- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Tiểu luận: Dư luận xã hội có vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa, đấu tranh hạn chế các sai lệch xã hội
Xem mẫu
- LỜI MỞ ĐẦU
Dư luận xã hội có vai trò to lớn trong quản lý xã hội và trong suốt
quá trình phát triển của lịch sử loài người. Sức mạnh của dư luận xã hội từ
lâu đã đóng một vai trò quan trọng trong đời sống con người. Rất ít người
phủ nhận sự tác động của dư luận đến việc điều chỉnh hành vi của các cá
nhân, nhóm người trong xã hội và vai trò của dư luận cũng đặc biệt quan
trọng đối với các nhà lãnh đạo quản lý trong việc hoạch định những chiến
lược, đường lối, chủ trương và đưa ra các quyết định quản lý nhằm đạt
được những mục đích đã đề ra.
Trong đời sống xã hội, có những tin đồn gây ra hệ lụy cho cá nhân và
nhóm người nào đó. Tin đồn chủ yếu lây lan qua truyền miệng, nhưng cũng
có trường hợp tin đồn được lan truyền thông qua báo chí. Chính vì vậy, dân
gian thường có câu ‘báo lá cải, hay ‘đưa tin vịt’ quan niệm rằng báo chí là
hóng hớt, đưa chuyện… Ngày nay, đó vẫn là một hiện tượng không hiếm
trong nền báo chí nước nhà.
Cần nhấn mạnh tới một trong những nhiệm vụ chính của báo chí, đó
là minh bạch hóa các nguồn thông tin, hạn chế nhận thức sai lệch và loại
bỏ tin đồn thất thiệt trong xã hội. Muốn vậy, đội ngũ làm công tác báo chí –
tư tưởng phải có năng lực phân tích, đánh giá, phán xét dư luận xã hội,
phân biệt rõ giữa dư luận xã hội và tin đồn cũng như những tác động tiêu
cực của tin đồn trong đời sống xã hội.
Vậy, thật ra dư luận xã hội là gì? Nó có vai trò như thế nào trong
quá trình phát triển của xã hội nói chung và trong công tác quản lý nói
riêng? Giữa dư luận xã hội và sai lệch xã hội có mối quan hệ gì? Bằng
kiến thức Xã hội học về dư luận xã hội và sai lệch xã hội chúng ta hãy làm
1
- rõ các vấn đề: “Dư luận xã hội có vai trò quan trọng trong việc ngăn
ngừa, đấu tranh hạn chế các sai lệch xã hội”
2
- NỘI DUNG
1. Các khái niệm
1.1 Dư luận xã hội
Dư luận là hiện tượng tâm lý bắt nguồn từ một nhóm người, biểu
hiện bằng những phán đoán, bình luận, quan điểm về một vấn đề nào đó
kèm theo thái độ cảm xúc và sự đánh giá nhất định, được truyền từ người
này tới người kia, nhóm này sang nhóm khác. Nó có thể được truyền đi một
cách tự phát hoặc được tạo ra một cách cố ý. Nếu được lan truyền rộng rãi
và lặp lại thì trở thành dư luận xã hội. Dư luận cũng có thể hình thành từ
những định kiến xã hội hay là từ những tác động truyền thông, phong
trào,....
Dư luận có mặt tích cực và tiêu cực dựa vào các nguồn tin mà từ đó
nó hình thành. Nếu nó hình thành dựa vào nguồn tin xác thực thì sẽ trở
thành thông tin hữu ích khi nói lên những gì mà mọi người nghĩ về sự việc
đó, còn nếu hình thành khi không có căn cứ hoặc dựa vào nguồn thông tin
không rõ ràng cho dù là cố ý hay vô ý, nó có thể tạo tin đồn nhảm và có thể
bị sử dụng cho một mục đích nào đó. Dư luận đôi khi có thể xâm phạm rất
mạnh vào quyền riêng tư của cá nhân cho dù là đúng hay không.
Dư luận xã hội là ý kiến chung của công chúng về một vấn đề nào
đó mà họ quan tâm, là một hình thức biểu thi trạng thái, ý kiến của xã hội,
của một cộng đồng người rộng lớn như: giai cấp, dân tộc, tầng lớp xã hội,
nhân dân... Là sự phán xét, đánh giá biểu thị thái độ của cộng đồng ấy.
Dư luận xã hội còn gọi là công luận là một hiện tượng thuộc lĩnh
vực đời sống tinh thần của xã hội, nó là một hình thức biểu hiện của sự
phán xét, đánh giá, biểu thị thái độ của một cộng đồng người rộng lớn (giai
cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, nhân dân..) đối với các một vấn đề một sự
kiện, hiện tượng xã hội nào đó có liên quan đến nhu cầu và lợi ích của họ.
3
- Tuy nhiên, chúng ta cần phân biệt dư luận xã hội với tin đồn bởi tác
động của cả 2 hoàn toàn khác nhau.
1.2 Tin đồn
Tin đồn là một dạng dư luận xã hội phi kiểm chứng, khó kiểm
chứng. Tin đồn là hiện tượng truyền thông tin từ cá nhân này sang cá nhân
mang nặng chính kiến, yếu tố chủ quan của cá nhân, bao hàm cả sự phóng
đại vì vậy nó có thể ban đầu xuất phát từ sự thật nhưng do qua lan truyền
tính bịa đặt khá cao làm sai lệch so với thông tin ban đầu. Tin đồn thường
lan truyền thông tin không chính thức và không có trách nhiệm xã hội. Còn
dư luận xã hội là biểu thị ý kiến, sự đánh giá và thái độ của tập thể, của số
đông nhiều người, mang tính khách quan và được truyền đi một cách công
khai, chính thức trên các thông tin đại chúng và có tính trách nhiệm xã hội
cao bởi nó hàm chứa, gợi ý cả cách giải quyết vấn đề
Khi bàn về ‘Lời đồn đại trong xã hội: Nguồn gốc và sự phát triển’,
Osipov cho rằng ‘lời đồn đại là những thông tin, tin tức mà không có sự
đảm bảo của cơ sở khoa học khác nhau giải thích’. Còn nhà xã hội học
Sibutani nhận xét, chức năng của lời đồn có lien quan tới sự phát triển của
truyền thông; lời đồn đại liên quan tới các hành vi của nhóm người thường
là tự phát và không có tổ chức.
