài tiểu luận “ Vai trò của
Nguyễn Ái Quốc trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Liên hệ với việc xây
dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay” là nâng cao hiểu biết, nhận thức được công lao
to lớn của Chủ tịch nước Hồ Chí Minh, Người cha già dân tộc, danh nhân văn
hóa thế giới đã dùng cả cuộc đời cho độc lập, tự do của Tổ quốc và ấm no,
hạnh phúc cho Nhân dân và nâng cao nhận thức của cá nhân về công tác xây
dựng và chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ mới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu chủ yếu dựa trên giáo tập bài giảng Đường
lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Ngoài ra, còn được nghiên cứu
qua các nguồn internet, tài liệu chuyên môn khác,…
- PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Tiểu sử vắn tắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19/5/1890, tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung,
quê ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu
nước, lớn lên trên quê hương có truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm.
Nguyễn Ái Quốc lớn lên giữa nước mất nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than
của đồng bào đã nuôi chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc . Triều
đình phong kiến nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp, thực dân Pháp vạch ra
những chính sách đàn áp, bóc lột dã man lên nhân dân ta, khiến cho các phong
trào yêu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ. Lúc này triều đình phong kiến nhà
Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp, song phong trào đấu tranh chống thực dân
Pháp vẫn diễn ra. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư
sản cuối thế kỉ XIX Tiêu biểu là các phong trào Cần Vương, Cuộc khởi nghĩa
Yên Thế. Các cuộc khởi nghĩa này tuy diễn ra sôi nổi nhưng đều không thành
công. Với ý chí và quyết tâm đó, tháng 6/1911, Hồ Chí Minh đã rời Tổ quốc đi
sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc.
2. Tình hình xã hội Việt Nam và các phong trào đấu tranh của nhân
dân ta trước khi Đảng ra đời
*Tình hình xã hội Việt Nam trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
Từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam, từng bước
thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất
nước ta.
Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà
nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến một bộ phận của giai cấp tư
sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực, tạo nên sự cấu kết
giữa chủ nghĩa đế quốc và phong kiến tay sai, đặc trưng của chế độ thuộc địa.
Sự cai trị của chính quyền thuộc địa đã làm cho nhân dân ta mất hết quyền độc
- lập, quyền tự do dân chủ; mọi phong trào yêu nước bị đàn áp dã man; mọi ảnh
hưởng của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào đều bị ngăn cấm.
Về kinh tế, chúng triệt để khai thác Đông Dương vì lợi ích của giai cấp tư sản
Pháp, bóc lột tàn bạo nhân dân ta, thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự
phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý,
vô nhân đạo, kể cả duy trì bóc lột kiểu phong kiến... đẩy nhân dân ta vào cảnh
bần cùng, làm cho nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp, để lại
hậu quả nghiêm trọng, kéo dài.
Về văn hóa xã hội, chúng thực hiện chính sách ngu dân, khuyến khích
văn hoá nô dịch, sùng Pháp, nhằm kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối, dốt
nát, lạc hậu, phục tùng sự cai trị của chúng.
Quá trình khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp đã làm cho xã hội
Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản. Nước ta từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa
nửa phong kiến. Trong xã hội tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giữa
toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân
dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho
bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có
quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân
Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp
xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai không tách rời nhau.
Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân
sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra, cần được giải
quyết.
*Phong trào đấu tranh của nhân dân ta trước khi Đảng ra đời
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài, gian khổ, dân
tộc ta sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh
dũng, bất khuất. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên
tiếp đứng lên chống lại chúng. Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm
cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác
- nhau, như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần
Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi
nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các
cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực
dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại.
Nguyên nhân cơ bản dẫn tới thất bại của các phong trào đấu tranh là do
những người đứng đầu các cuộc khởi nghĩa, các phong trào chưa tìm được con
đường cứu nước phản ánh đúng nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam. Cách
mạng nước ta đứng trước sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.
Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh
giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy
giờ.
3. Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sự ra đời
của Đảng Cộng sản Việt Nam
Cuối thế kỷ XIX, sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay thực
thi các chính sách thực dân hà khắc, biến nước ta từ một nước phong kiến độc
lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc
diễn ra hết sức gay gắt. Hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng
khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó, tiêu biểu là
phong trào Cần Vương do Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng;
phong trào Đông Du của Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan Chu
Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo... Các cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì
thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả
năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc.
Xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, mang trong mình những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ngày 05/6/1911, người thanh
niên yêu nước Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Với
nhiều nghề lao động khác nhau để mưu sinh, tìm hiểu nền văn minh phương
Tây như Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc địa của đế quốc, thực dân, Người
đã rút ra một kết luận quan trọng: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo,
độc ác và ở đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công, Người từ nước Anh
trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị. Đầu năm 1919, Nguyễn
Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở
Pháp. Người đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới
- Hội nghị Vécxây bản yêu sách tám điểm. Tuy những yêu sách của Người không
được Hội nghị đáp ứng nhưng đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ: “Chủ nghĩa
Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn”
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đăng
trên báo L'Humanite (Nhân đạo), số ra ngày 16 và 17/7/1920. Những luận điểm
cách mạng của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề
cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân
tộc. Lý luận của V.I. Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về
cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Người xác định thái độ
ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng
Xã hội Pháp (tháng 12/1920). Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán
thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản do Lênin thành lập).
Đây cũng là sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam,
đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị
của Nguyễn Ái Quốc từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng
sản. Sự kiện đó cũng mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một
giai đoạn phát triển mới “giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với
phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà
chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác
Lênin”(3). Nguyễn Ái Quốc từ người tìm đường trở thành người dẫn
đường cho cách mạng Việt Nam, với những đóng góp to lớn có tính quyết
định cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã chuẩn bị các tiền
đề tốt nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
+Vê chinh tri:
̀ ́ ̣ Từ khi khăng đinh cach mang Viêt Nam đi theo con đ
̉ ̣ ́ ̣ ̣ ường
́ ̣ ̉ ̉
cach mang cua Chu nghia Mac – Lênin, Cach mang Thanh M ̃ ́ ́ ̣ ́ ươi Nga; tham gia
̀
̣ ̉
sang lâp Đang Công san Phap, nghiên c
́ ̣ ̉ ́ ưu quy luât hinh thanh cua cac đang công
́ ̣ ̀ ̀ ̉ ́ ̉ ̣
̉
san trên thê gi ́ ới, Nguyên Ai Quôc nhân thây s ̃ ́ ́ ̣ ́ ự cân thiêt phai chuân bi chu đao vê
̀ ́ ̉ ̉ ̣ ́ ̀
đường lôi chinh tri cua Đang kiêu m
́ ́ ̣ ̉ ̉ ̉ ới theo chu nghia Lênin
̉ ̃ ở Viêt Nam.
̣
Tac phâm Đ
́ ̉ ường Cach mênh (1927) cua Ng
́ ̣ ̉ ươi la s
̀ ̀ ự chuân bi tâp trung va chu
̉ ̣ ̣ ̀
́ ̀ ́ ̣
đao vê ly luân chinh tri cho Đang ta, đăt nên tang t
́ ̣ ̉ ̣ ̀ ̉ ư tưởng cho đường lôi chinh ́ ́
̣ ̉ ̣
tri cua cach mang Viêt Nam theo con đ
́ ̣ ường xa hôi chu nghia. Đ
̃ ̣ ̉ ̃ ường Cach mênh ́ ̣
̃ ̉ ̣ ̉ ̣
đa chi ra muc tiêu giai phong dân tôc tiên lên chu nghia xa hôi, nhiêm vu chu yêu,
́ ́ ̉ ̃ ̃ ̣ ̣ ̣ ̉ ́
trươc hêt cua cach mang Viêt Nam va cac n
́ ́ ̉ ́ ̣ ̣ ̀ ́ ươc thuôc đia la giai phong dân tôc;
́ ̣ ̣ ̀ ̉ ́ ̣
vê s ̀ ự cân thiêt phai đoan kêt gi
̀ ́ ̉ ̀ ́ ữa giai câp vô san ́ ̉ ở chinh quôc v́ ́ ới giai câp vô ́
̉ ̣
san thuôc đia, đoan kêt gi ̣ ̀ ́ ưa cac n ̃ ́ ươc thuôc đia hinh thanh măt trân chung chông
́ ̣ ̣ ̀ ̀ ̣ ̣ ́
- ̉
chu nghia đê quôc; vê kha năng nô ra va gianh thăng l
̃ ́ ́ ̀ ̉ ̉ ̀ ̀ ́ ợi trước cach mang vô san
́ ̣ ̉
̉ ̣
cua cach mang giai phong dân tôc
́ ̉ ́ ̣ ở cac ń ươc thuôc đia; cach mang Viêt Nam sau
́ ̣ ̣ ́ ̣ ̣
khi gianh thăng l ̀ ́ ợi se đi lên Chu nghia xa hôi. Cach mang muôn thăng l
̃ ̉ ̃ ̃ ̣ ́ ̣ ́ ́ ợi phai co ̉ ́
̉ ̣
Đang lanh đao, phai co ly luân khoa hoc dân đ
̃ ̉ ́ ́ ̣ ̣ ̃ ường va co đ ̀ ́ ường lôi, ph ́ ương
phap cach mang đung đăn.