2. So sánh dư luận xã hội với tin đồn
Trong cuốn ‘Dư luận xã hội trong sự nghiệp đổi mới’, các tác giả đã
rút ra được những điều sau:
Về sự giống nhau, cả dư luận xã hội và tin đồn đều là kết cấu tinh
thần, tâm lý đặc trưng cho những nhóm xã hội nhất định; trong cấu trúc của
chúng đều có cả thành phần lý trí lẫn cảm xúc, tuy nhiên trong tin đồn yếu
tố cảm tính là chủ yếu; Cả hai dường như có chung nguồn gốc từ một sự
việc, sự kiện ban đầu lien quan tới lợi ích, cảm xúc của một hoặc một
nhóm người; Đều lan truyền nhanh và dễ biến dạng.
4
- Về sự khác nhau, thứ nhất là nguồn gốc, dư luận xã hội xuất phát từ
sự kiện có thật bởi vật mức độ chân thật cũng cao hơn. Tin đồn xuất phát
từ sự kiện có thật hoặc không có thật nhưng bị làm méo mó đi, hoặc hoàn
toàn do chủ thể truyền tin tưởng tượng ra.
Thứ hai, về cơ chế hình thành, dư luận xã hội là sự phán xét, đánh
giá chung được hình thành thông qua giao tiếp, trao đổi, tranh luận giữa các
cá nhân trong cộng đồng, chính kiến cá nhân chỉ là một ý kiến trong ý kiến
chung. Ngược lại, tin đồn đề cao chính kiến cá nhân của người truyền tin,
thông tin của tin đồn thường bị nhào nặn.
Thứ ba, về phương thức lan truyền, dư luận xã hội được lan truyền
bằng cả lời nói và chũ viết, cả con đường chính thức và không chính thức,
cả công khai lẫn bí mật. Còn tin đồn truyền đi bằng miệng là chủ yếu, theo
con đường không chính thức, bí mật.
Về bản chất, dư luận xã hội là sự phán xét, đánh giá chung, biểu thị
thái độ đồng tình hay phản đối của đại đa số trong cộng đồng… Tin đồn
chỉ là thông tin đơn thuần về sự kiện, chứa đựng nhiều thiên kiến, quan
điểm cá nhân.
Việc phân biệt rạch ròi giữa dư luận xã hội và tin đồn sẽ giúp báo
chí tránh khỏi việc đưa những thông tin gây thiệt hại cho công chúng và bất
lợi trong xã hội.
3 Bản chất dư luận xã hội
Dư luận xã hội có những đặc trưng, bản chất như sau:
Dư luận xã hội không chỉ thể hiện một mặt riêng lẽ nào đó của ý
thức xã hội như triết học, đạo đức học, ý thức chính trị, tôn giáo ... mà còn
là sự thể hiện một cách tổng hợp của ý thức xã hội trong một thời gian
nhất định, bao gồm cả mặt ý thức hệ và tâm lý xã hội. Khi đã hình thành dư
luận xã hội, bản thân của dư luận đã là sự nhào nặn tác động qua lại của
các hình thái ý thức xã hội. Chính vì vậy, trước một vấn đề, những nhóm
5
- xã hội có quan điểm trình độ chính trị, thời gian, văn hóa, đạo đức... khác
nhau thì sẽ có cách thức thể hiện ý kiến dư luận khác nhau
Dư luận xã hội mang tính hiện thực, bởi vì mặc dù là một hiện
tượng tinh thần nhưng dư luận xã hội gắn rất chặt với hiện thực, nó có
tác động to lớn đối với thực tiễn, nó phản ánh tâm tư nguyện vọng, lợi ích,
nhu cầu của công chúng. Dư luận xã hội không phải là cái tạo ra để làm
phong phú đới sống tinh thần mà là để điều chỉnh tác động đến thực tiễn.
Trong bản thân dư luận bao giờ cũng chứa đựng yếu tố trình độ nhận thức
tư tưởng và thái độ, tâm thế, xung hướng hành động của công chúng. Vì
vậy, dư luận xã hội là cầu nối giữa nhận thức và hành động thực tiễn,
Trong xã hội có giai cấp, dư luận xã hội luôn luôn mang tính giai cấp
sâu sắc, xuất phát từ lợi ích giai cấp.
Dư luận xã hội mang tính kinh nghiệm, đựơc hình thành dựa trên cơ
sở của kinh nghiệm đời sống và trên những quan hệ trực tiếp chứ không
phải bằng con đường nhận thức, tư duy phân tích lôgíc. Vì vậy, dư luận xã
hội vừa có tính thuyết phục cao nhưng mặt trái của nó là cũng có khi dư
luận không chính xác, không phản ánh đúng bản chất của vấn đề. Vì vậy,
khi tiếp cận dư luận xã hội ta phải nhận thức rõ điều này.
Dư luận xã hội như là một cơ chế tâm lý xã hội,nghĩa là có sức
mạnh áp đặt ép buột chi phối đối với hành động của cá nhân. Nếu là dư
luận tích cực, cá nhân hoặc nhóm sẽ cảm thấy được nâng lên, thăng hoa,
nhưng nếu là dư luận tiêu cực có thể làm cho con người bắt buộc tuân
theo, suy sụp đôi khi dẫn người ta đến chổ tự tử.