́ ́ ̣ ́ ́
+Về tư tưởng: Nhận thấy muốn làm cách mạng phải tập hợp lực lượng
và sức mạnh của quần chúng, do đó, Nguyễn Ái Quốc chủ trương truyền bá
chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam nhằm làm chuyển biến nhận thức của
quần chúng nhân dân, đặc biệt là giai cấp công nhân, làm cho hệ tư tưởng Mác
Lênin từng bước chiếm ưu thế trong đời sống xã hội, làm cho phong trào yêu
nước tiến dần đến lập trường của giai cấp công nhân.
Sự chuân bi vê t ̉ ̣ ̀ ư tưởng ro net nhât cua Nguyên Ai Quôc la thông qua hoat
̃ ́ ́ ̉ ̃ ́ ́ ̀ ̣
̣
đông bao chi va tuyên truyên. Th
́ ́ ̀ ̀ ơi gian
̀ ở Phap, Ng ́ ươi cho xuât ban va lam chu
̀ ́ ̉ ̀ ̀ ̉
̣
nhiêm kiêm chu but cho t ̉ ́ ơ Le’Paria (Ng
̀ ươi cung khô) (t
̀ ̀ ̉ ừ sô 1 đên sô 15). Ng
́ ́ ́ ười
̉ ̀ ̣
viêt khoang 30 bai, tâp trung tô cao tôi ac cua chu nghia th
́ ́ ́ ̣ ́ ̉ ̉ ̃ ực dân va truyên ba
̀ ̀ ́
̉
Chu nghia Mac – Lênin vao cac n
̃ ́ ̀ ́ ước thuôc đia, trong đo co Viêt Nam.
̣ ̣ ́ ́ ̣
Thang 6.1925 tai Quang Châu, Ng
́ ̣ ̉ ươi cho xuât ban bao Thanh niên, c
̀ ́ ̉ ́ ơ
̣ ̉ ̣
quan ngôn luân cua Hôi Viêt Nam cach mang Thanh niên. Ngoai ra con môt sô ̣ ́ ̣ ̀ ̀ ̣ ́
́ ờ bao đinh ky khac nh
cac t ́ ̣ ̀ ́ ư: tờ tuân bao Công nông (xuât ban cuôi 1926 – 1928)
̀ ́ ́ ̉ ́
đôi t ́ ượng tuyên truyên chu yêu la công nhân va nông dân; t
̀ ̉ ́ ̀ ̀ ờ Linh cach mênh
́ ́ ̣
́ ̉
xuât ban đâu 1927 đên 1928, lây binh si Viêt Nam trong quân đôi Phap
̀ ́ ́ ̃ ̣ ̣ ́ ở Đông
Dương lam đôi t ̀ ́ ượng tuyên truyên. ̀
Tac phâm
́ ̉ Ban̉ an chê ́ ́ đô tḥ ực dân Phap (1925) ́ va ̀ Đường Cach mênh ́ ̣
(1927) vưa tô cao tôi ac cua th
̀ ́ ́ ̣ ́ ̉ ực dân vừa vach ra nh ̣ ưng vân đê chiên l
̃ ́ ̀ ́ ược và
́ ược cua cach mang, găn cach mang giai phong dân tôc
sach l ̉ ́ ̣ ́ ́ ̣ ̉ ́ ̣ ở thuôc đia v
̣ ̣ ơi cach́ ́
̣
mang vô san ̉ ở chinh quôc. ́ ́
̣ ̣ ́ ̣
Ngoai viêt sach, bao, tham luân tai cac hôi nghi, Nguyên Ai Quôc con tr
̀ ́ ́ ́ ̣ ̃ ́ ́ ̀ ực tiêp ́
̉ ̉
giang bai, thao luân. Ng
̀ ̣ ươi đa s ̀ ̃ ử dung nhiêu công cu, hinh th
̣ ̀ ̣ ̀ ưc, ph
́ ương phaṕ
̉ ̣ ̀ ̣ ́ ̉
đê vach trân tôi ac cua chu nghia th ̉ ̃ ực dân, tuyên truyên Chu nghia Mac – Lênin
̀ ̉ ̃ ́
̀ ̣
va đông viên nhân dân giac ngô lam cach mang.
́ ̣ ̀ ́ ̣
̀ ̉ ưć : Hoat đông th
+Vê tô ch ̣ ̣ ực tiên va ly luân sôi nôi trong phong trao công
̃ ̀ ́ ̣ ̉ ̀ ̣
̉
san quôc tê, Nguyên Ai Quôc s
́ ́ ̃ ́ ́ ớm đa nhân th̃ ̣ ức được vai tro quan trong cua công
̀ ̣ ̉
́ ̉ ưc xây d
tac tô ch ́ ựng Đang. Ng
̉ ươi đanh gia cao s
̀ ́ ́ ưc manh tô ch
́ ̣ ̉ ức cua nhân dân
̉
̣ ̣ ̃ ̀ ực lượng không lô chông chu nghia đê quôc.
thuôc đia se thanh l ̉ ̀ ́ ̉ ̃ ́ ́
̣ ̉
Tai Quang Châu (Trung Quôc), Ng ́ ươi đa tâp h
̀ ̃ ̣ ợp cac thanh niên Viêt Nam
́ ̣
yêu nươc tai đây thanh lâp nên Hôi Viêt Nam cach mang Thanh niên – môt tô
́ ̣ ̀ ̣ ̣ ̣ ́ ̣ ̣ ̉
- chưc yêu n ́ ươc, tiên công san, phu h
́ ̀ ̣ ̉ ̀ ợp vơi trinh đô cua phong trao cach mang
́ ̀ ̣ ̉ ̀ ́ ̣
̣
Viêt Nam luc bây gi ́ ́ ờ.
Thâm nhuân nguyên tăc xây d
́ ̀ ́ ựng Đang kiêu m ̉ ̉ ơi cua Chu nghia Mac –
́ ̉ ̉ ̃ ́
́ ́ ̣
Lênin, Nguyên Ai Quôc xac đinh Đang Công san phai co ly luân tiên phong dân
̃ ́ ̉ ̣ ̉ ̉ ́ ́ ̣ ̃
được, phai gi ̉ ữ vưng nguyên tăc tâp trung dân chu, t
̃ ́ ̣ ̉ ự phê binh va phê binh, ky ̀ ̀ ̀ ̉
luât t ̣ ự giac va nghiêm minh, đoan kêt thông nhât, găn bo v
́ ̀ ̀ ́ ́ ́ ́ ́ ới nhân dân.
Tin tưởng vao thanh niên thê hê tre va la t
̀ ́ ̣ ̉ ̀ ̀ ương lai cua dân tôc, Nguyên ̉ ̣ ̃
Ai Quôc không nh
́ ́ ưng tâp h ̃ ̣ ợp thanh niên vao môt tô ch ̀ ̣ ̉ ức ma con đao tao ho ̀ ̀ ̀ ̣ ̣
thanh nh ̀ ưng l ̃ ơp ng ́ ươi kiên trung cua Đang. Đo la Đinh Đ
̀ ̉ ̉ ́ ̀ ức Canh, Trân Phu, ̉ ̀ ́
Nguyên Văn C ̃ ừ, Lê Hông Phong… ̀
Băng nh
̀ ưng hoat đông tich c
̃ ̣ ̣ ́ ực vê moi măt cua Nguyên Ai Quôc, phong
̀ ̣ ̣ ̉ ̃ ́ ́
trao cach mang Viêt Nam đa co b
̀ ́ ̣ ̣ ̃ ́ ươc phat triên nhanh vê chât, nhanh chong vô
́ ́ ̉ ̀ ́ ́
̉ ̣
san hoa va thanh lâp cac nhom công san. Tuy nhiên, s
́ ̀ ̀ ́ ́ ̣ ̉ ự tôn tai va hoat đông riêng
̀ ̣ ̀ ̣ ̣
̃ ̉
re cua cac tô ch ́ ̉ ức công san nay gây kho khăn, bât l
̣ ̉ ̀ ́ ́ ợi cho phong trao cach mang ̀ ́ ̣
trong nươc. Vi thê đi đên thông nhât cac tô ch
́ ̀ ́ ́ ́ ́ ́ ̉ ức công san đê thanh lâp môt chinh ̣ ̉ ̉ ̀ ̣ ̣ ́
̉ ́ ̉
đang thông nhât cua cach mang Viêt Nam la môt sang tao cua Nguyên Ai Quôc,
́ ́ ̣ ̣ ̀ ̣ ́ ̣ ̉ ̃ ́ ́
̉ ̣
thê hiên công lao, tri tuê, uy tin va đao đ ́ ̣ ́ ̀ ̣ ức cach mang trong sang cua Ng
́ ̣ ́ ̉ ười.