Dư luận xã hội tồn tại, phát triển biến đổi phụ thuộc rất lớn và gắn
chặt với các phương tiện truyền thông đại chúng. Dư luận xã hội có tính
lây lan rất mạnh, dựa trên các kênh tuyên truyền, trên các phương tiện
truyền thông đại chúng. Sản phẩm của truyền thông đại chúng chính là dư
luận xã hội.
6
- 4 Vai trò và chức năng của dư luận xã hội
Dư luận xã hội là một trong những biểu hiện sớm nhất của hình thái
ý thức xã hội. Trong lịch sử loài người, dư luận xã hội đóng vai trò điều
hòa các mối quan hệ xã hội ngay cả khi trong xã hội chưa có sự phân hóa
giai cấp. Đánh giá hiệu quả của dư luận xã hội cần xuất phát từ nhận thức
đúng đắn về vai trò tích cực của các yếu tố tâm lý, tư tưởng và vai trò của
quần chúng nhân dân trong đời sống xã hội. Nói về vai trò của dư luận xã
hội trong hoạt động quản lý, ta thấy rằng dư luận xã hội khen ngợi,
khuyến khích động viên những cá nhân siêng năng, có ý thức kỷ luật ... , nó
“tẩy chay” những cá nhân lười biếng, vô kỷ luật. Dư luận xã hội còn đựơc
xem như công cụ để củng cố quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền .
Người ta còn tạo ra dư luận để điều chỉnh hướng phát triển của xã hội.
Đảng ta cũng sử dụng dư luận xã hội như một công cụ để xây dựng, chỉnh
đốn Đảng cũng như hoạch định chính sách. Dư luận xã hội cũng là diễn
đàn để người dân phát huy quyền làm chủ, xây dựng quyền làm chủ xã hội.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, dư luận xã hội còn là phương tiện để tăng
cường quan hệ giữa đảng với quần chúng nhân dân, cộng đồng trong xã
hội. Dư luận xã hội còn góp phần hoàn thiện công tác quản lý dựa trên
cung cấp cơ sở khoa học, việc hoạch định đưa ra quyết định chính sách
phải dựa trên những thông tin của hệ thống xã hội mà dư luận là một kênh
thông tin quan trọng. Do đó, dư luận xã hội có vai trò quan trọng trong việc
ổn định phát triển xã hội.
Vai trò của dư luận xã hội thể hiện ở các chức năng sau : đánh giá,
điều hòa, kiểm soát, giáo dục, tư vấn.
Chức năng đánh giá: dư luận xã hội đánh giá hành vi xã hội, các
chuẩn mực xã hội, các quá trình xã hội, cụ thể là dư luận xã hội đánh giá
các hành vi đó là đúng hay sai, tốt hay xấu. Những chuẩn mực mà dư luận
xã hội dựa vào để đánh giá có thể là những điều luật hoặc chuẩn mực
7
- chung của đông đảo công chúng trong xã hội. Sự đánh giá này thường khác
nhau trong các nhóm xã hội khác nhau cũng như trong khoảng thời gian
khác nhau.
Chức năng điều hòa: thể hiện ở chổ dư luận xã hội góp phần sắp
xếp, điều chỉnh lại các quan hệ xã hội cho đúng mục đích và chuẩn mực
trên cơ sở phán xét, đánh giá các sự kiện, hiện tượng. Dư luận xã hội nêu
ra các chuẩn mực, chỉ ra những việc nên làm, nên né tránh hoặc điều chỉnh
hành vi, cách cư xử của mọi người. Trong cuộc sống, những dư luận xã
hội của giai cấp tiên tiến thường có vai trò đặc biệt quan trọng, thúc đẩy xã
hội phát triển.
Gắn với chức năng điều hòa là chức năng giáo dục. Dư luận xã hội
khi đã hình thành nó thường tác động vào ý thức con người, nghĩa là chi
phối ý thức cá nhân, nên cần phải điều chỉnh cho phù hợp với ý thức chung
của cộng đồng. Dư luận tác thưởng, đồng tình có tác dụng khuyến khích
các tích cục, cái hay, cái đẹp, cái tốt, dư luận lên án chê bai có tác dụng hạn
chế, ngăn ngừa các tiêu cực, cái xấu.
Dư luận xã hội còn có chức năng kiểm soát thông qua sự phán xét,
đánh giá, giám sát hoạt động của các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước
có phù hợp với các lợi ích xã hội hay không. Dư luận xã hội của cá nhân và
các nhóm xã hội phải tuân thủ những chuẩn mực mà nó dựa vào để đánh
giá và phán xét.
Chức năng tư vấn: thông qua nội dung của mình, dư luận đưa ra
những kiến nghị, giải pháp cho những vấn đề mà dư luận xã hội quan tâm,
giúp cho cơ quan nhà nước giải quyết những vấn đề quan trọng của xã hội
Ngoài ra, dư luận xã hội có chức năng là thước đo bầu không khí
chính trị xã hội
Nói chung, xã hội càng phát triển, trình độ văn hóa của quần chúng
ngày càng cao, dân chủ càng mở rộng thì sức mạnh của dư luận xã hội
8
- càng lớn, nó các tác động đến xã hội như những luật lệ không thành văn
bản. Nghiên cứu dư luận xã hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác
quản lý xã hội, đối với việc đề ra và triển khai các chủ trương nhiệm vụ
cụ thể trong từng thời điểm nhất định. Bởi vì trong hoạt động quản lý xã
hội đòi hỏi chúng ta phải hiểu biết sâu sắc thực tiễn xã hội, hiểu biết nhu
cầu và lợi ích của quần chúng trong sản xuất cũng như trong đời sống.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, trong công cuộc xây dựng CNXH
nói chung là sự nghiệp đổi mới, nói riêng đó là kết quả trí tuệ và công sức
của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, là sự gắn bó máu thịt với nhân
dân. Vì vậy tổ chức nghiên cứu dư luận xã hội một cách nghiêm túc là
phương tiện cần thiết để phát huy quyền làm chủ của nhân dân và mở
rộng dân chủ xã hội.