̉ ̣
Đang Công san Viêt Nam ra đ ̉ ̣ ời thang 2 năm 1930 la b
́ ̀ ươc ngoăt lich s
́ ̣ ̣ ử vĩ
̣
đai, châm d ́ ưt th ́ ơi ky khung hoang vê măt tô ch
̀ ̀ ̉ ̉ ̀ ̣ ̉ ức cua cach mang Viêt Nam. ̉ ́ ̣ ̣
Đông th ̀ ơi thê hiên s
̀ ̉ ̣ ự vân dung va phat triên sang tao cac nguyên ly cua Chu
̣ ̣ ̀ ́ ̉ ́ ̣ ́ ́ ̉ ̉
̉
nghia Mac – Lênin cua Nguyên Ai Quôc vao viêc sang lâp môt chinh đang vô san
̃ ́ ̃ ́ ́ ̀ ̣ ́ ̣ ̣ ́ ̉ ̉
kiêu m ̉ ơi ́ ở môt n ̣ ươc thuôc đia n ́ ̣ ̣ ửa phong kiên, kinh tê ngheo nan, lac hâu. T
́ ́ ̀ ̀ ̣ ̣ ư ̀
̣
đây, cach mang Viêt Nam co Đang dân đ
́ ̣ ́ ̉ ̃ ường chi lôi. Trai qua 91 mua xuân, du
̉ ́ ̉ ̀ ̀
tinh hinh thê gi
̀ ̀ ́ ới co nhiêu biên đông, cach mang co nh
́ ̀ ́ ̣ ́ ̣ ́ ưng luc vô cung kho khăn,
̃ ́ ̀ ́
đứng trươc s ́ ự chông pha gay găt cua cac thê l
́ ́ ́ ̉ ́ ́ ực thu đich, Đang Công san Viêt
̀ ̣ ̉ ̣ ̉ ̣
Nam vân gi ̃ ữ vưng ban linh, gi ̃ ̉ ̃ ư ṽ ưng uy tin va vai tro lanh đao cach mang, đ
̃ ́ ̀ ̀ ̃ ̣ ́ ̣ ược
sự tin tưởng ung hô cua nhân dân, la l
̉ ̣ ̉ ̀ ực lượng duy nhât lanh đao cach mang Viêt ́ ̃ ̣ ́ ̣ ̣
Nam kiên đinh con đ ̣ ường đôc lâp dân tôc găn liên v
̣ ̣ ̣ ́ ̀ ới Chu nghia xa hôi. ̉ ̃ ̃ ̣
4. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng
a. Hội nghị thành lập Đảng
*Bối cảnh lịch sử
Đầu năm 1930, phong trào cách mạng thế giới phát triển mạnh mẽ. Liên
Xô lớn mạnh. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 1929 gây hậu quả
nặng nề đối với nhiều nước tư bản trong đó có thực dân Pháp, ở Đông Dương,
thực dân Pháp tăng cường các biện pháp quân sự hoá.
Sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái (21930) do Quốc dân Đảng lãnh đạo, thực
- dân Pháp càng tăng cường hơn các biện pháp đàn áp, khủng bố dã man.
Phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam phát triển mạnh
dưới sự lãnh đạo của các tổ chức cộng s ản đầu tiên ở Việt Nam. Tuy nhiên, do
hoạt động phân tán nên có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Yêu cầu thống nhất
các tổ chức cộng sản để thành Đàng Cộng sản duy nhất đặt ra cấp bách.
Tháng 10 1929, Quốc tế Cộng sản g ửi tài liệu yêu cầu những người
cộng sản Đông Dương phải khắc phục ngay sự chia rẽ và thành lập một Đảng
của giai cấp vô sản và có mối quan hệ với phong trào cách mạng thế giới.
Từ tháng 71928, Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Xiêm. Nhận được tin về
sự chia rẽ của những người cộng sản Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm
trở lại Hương Cảng (Trung Quốc). Với tinh thần trách nhiệm cao của người
cộng sản chân chính và vói tư cách là Uỷ viên Bộ Phương Đông, phụ trách cục
Phương Nam của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập các đại biểu
của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến dự Hội nghị
họp nhất các tổ chức cộng sản. Người dự thảo các văn kiện: Chính cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt, Chương trình tóm tắt; dự kiến thời
gian, địa điểm, cách thức tổ chức Hội nghị.
Từ ngày 61 đến ngày 7 2 1930 (dịp Tết Canh Ngọ), tại xóm nhỏ của
người lao động ở bán đảo Cửu Long, Hương Cảng (Trung Quốc), Nguyễn Ái
Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản, thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Dự Hội nghị có 2 đại biểu của Đông Dương cộng sản Đàng là Trịnh Đình
Cửu, Nguyễn Đức Cảnh; 2 đại biểu của An Nam cộng s ản Đảng là Châu Văn
Liêm và Nguyễn Thiệu. Hai đại biểu đang hoạt động ở Hồng Công, Trung
Quốc dự không chính thức là Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn. Tổng sổ đ ảng
viên của Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng khi đó có
khoảng 500 người. Đông Dương cộng sarn Liên Đoàn vừa thành lập, không kịp
nhận thông báo cử người đến dự.
* Nội dung Hội nghị
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thảo luận và nhất trí 5 nội dung
do Nguyễn Ái Quốc đề nghị:
Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các
nhóm cộng sản Đông Dương.
Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm
tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng.
Quyết định phương châm, kế hoạch thực hiện việc thống nhất các tổ
- chức Đảng trong nước; quyết định ra báo, tạp chí của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Cử một Ban Trung ương lâm thời gồm chín người, trong đó có hai đại
biểu chi bộ cộng sản Trung Quốc ở Đông Dương.
Hội nghị còn dự kiến tổ chức Đoàn Thanh niên cộng sản, Hội Tương tế,
Hội phản đế, mở rộng ảnh hường của công xã Quảng Tây, bảo vệ Liên Xô và
cách mạng Trung Quốc.
Ngày 2421930, theo yêu cầu của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn,
Trung ương lâm thời của Đảng họp quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam (21930) có ý nghĩa
như Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
b. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:
Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông
qua tại Hội nghị thành lập Đảng, có hai văn kiện, đó là: Chánh cương vắn tắt
của Đảng và Sách lược vắn tắt của Đảng (8) đã phản ánh về đường hướng
phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược và sách lược của cách mạng
Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện trên là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh đã xác định các vấn đề cơ bản về chiến lược,
sách lược của cách mạng Việt Nam như sau:
Một là, phương hướng chiến lược của cách mạng: Làm tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Nói cách
khác là làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giành độc lập dân tộc, đánh
đổ phong kiến, giành dân chủ, ruộng đất cho nông dân và tiến lên chủ nghĩa
cộng sản.
Hai là, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng bao gồm:
Về chính trị: Đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho nước Việt
Nam được hoàn toàn độc lập; lập ra Chính phủ công nông binh; tổ chức ra quân
đội công nông.
Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu hầu hết sản nghiệp
lớn (như công nghiệp, vận tài, ngân hàng, v.v) của tư bản để quốc Pháp để giao
cho Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu hết ruộng đất của để quốc làm
của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang
công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.
Về văn hoá xã hội: Dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền,
v.v; phổ thông giáo dục theo công nông hoá.
Ba là, về lực lượng cách mợng: Đảng phải thu phục cho được đại đa số
- nông dân và phảị dựa vào nông dân nghèo làm cách mạng ruộng đất. Đảng phải
hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân Việt, ...
để kéo họ đi vào phe giai cấp vô sản.
Đối với phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư bản An Nam chưa lộ rõ
mặt phàn cách mạng thì lợi dụng, sau đó làm cho họ trung lập. Kẻ nào đã ra
mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Bốn là, về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Đảng là đội tiền phong của giai cấp vô sản phải thu
phục được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo dân
chúng đánh đổ đế quốc, tay sai, để ủng hộ sự nghiệp cách mạng của Đảng. Khi
liên lạc với các giai cấp khác, Đảng phải đứng vững trên lập trường của giai
cấp công nhân và dân tộc, không khi nào nhân nhượng, thoả hiệp.
Năm là, về phương pháp cách mạng: Tiến hành bạo lực cách mạng giành
chính quyền. Chính phù công nông binh phải nhanh chóng t ổ chức quân đội
công nông để bảo vệ những thành quả cách mạng, đập tan mọi sự kháng cự
của thế lực phản cách mạng.
Sáu là, về quan hệ của cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng
thế giới: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận cách mạng của thế giới, phải
đồng thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai
cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ra đời ngay khi thành lập Đảng,
đã giải đáp đúng những vấn đề cơ bản nhất c ủa cách mạng Việt Nam, đặt nền
tàng đoàn kết, thống nhất giữa tư tưởng với hành động của toàn Đảng, toàn
dân, tạo ra sức mạnh tổng hợp đưa cách mạng Việt Nam từ đây phát triển.
Với Cương lĩnh chính trị, Đảng cộng sản Việt Nam sớm khẳng định vai trò lãnh
đạo duy nhất của mình. Với tư tưởng cốt lõi là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh chính trị đầu tiên là sự vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác Lênin vào thực tiễn Việt Nam, là cơ sở quyết định mọi thăng lợi
của cách mọng Việt Nam.
c. Ý nghĩa lịch sử của sự ra đời Đảng cộng sản Việt Nam và Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh
dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam trong thời đại mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại của cách mạng nước ta.
“Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách
mạng Việt Nam nước ta. Nó chứng tỏ rằng, giai cấp vô sản ta đã trưởng thành
- và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.
Đảng ra đời với Cương lĩnh chính trị đúng đắn đã chấm dứt thời kỳ bế
tắc, khủng hoảng “như trong đêm tối không có đường ra” về đường lối cứu
nước Việt Nam, đồng thời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết
định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc
Việt Nam; đặt nền tảng cho truyền thống đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc,
đoàn kết quốc tế. Cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận khắng khít của
cách mạng thế giới; chứng minh sự đúng đắn của chủ nghĩa Lênin về xây dựng
Đảng cộng sản kiểu mới trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Quá trinh vận động ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã để lại cho cách
mạng những kinh nghiệm quý giá: Kinh nghiệm về sự truyền bá chủ nghĩa Mác
Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Kinh
nghiệm về sự cần thiết phải có lý luận Mác Lênin làm cốt trong Đ ảng. Kinh
nghiệm về xây dựng Đảng kiểu mới của chủ nghĩa Lênin.