Dư luận xã hội sẽ cho chúng ta những thông tin một chiều về các
mặt hoạt động của các cơ quan Đảng và nhà nước, các thông tin này là
những tín hiệu phản hồi từ phía xã hội, từ phía quần chúng đối với việc
thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội. Những thông tin này là một trong
những căn cứ quan trọng để Đảng và nhà nước kiểm tra công tác của
mình, để có những chủ trương quyết định cần thiết, sát hợp với thực tế.
Trong xã hội ta hiện nay, việc tìm hiểu và nghiên cứu dư luận xã hội đã trở
thành điều kiện quan trọng để đảm bảo công tác quản lý xã hội thật sự
dựa trên cơ sở khoa học.
5. Cách ứng xử của nhà quản lý trước một sai lệch xã hội
Hiện nay, đất nước ta từ nền kinh tế xã hội vốn lạc hậu, khó
khăn ... đang vươnlên để tồn tại và hội nhập quốc tế bằng quá trình CNH
HĐH và mở cửa giao lưu với các nước trên thế giới. Hệ thống giá trị
chuẩn mực xã hội đang biến đổi mạnh mẽ, việc quản lý xã hội trên tất cả
các mặt còn nhiều lúng túng, xã hội đang phát sinh nhiều sai lệch, trong đó
có cả sai lệch tích cực và sai lêch tiêu cực. Dư luận xã hội được xem là
9
- một trong những công cụ, phương tiện hiệu quả để hạn chế, ngăn ngừa và
phòng chống những sai lệch tiêu cực nhằm ổn định trật tự xã hội. Tuy
nhiên, như đã nói ở trên đánh giá của dư luận xã hội chưa hẳn là đúng trong
mọi trường hợp, vì vậy nhà quản lý cần phải ứng xử như thế nào trước
một hiện tượng sai lệch xã hội cụ thể ?
Theo Xã hội học, sai lệch xã hội chính là những hành vi của cá
nhân hay nhóm không phù hợp với những giá trị, chuẩn mực đang được xã
hội thừa nhận. Hành vi sai lệch là những hành vi phần nào đi chệch khỏi
khuôn mẫu, chuẩn mực xã hội, không đáp ứng được những điều mong
muốn, chờ đợi của nhóm, của những người xung quanh
Để có một thái độ ứng xử và hành động đúng đối với một hành
vi sai lệch xã hội, trước nhất nhà quản lý phải biết nhận diện được sai
lệch xã hội ấy là tích cực hay tiêu cực, là sai lệch có mức độ thấp hay cao,
là sai lệch của cá nhân hay của nhóm ?
Sai lệch tích cực là những hành vi không phù hợp với những giá trị,
chuẩn mực quy tắc đang được xã hội thừa nhận, nhưng nó tác động tích
cực đến xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển. Đó là những hành vi xã hội
hướng theo những giá trị chuẩn mực, quy tắc lý tưởng, cao thượng và đạo
đức hợn. Sai lệch xã hội tiêu cực là những hành vi tiến hành vi tiến hành
theo các giá trị thấp kém, những chuẩn mực quy tắc lỗi thời, cảng trở sự
tiến bộ xã hội, sự phát triển văn minh. Hành vi sai lệch tiêu cực không phải
chỉ là những hành vi vì lợi ích cá nhân, cục bộ mà còn là những hành vi
thiếu ý thức trách nhiệm, coi thường lợi ích của nhân dân, của xã hội.
Sai lệch mức độ thấp là những hành vi sai lệch thường xảy ra, có
tính tạm thời, ít lập lại, không hệ thống, do đó ảnh hưởng đến xã hội ít.
Đây là những hành vi mà nhiều người thường mắc phải. Người quản lý
những người xung quanh chỉ cần nhẹ nhàng nhắc nhở thì chủ thể sẽ tự
điều chỉnh. Sai lệch mức độ cao là những hành vi xã hội mà chủ thể
10
- thường có sự tính toán, cân nhắc và thực hiện theo một kế hoạch đã vạch
ra, thậm chí có sự phân công, phân nhiệm và tổ chức cuộc sống trên cơ sở
hành vi đó. Những hành vi này tác động mạnh mẽ đến xã hội có thể gây ra
những hậu quả quan trọng, bị những người xung quanh xã hội phản ứng
gây gắt.
Sai lệch cá nhân: là những hành vi thường xảy ra ở mỗi người trong
các quan hệ xã hội với những mức độ khác nhau. Những hành vi sai lệch
này phần lớn là những hành vi không có ý thức đầy đủ, ít được bàn bạc trao
đổi với người khác và chỉ thực hiện chỉ có cá nhân, do đó ảnh hưởng đến
xã hội và những người xung quanh rất nghiêm trọng. Sai lệch của nhóm: là
những hành động xã hội của một nhóm đi ngược lại những giá trị chuẩn
mực, quy tắc của xã hội đương thời hoặc trái với vai trò của xã hội mà
nhóm đó đảm nhiệm
Sau khi nhận diện sai lệch xã hội, nhà quản lý phải tìm hiểu giải
thích nguyên nhân, nguồn gốc của sai lệch xã hội để có giải pháp ngăn
ngừa, phòng chống và khắc phục những sai lệch xã hội từ gốc rễ, căn
nguyên của những sai lệch ấy. Chúng ta biết rằng hành vi sai lệch xã hội
chịu tác động của nhiều yếu tố, từ những góc độ tiếp cận khác nhau người
ta đưa ra những lý thuyết giải thích nguồn gốc sai lệch khác nhau, ta có thể
chia làm 02 nhóm : nhóm giải thích bằng nguồn gốc tâm sinh lý và nhóm
giải thích bằng nguồn gốc xã hội.