Đảng ra đời gắn liền với công lao to lớn cùa Nguyễn Ái Quốc Người
sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam. Thắng lợi cùa cách
mạng Việt Nam hơn 80 năm qua chứng tỏ sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam là sự mở đầu cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
PHẦN 3:
CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG THỜI KỲ
MỚI
1. Vai trò, sự cần thiết phải kết hợp xây dựng với chỉnh đốn Đảng
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, cấp bách,
có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
sự tồn vong của Đảng và chế độ, sự phát triển bền vững của đất nước. Với ý
nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt đó, kể từ khi ra đời đến nay, trong các văn kiện
đại hội Đảng, các hội nghị trung ương và trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo sự
nghiệp cách mạng, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một nội dung trung tâm, vấn
đề then chốt trong hoạt động và tổ chức của Đảng. Bản thân nhiều đồng chí
lãnh đạo Đảng tiền bối và hiện nay, bên cạnh là lãnh tụ chính trị, đồng thời
cũng là nhà lý luận, có nhiều bài viết, tác phẩm về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Xây dựng và chỉnh đốn Đảng là hai mặt của một quá trình. Xây dựng là
việc xác lập, hình thành đường lối, Cương lĩnh chính trị, các quy định, quy chế;
làm cho tư tưởng của cán bộ, đảng viên phù hợp, thống nhất cao và tin tưởng
vào đường lối, chủ trương của Đảng; là việc xây dựng tổ chức, cán bộ,
phương thức lãnh đạo,... Chỉnh đốn là việc uốn nắn, chấn chỉnh, sắp đặt lại
- cho đúng theo quy định, Điều lệ Đảng; xử lý, đấu tranh chống sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực,... Xây dựng và chỉnh
đốn Đảng liên quan mật thiết với nhau, gắn liền với nhau, bổ trợ, tác động đến
nhau. Trong xây dựng có chỉnh đốn, trong chỉnh đốn có xây dựng.
Trong mỗi giai đoạn, thời kỳ, căn cứ vào đặc điểm, bối cảnh, yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng, xây dựng và chỉnh đốn Đảng có nhiệm vụ trọng tâm
khác nhau. Nếu như trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, trong các cuộc
kháng chiến chống thực dân, đế quốc, xây dựng, chỉnh đốn Đảng tập trung chủ
yếu vào nhiệm vụ hoạch định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, đường
lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo; thống nhất tư tưởng và hành động, chống
ngả nghiêng, dao động trước khó khăn, khi đối mặt nguy cơ sinh tử, mất còn;
củng cố lòng tin, nâng cao ý chí, tăng cường quyết tâm kháng chiến..., thì trong
thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước, xây dựng, chỉnh đốn Đảng tập trung vào
việc nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ
để Đảng đủ sức lãnh đạo công cuộc đổi mới; đấu tranh chống sự suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực,... trong bộ máy
Đảng và Nhà nước.
Hiện nay, công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế càng sâu rộng lại càng xuất hiện những vấn đề
mới, những khó khăn, thách thức đòi hỏi Đảng phải luôn tự đổi mới, tự chỉnh
đốn để đủ sức lãnh đạo cách mạng. Tinh thần tự đổi mới, tự chỉnh đốn đã
được Đảng ta phát huy cao độ trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, trong
cách mạng giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, trở thành truyền thống tốt đẹp
của Đảng; nhờ đó, Đảng không ngừng lớn mạnh, vượt qua mọi sóng gió, những
bước ngoặt của lịch sử để lãnh đạo cách mạng Việt Nam thành công. Trong
thời kỳ hòa bình, xây dựng, phát triển đất nước, truyền thống đó cần tiếp tục
được phát huy lên một tầm cao mới, với chất và lượng mới, trở thành ý thức
thường trực trong mỗi cán bộ, đảng viên, cấp ủy, tổ chức đảng để tạo thành
nguồn sức mạnh to lớn giúp Đảng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách tiếp tục
đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên.
Thực tiễn sau khi đất nước thống nhất, bước vào công cuộc đổi mới cũng cho
thấy, việc kết hợp giữa xây dựng với chỉnh đốn Đảng còn một khoảng cách.