Về nguồn gốc tâm sinh lý: các nhà khoa học cho rằng thể trạng,
vóc dáng, hình tướng, kích thước của các bộ phận con người cũng biểu
hiện những người dễ có hành vi đặc thù của sự sai lệnh xã hội. Lý thuyết
về nhiễm sắc thể thì cho rằng đây là một biểu hiện nội tạng bên trong của
con người, người có nhiễm sắc thể trội thì dễ có hành vi lệch chuẩn. Lý
thuyết dựa trên cơ sở phân tâm học thì cho rằng con người có 3 phần trong
nội tại đó là bản năng (vô thức), bản ngã (tri thức) và siêu ngà (lương tri),
11
- một khi bản năng quá mạnh, không kiềm chế được vượt lên trên bản ngã
và siêu ngã thì sẽ dẫn con người đến hành vi sai lệch xã hội. Sự mất thăng
bằng liên tục trong đời sống tinh thần nếu người nào có phần vô thức
mạnh hành vi vô thức vượt qua được lương tâm và trí tuệ, thì người đó dễ
lệch chuẩn.
Về nguồn gốc xã hội: đây là nguyên nhân quan trọng mà nhà quản lý
phải đặc biệt quan tâm để có những giải pháp tích hợp. Đời sống kinh tế
khó khăn nghèo đói cũng dễ dẫn đến sai lệch xã hội. Nhận thức kém, ít
hiểu biết về pháp luật, về cái đúng cái sai chưa rõ ràng cũng dẫn con người
đến hành vi sai lệch xã hội. Đối với các nhóm nhỏ đề cao những giá trị
chuẩn mực riêng nhưng những chuẩn mực này mâu thuẫn với những chuẩn
mực giá trị của xã hội cũng làm cho các thành viên của nhóm nhỏ ấy dễ
dẫn đến hành vi sai lệch xã hội. Mâu thuẫn giữa mục tiêu với con đường
dẫn đến mục tiêu cũng đẩy cá nhân thực hiện những hành vi sai lệch xã
hội. Hành vi sai lệch xã hội đôi khi còn là do sự gán ghép của tập thể.
Quản lý yếu kém không chặt chẽ dẫn đến sai lệch xã hội. Mức độ cố kết
xã hội thấp, sự gắn bó kiểm soát hành vi của nhóm không cao thì sai lệch
xã hội càng lớn. Xã hội có phân chia giai cấp thì cũng làm tăng sai lệch xã
hội. Đồng thời, ta cũng thấy rằng mâu thuẫn giữa nhu cầu và khả năng đáp
ứng nhu cầu cao hành vi xã hội. Phong tục tập quán lối sống cũng dẫn đến
sai lệch xã hội. Môi trường sinh thái tự nhiên là sự thay đổi về môi trường
xung quanh hoặc chế độ ăn uống cũng ảnh hưởng đến lệch chuẩn như: ăn
uống những chất kích thích là cho người dễ phạm tội hơn.
Một hiện tượng sai lệch xã hội có thể có nhiều nguyên nhân, vì vậy
trước một hành vi sai lệch xã hội, nhà quản lý phải xác định rõ nguyên nhân
chính để có giải pháp thích hợp, phòng chống và ngăn ngừa và phải đánh
giá, kiểm soát và xử lý căn cứ vào những mâu thuẩn đó.
12
- 6. Tìm giải pháp thích hợp để hạn chế, khắc phục sai lệch xã
hội.
Trên cơ sở nhận diện và xác định đúng nguyên nhân, nguồn gốc sai
lệch xã hội, nhà quản lý sẽ chọn lựa giải pháp thích hợp để hạn chế, khắc
phục sai lệch xã hội.
Nếu sai lệch xã hội có tính tích cực, nó phản ánh một cách suy nghĩ
và hành động đi trước thời đại, thúc đẩy việc hình thành những giá trị
chuẩn mực mới thì nhà quản lý phải biết cách điều chỉnh các chính sách và
tạo môi trường, điều kiện cho giá trị tích cực ấy nhân rộng trong cộng
đồng.
Nếu sai lệch xã hội là tiêu cực tha hóa, ảnh hưởng xấu đến đời
sống cộng đồng, thì nhà quản lý phải phân biệt đó là hành vị của nhóm hay
chỉ đơn lẻ là của cá nhân. Nếu đó chỉ là sự phản kháng của một cá nhân do
tâm lý dồn nén, chịu đựng quá lâu những bất công hoặc là do chưa trình độ
nhân thức kém thì biện pháp giáo dục, thuyết phục và cảm thông có thể
quan trọng hơn và các biện pháp trừng trị. Nếu sai lệch xã hội là của nhóm,
của số đông nhưng nguyên nhân chính là do tình trạng quản lý lỏng lẻo thì
giải pháp xử lý phải cân nhắc giữa lợi ích cộng đồng với lợi ích của bản
thân những người vi phạm và giải quyết triệt để loại sai lệch xã hội chính
là ở chổ chấn chỉnh lại các hoạt động quản lý chặt chẽ hơn, kiên quyết
hơn. Nếu sai lệch xã hội xuất phát từ đói nghèo, thất nghiệp, từ sự sa sút
của các giá trị chuẩn mực xã hội thì biện pháp phòng ngừa là phải sử dung
những biền pháp tổng hợp giải quyết tận gốc nguyên nhân xã hội của sai
lệch xã hội như: xóa đói giảm nghèo đi đôi với việc nâng cao trình độ dân
trí, xây dựng lối sống có văn hóa, ngăn chặn ảnh hưởng tiêu cực của kinh
tế thị trường và giao lưu quốc tế, xác định và củng cố các giá trị chuẩn
mực xã hội. Nhưng nếu hành vi sai lệch xã hội là của một nhóm có tổ chức
13
- và mức độ sai lệch là lớn thì phải sử dụng nghiêm khắc công cụ luật pháp
để trừng trị, răn đe.