Về lý luận, trong nhiều văn kiện, nghị quyết của Đảng đã đề cập đến xây
dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện
lại chưa chú ý đúng mức, chưa chỉ đạo kiên quyết việc chỉnh đốn Đảng, chưa
kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh, xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm quy định, Điều
lệ Đảng. Việc kết hợp giữa xây dựng với chỉnh đốn chưa hài hòa, hiệu quả,
- chưa có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Đây là một trong những nguyên nhân
lý giải vì sao từ khi đất nước thống nhất, đặc biệt là bước vào công cuộc đổi
mới, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng,
tiêu cực, quan liêu, “lợi ích nhóm”,... diễn ra ngày càng nghiêm trọng trong một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị
không từ một thủ đoạn nào nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và
đất nước. Chúng tìm đủ mọi cách để mưu toan phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng, xuyên tạc rằng, Đảng phạm nhiều sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo,
chỉ đạo; đảng cộng sản lãnh đạo mất dân chủ, công tác phòng, chống tham
nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là cuộc “đấu
đá nội bộ”, “phe này cánh kia”, “nhẹ trên nặng dưới”; xuyên tạc công tác cán
bộ, mưu toan hạ bệ hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh, trắng trợn cho rằng chủ
nghĩa Mác Lênin đã lỗi thời, không thể làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam
cho hành động của Đảng,...
Tất cả những vấn đề lý luận và thực tiễn trên cho thấy, việc nhận thức đúng
đắn, đầy đủ, sâu sắc ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng nói
chung, kết hợp xây dựng với chỉnh đốn Đảng nói riêng là hết sức quan trọng,
cấp bách, tạo cơ sở cho việc triển khai thực hiện một cách hài hòa, chặt chẽ,
hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm giữa “xây” và “chống”, “chống” và “xây”
nhằm tiếp tục tạo chuyển biến thực chất trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
2. Một số giải pháp xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay
2.1. Tăng cường xây dựng Ðảng về chính trị, hoàn thiện đường lối
đổi mới và nâng cao năng lực tổ chức thực hiện.
Cụ thể hóa, pháp luật hóa và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối
chính trị, chiến lược phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc, gắn kết
chặt chẽ và đồng bộ các nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng
Ðảng là then chốt và phát triển văn hóa nền tảng tinh thần của xã hội.
Ðảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc;
tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, tri thức mới của thời đại, nâng cao năng
lực trí tuệ; phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước; tiếp tục đổi mới mạnh
mẽ tư duy lý luận, kiên định về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt, sáng tạo về
sách lược, phương pháp; chống giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc đổi mới vô
nguyên tắc, chủ quan, nóng vội.
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tổ chức để nhân dân tham gia xây
dựng đường lối, chủ trương, quyết sách quan trọng của Ðảng, Nhà nước. Coi
- trọng nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương; tăng cường
kiểm tra, giám sát; thường xuyên bám sát và kịp thời tổng kết thực tiễn, phát
hiện, ủng hộ và nhân rộng những nhân tố mới, qua thực tiễn làm sáng tỏ những
vấn đề mới, bổ sung, hoàn thiện và phát triển đường lối.
Xúc tiến nghiên cứu bổ sung, phát triển Cương lĩnh của Ðảng phù hợp với yêu
cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
2.2. Tăng cường công tác tư tưởng; rèn luyện phẩm chất, đạo đức
cách mạng.
2.2.1 Tăng cường công tác tư tưởng:
Chủ động hơn trong công tác tư tưởng. Nghiên cứu xây dựng chiến lược
công tác tư tưởng trong tình hình mới.
Ðổi mới mạnh mẽ nội dung, hình thức, biện pháp giáo dục chủ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ
trương của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bồi dưỡng lòng yêu
nước, yêu nhân dân, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tăng cường
giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng trong toàn Ðảng, toàn dân, đặc biệt là
đối với thế hệ trẻ. Chăm lo củng cố sự đoàn kết, thống nhất và tình đồng chí
trong Ðảng, sự đồng thuận trong xã hội; thực hành dân chủ rộng rãi, thường
xuyên tự phê bình và phê bình.
Công tác tư tưởng cần nâng cao tính chiến đấu và sức thuyết phục. Bám sát
thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng và những vướng mắc trong tư tưởng
của cán bộ, đảng viên và nhân dân để giải đáp sát thực, kịp thời; đấu tranh khắc
phục những biểu hiện phai nhạt lý tưởng, cơ hội, chạy theo lợi ích cá nhân;
chủ động và kiên quyết phê phán những quan điểm sai trái, bác bỏ những luận
điệu phản động, góp phần làm thất bại mọi mưu toan "diễn biến hòa bình",
bạo loạn, lật đổ của các thế lực thù địch.
Tiếp tục đổi mới tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, kịp thời làm sáng tỏ hơn những vấn đề bức xúc về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; về kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; về Ðảng cầm quyền và công tác xây dựng Ðảng; về xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân; về tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân... Chú
trọng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn và sự mạnh dạn khám phá, sáng tạo
trong công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận. Sớm xây dựng và ban
hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận.
Tiếp tục cụ thể hóa chiến lược phát triển văn hóa, giữ gìn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu những thành tựu và tinh hoa văn hóa của nhân
nguon tai.lieu . vn