Đồng thời, trong nhóm mà mình quản lý, cán bộ lãnh đạo quản lý
phải thường xuyên kiểm tra đánh giá, sàn lọc cán bộ trong bộ máy tổ chức,
quản lý chặt chẽ cán bộ đảng viên, viên chức nhà nước ngăn chặn kịp thời
các hành vi sai lệch này, xử lý nghiêm các vi phạm, đồng thời phải xây
dựng dư luận xã hội tích cực để đấu tranh với loại tệ nạn. những hành vi
sai lệch tiêu cực.
Tóm lại, cùng với tiến trình đi lên của sự nghiệp đổi mới, nhiều
vấn đề mới nảy sinh phong phú và đa dạng, vấn đề nghiên cứu dư luận xã
hội và việc sự dụng thông tin dư luận xã hội cần được chú trọng nhằm góp
phần nâng cao ý thức giác ngộ, ý thức chính trị trong quần chúng, mở rộng
dân chủ xã hội chủ nghĩa, động viên quần chúng tham gia vào việc quản lý
nhà nước, quản lý xã hội, đồng thời tăng cường mối liên hệ giữa Đảng,
Nhà nước với quần chúng góp phần hoàn thiện công tác lãnh đạo quản lý
xã hội trên cơ sở khoa học
7. Báo chí đóng vai trò định hướng dư luận xã hội
7.1 Khái niệm định hướng dư luận xã hội
Định hướng là một trong bốn vai trò của báo chí, bên cạnh khơi
nguồn, phản ánh, truyền dẫn và điều hòa, đối với dư luận xã hội.
Trươc hết cần hiểu định hướng là gì? Định hướng là hoạt động có ý
thức của con người trong nhận thức, thái độ, hành vi; và muốn nhận thức
thái độ, hành vi của mình được hiệu quả, nguồn lực trí tuệ và cảm xúc của
mỗi người và cả cộng đồng cần được định hướng tập trung. Trên phạm vi
xã hội, muốn tập trung nguồn sức mạnh cả tinh thần và vật chất vào việc
giải quyết vấn đề nào đó cần phải định hướng huy động, tổ chức nguồn
lực thì mới đạt được hiệu quả thực tế.
14
- Ở bình diện cá nhân, định hướng là việc bản thân mỗi người tự xác
định phương hướng nhận thức và hành động trên cơ sở nhận thức được
bản thân và những điều kiện xung quanh, huy động nội lực cá nhân và chịu
sự tác động từ các nhân tố bên ngoài môi trường sống và các mối quan hệ
xã hội. Ai có yếu tố nội lực tốt, lại biết phương hướng đúng, dồn trọng
tâm nguồn lực vào những việc cần giải quyết sẽ dễ đạt thành công hơn.
Ở bình diện xã hội, việc xác định phương hướng nhận thức và hành
động cần có hai yếu tố. Thứ nhất là bản thân năng lực nhận thức của cộng
đồng. Thứ hai là sự kích thích, tác động từ những tác nhân đến cộng đồng
xã hội làm cho phương hướng nhận thức và hành động của cá nhân, nhóm
xã hội được quy tụ về một hướng, tạo nên sức mạnh chung.
Bản chất của hoạt động lãnh đạo quản lý báo chí thực chất là khơi
dậy nguồn lực sáng tạo của cộng đồng, huy động và tổ chức nguồn lực
sức mạnh tinh thần vật chất của toàn xã hội vào việc xây dựng và phát
triển đất nước. Vấn đề định hướng nhận thức, thái độ và hành vi của cộng
đồng xã hội về bản chất là định hướng dư luận xã hội, tức là định hướng
quần chúng nhân dân góp phần tập trung giải quyết các vấn đề kinh tế xã
hội lớn đang đặt ra.
Từ phía lãnh đạo, quản lý kinh tế xã hội, định hướng không phải là
bắt ép cộng đồng nhận thức, suy nghĩ và hành động theo một khuôn mẫu
chủ quan duy ý chí; mà là quá trình ‘bắt mạch’ được thực tại khách quan,
tâm lý nguyện vọng và nhu cầu của nhân dân, trên cơ sở ấy quy tụ lòng
người, thống nhất cộng đồng lại trên cả hai bình diện nhận thức và hành
động để thực hiện mục tiêu định hướng phát triển, đem lại lợi ích chính
đáng cho cộng động và mỗi người.
Từ phía cộng đồng và nhân dân nói chung, định hướng là nhu cầu
khách quan của công chúng, dư luận xã hội và nhân dân. Nhân dân luôn có
nhu cầu thống nhất nhận thức làm cơ sở cho thống nhất ý chí và sức mạnh
15
- nhằm khai thác nguồn lực vật chất và tinh thần, tập trung lý trí và cảm xúc
vào việc giải quyết những vấn đề lớn, những nhiệm vụ trọng đại trước
mắt, phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, nâng cao
chất lượng cuộc sống, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao về đời sống vật
chất và tinh thần.
Ở góc độ truyền thông – vận động xã hội, đó là quá trình tăng dần sự
đồng thuận và giảm dần sự khác biệt giữa các cá nhân và nhóm xã hội.
7.2 Vai trò của báo chí
Báo chí định hướng dư luận xã hội là nhiệm vụ thể hiện tính thống
nhất giữa yêu cầu từ bên trên của lãnh đạo quản lý và nhu cầu từ bên dưới
của quần chúng nhân dân. Bảo đảm được tính thống nhất này, báo chí sẽ
trở thành phương thức và công cụ quan trọng nhất trong việc khơi dậy, tập
hợp và phát huy nguồn sức mạnh mềm – tài nguyên mềm quốc gia trong
quá trình phát triển bền vững đất nước. Nguồn lực trí tuệ và cảm xúc của
nhân dân là sức mạnh mềm, niềm tin của người dân vào chế độ xã hội, thể
chế chính trị và đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy công quyền là sức
mạnh mềm; dư luận xã hội dù ở dạng âm ỉ hay bốc phát ra bên ngoài cũng
là sức mạnh mềm; hệ thống giá trị văn hóa truyền thống và chuẩn mực đạo
đức xã hội là sức mạnh mềm… Sức mạnh mềm là nguồn tài nguyên không
bao giờ cạn kiệt, ngược lại, nó có thể được nhân lên gấp bội nếu biết khởi
dậy, nuôi dưỡng và phát huy. Ngược lại, nó cũng có thể bị teo tóp dần và
suy kiệt do khai thác bừa bãi phục vụ lợi ích nhóm.
Báo chí định hướng dư luận xã hội, định hướng tư tưởng nhận thức
của nhân dân là đòi hỏi khách quan tất yếu và phổ biến của sự phát triển.
Vấn đề là báo chí định hướng dư luận xã hội như thế nào và đạt hiệu quả
mong đợi hay không.
Một số phương thức định hướng dư luận xã hội:
16
- Dư luận xã hội là hiện tượng xã hội – trạng thái tinh thần rất nhạy
cảm, mẫn cảm với và dễ biến động. Nó có thể bộc phát rất nhanh và
chuyển thành sưc mạnh thực tế, nhưng cũng có thể lắng dịu ngay tức khắc
nếu biết cách can thiệp. Hiện tượng xã hội này khó có thể can thiệp bằng
mệnh lệnh hành chính hoặc can thiệp thô bạo bằng vũ lực.
Trong thời kỳ duy trì nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp,
phương thức chủ yếu của báo chí trong việc hình thành và định hướng dư
luận xã hội là tuyên truyền điển hình. Tức là trên cơ sở điển hình cụ thể đã
được xác định, báo chí tập trung miêu tả, phân tích kinh nghiệm để giới
thiệu mô hình những nơi khác học tập và làm theo; báo chí phát động và
nhân rộng phong trào học tập, làm theo điển hình tiên tiến. Bước sang nền
kinh tế thị trường, phương thức tuyên truyền điển hình ít được sử dụng.
Ngoài ra, phương thức thông tin tuyên truyền tập trung cũng được
báo chí sử dụng có hiệu quả. Cách thức chủ yếu là trên cơ sở cơ quan quản
lý lãnh đạo báo chí xác định vấn đề trọng tâm trước mắt trên các lĩnh vực
chính trị tư tưởng, kinh tế văn hóa xã hội, từ đó các báo chí tập trung
thông tin thu hút sự chú ý của công chúng và dư luận xã hội, lôi cuốn họ
vòa những nhiệm vụ trọng tâm trước mắt hoặc những vấn đề cơ bản lâu
dài, nhằm định hướng dư luận xã hội, thu hút nguồn lực tinh thần vật chất
của cộng đồng tham gia giải quyết vấn đề quốc gia. Nguyên tắc cơ bản
của phương thức này là vai trò, vị thế của công chúng càng được đề cao, sự
tham gia tích cực, chủ động của họ càng nhiều thì năng lực và hiệu quả
hoạt động tuyên truyền càng cao.
Để kết luận về phương thức định hướng dư luận xã hội của báo chí,
có hai phương cách thay thế hiệu quả hơn so với tuyên truyền điển hình và
thông tin tuyên truyền tập trung.
Một là khả năng thông tin sự kiện nhanh nhạy cùng với việc đồng
thời chọn lọc thông tin có giá trị thời sự và tính thực tiễn cao. Cho dù có
17
- giỏi cỡ nào, đội ngũ báo chí cũng không thể bao quát và chuyển tải được
hết ‘dòng lũ’ thông tin lên mặt báo, sóng truyền hình hay phát thanh, mạng
điện tử. Bởi vậy, yêu cầu công chúng và thực tiễn cuộc sống đòi hỏi nhà
báo phải chắt lọc và chọn lựa. Việc này đòi hỏi khách quan từ cuộc sống
và quy luật của nhận thức thực tiễn – phản ánh có chọn lọc, có tính mục
đích và tự giác của con người hay chủ thể truyền thông; chứ không phải
phản ánh một cách vô thức theo kiểu ‘vớ được gì thông tin cái ấy’.
Trong quá trình chọn lọc thông tin phải đảm bảo các yếu tố sau. Thứ
nhất là tính khách quan vì lợi ích của công chúng và nhân dân, lấy ‘ích nước
lợi dân’ làm trọng thì báo chí ấy sẽ thuyết phục và gây dựng được niềm tin
nơi công chúng. Thứ hai là không được phục vụ lợi ích nhóm đang thao
túng quyền lực. Khi ấy, báo chí sẽ phai nhạt đi tính công khai, minh bạch
và khó có thể phát huy sức mạnh xã hội vốn có.
Hai là, giá trị thông tin báo chí đem lại cho công chúng và dư luận xã
hội không chỉ thông tin sự kiện, mà quan trọng hơn là phân tích, bình luận
các sự kiện và vấn đề thời sự đã và đang diễn ra có ý nghĩa thời cuộc;
thông qua đó, kích thích trí tuệ và cảm xúc, hướng dẫn nhận thức tư tưởng
và định hướng dư luận xã hội.
Đẳng cấp chuyên nghiệp của báo chí thể hiện ở hai cấp độ: Cấp độ
thông tin nhanh, nhưng chọn lọc cẩn trọng có trách nhiệm. Việc này căn cứ
vào nhu cầu của hai phía chỉ đạo của cấp trên có thẩm quyền và nhu cầu
thời sự của công chúng. Thông tin nhanh mà không chọn lọc sẽ khiến báo
chí dần đánh mất giá trị và tự hạ thấp mình. Cấp độ phân tích, bình luận
(chính luận) lại có đòi hỏi cao hơn. Báo chí hiện đại cần phẩm chất trí tuệ,
hàm lượng văn hóa và nhân văn của thông tin – cần ‘chất’ nhiều hơn
lượng, nhất là loại lượng trùng lặp, dư thừa, thậm chí gây lãng phí, phản
cảm. Thực tế có nhiều cơ quan báo chí chạy theo tin hot theo kiểu thấy gì
viết nấy, chưa chú trọng cân nhắc chọn lọc. Hiện tượng này có thể làm cơ
18
- quan đánh mất niềm tin từ công chúng, xâm hại đến tính nhân văn báo chí
trong mối quan hệ công chúng và dư luận xã hội. Việc đưa tin về các vụ án
giết người dã man hay những hình ảnh lộ hàng của các ngôi sao là ví dụ
điển hình.
Trong mối quan hệ với dư luận xã hội, báo chí cần biểu hiện tính
nhân văn của mình. Thứ nhất, mảng đề tài báo chí đăng tải phải thiết thực,
thời sự và nếu giải quyết được chúng sẽ giúp ích cho sự phát triển của xã
hội, tránh bôi quá đậm những góc khuất, điểm tiêu cực của xã hội. Độc giả
chỉ cần nhìn qua giao diện của một tờ báo là có thể biết được ưu tiên
hướng đề tài. Thứ hai, nhà báo cần lựa chọn góc nhìn phù hợp để nêu bật
lên giá trị nhân bản. Vụ ba thanh niên ở Hà Tây được giải oan sau mười
năm tù oan đã đem lại niềm tin cho nhân dân vào bộ máy pháp luật. Thứ ba,
tính nhân văn thể hiện ở cách lựa chọn chi tiết thông tin về sự kiện, vấn
đề, tránh đưa những hình ảnh phản cảm hoặc nhân lên nỗi đau của công
chúng. Thứ tư, ngôn từ và giọng điệu của tác phẩm góp phần quan trọng
tạo nên tính nhân văn cũng là đẳng cấp văn hóa và tính chuyên nghiệp của
bài báo. Thứ năm là lựa chọn thời điểm đăng bào, xuất bản phù hợp
KẾT LUẬN
Hiện nay, dư luận xã hội là công cụ để ra quyết định trong công tác
lãnh đạo, quản lý. Dựa vào các ý kiến khác nhau nêu trong tác dư luận xã
hội để nhà lãnh đạo, quản lý cân nhắc, lựa chọn cho ra quyết định đúng
đắn được nhiều người ủng hộ, tán đồng. Dự luận xã hội là công cụ để
thực hiện quyết định: dựa vào sự hiểu biết, sự nhất trí, đồng lòng và sự
sẵn sàng hợp tác cùng chia sẻ để thực hiện quyết định quản lý.
19
- Can bộ lãnh đạo, quản lý cấn nắm bắt thường xuyên, liên tục và kịp
thời dư luận xã hội, vì đó là công cụ làm việc. Lãnh đạo, quản lý dư luận
xã hội, vì đó là công cụ để làm việc. Lãnh đạo, quản lý dư luận xã hội cần
tuân theo nguyên tắc: “Cung kính không bằng tuân lệch”, nghĩa là theo
nguyên tắc nhấn mạnh vào thực hành công việc, thực hiện các quyết định,
đề cao năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động chứ không phải dựa vào
lời nói mang tính hình thức. Do đó, cần tạo ra những luồng dư luận xã hội
tích cực và ủng hộ việc thực hiện thành công các quyết định để lãnh đạo,
quản lý xã hội. Thông qua dư luận xã hội giúp người cán bộ, lãnh đạo,
quản lý kịp thời phát hiện những lỗ hổng trong quá trình ban hành và thực
thi chính sách, pháp luật để từ đó có các giải pháp, kiến nghị với các cơ
quan chức năng sửa đổi, hoàn thiện chính sách phù hợp với thực tiễn đời
sống xã hội.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, cần tạo ra dư luận xã hội nhằm
thực hiện thực mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Dư luận xã hội là nguồn thông tin công cộng rất cần cho sự phát
hiện vấn đề và phương án để giải quyết vấn đề. Tại hôi nghị tổng kết
công tác viên năm 2017, đồng chí Võ Văn Thưởng đã nhấn mạnh: “Công
tác dư luận xã hội phải bám sát các quan điểm, chủ trương, đường lối của
Đảng và Nhà nước, theo sát các sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh,
quốc phòng, đối ngoại quan trọng của đất nước. Đặc biệt, công tác dư
luận xã hội phải bám sát “hơi thở” của thực tiễn cuộc sống, kịp thời tham
mưu, đề xuất nội dung và phương thức định hướng dư luận xã hội”
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới manh mẽ nội dung, phương thức
hoạt động công tác dư luận xã hội, đặc biệt coi trọng yêu cầu về mặt xã
hội , đặc biệt coi trọng yêu cầu về mặt khoa học , tính chính xác , khách
quan,toàn diện trong công việc nắm bắt, phản ứng dư luận xã hội . Cán bộ
lãnh đạo , quản lý cần có kỹ năng khai thác đồng thời cả hai loại khả năng
này, đặc biệt là khả năng kiến tạo xã hội của dư luận xã hội. Trong thời
đại bùng nổ thông từ mạng Internet toàn cầu, vấn đề quản lý trong quản lý
thông tin đại chúng ở Việt Nam đang được đặt ra (Facebook, Zalo,
Webiste, Blog…)là một “ kiểu” dư luận xã hội thời kỹ thuật số đang phát
triển và trở thành một xu thế không thể khác được.
Dư luận xã hội là một loại thiết chế xã hội đặc biệt với nghĩa là, dư
luận xã hội bao gồm cả các bộ máy tổ chức truyền thông đại chúng với các
20
nguon tai.lieu . vn