Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỬU LONG KHOA: KHOA HỌC XàHỘI VÀ NHÂN VĂN MÔN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC TIỂU LUẬN GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: Ths. ĐINH THỊ TÂN SINH VIÊN THỰC HIỆN: 1. LÊ THỊ KIỀU TIÊN                                     (MSSV:2111063008) 2. DƯƠNG   NGỌC   TUYẾT   CHÂN  (MSSV:2111063018) 3. NGUYỄN NHƯ QUỲNH                             (MSSV:2111063020) 4. NGUYỄN BÙI NHƯ PHƯƠNG                  (MSSV:2111063006) MỤC LỤC
  2. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Lịch sử là một chặng đường dài của mỗi quốc gia. Dân tộc nào cũng trải  qua những năm tháng hào hùng bi tráng. Và nhờ  những năm tháng đó mà con   người càng hoàn thiện hơn, càng phát triển hơn về  mọi mặt trong đó có nhân   cách. Việt Nam là một đất nước có lịch sử  rất oai hùng , bề  dày lịch sử  hơn   4000 năm và là một người dân Việt Nam, chúng ta không thể quên được những  cuộc chiến mà nhân dân ta phải trải qua. Qua những di tích văn hoá, lịch sử để  lại ta càng thấy tự hào, trân trọng những người đã ngã xuống vì nước nhà, thật   oanh liệt. Chúng ta là những người may mắn và hạnh phúc sinh ra trong thời   bình nhưng qua những nhân chứng lịch sử, qua trang sử hào hùng chúng ta phải   luôn tự  hào về  những chiến công cũng như  biết  ơn về  các anh hùng đã ngã   xuống vì độc lập tự do của tổ quốc. Phú Quốc là hòn đảo lớn nhất Việt Nam, là thành phố  đảo đầu tiên của  Việt Nam. Nói đến du lịch Phú Quốc, ngoài khám phá những bờ biển tuyệt đẹp  và những món đặc sản trứ danh, không ai có thể bỏ qua được di tích nhà tù Phú  Quốc  ­nơi đây từng là “địa ngục trần gian” ghi dấu tinh thần kiên trung của  những người tù cộng sản, tố  cáo tội ác tày trời của đế  quốc Mỹ.  Nhà tù Phú  Quốc chính là bức tranh chân thực nhất về  sự  dã man, tàn bạo của kẻ  địch  trong thời loạn. Trên nền tảng đó, chúng tôi chọn đề  tài Nhà tù Côn Đảo Phú  Quốc là đề tài nghiên cứu của nhóm, cùng với những lí do như sau: Một là: Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Dân ta phải biết sử ta/Cho   tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Thật vậy, câu nói của Hồ Chủ Tịch chính  là lời nhắc nhở sâu sắc với con dân đất Việt về lịch sử  nước nhà. Có thể  nói,   lịch sử  là cội rễ  của sự  hình thành nền văn hóa, là lời giải đáp về  gốc tích tổ  tiên cha ông mà mỗi con người, mỗi quốc gia đều mang một ẩn số riêng. Lịch   sử đem lại cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về nguồn cội, về cha ông, tổ tiên,  nâng cao thêm lòng tự tôn dân tộc, chắp cho đôi cánh của niềm tự hào về một   2
  3. trang sử đau thương mà oanh liệt của những con người đã hóa núi sông ta. Bên   cạnh đó, lịch sử  còn đem lại những giá trị  truyền thống, của đạo đức mà cha  ông ta truyền lại cho con cháu ngàn đời. Hai là: Chào mừng 67 năm Ngày Cách Mạng Tháng Tám và Quốc Khánh   2/9. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản ”Tuyên ngôn Độc lập” lịch sử, trịnh trọng   tuyên bố  trước toàn thế  giới về  sự  ra đời của một nhà nước mới: Nhà nước  Việt Nam Dân chủ  Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ  nghĩa Việt   Nam).  Ba là: Nước ta đang trong quá trình đấu tranh với dịch Covid­19. Với sự  đồng lòng, chung sức, ý chí quyết tâm rất cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn   dân đẩy lùi dịch Covid­19, cho người dân được trở lại cuộc sống bình yên như  ông cha ta đã từng nằm xuống vì hòa bình đất nước.  Bốn là: Giới thiệu Nhà tù Phú Quốc – một trong những di tích quốc gia  đặc biệt được nhiều du khách trong và ngoài nước ghé thăm nhiều nhất Từ những lí do đó, chúng tôi quyết định chọn Nhà Tù Côn Đảo làm đề tài   nghiên cứu, cùng nhau nhìn lại vào những trang sử  oanh hùng của dân tộc,   những nỗi đau của lịch sử. Vì  nhà tù Phú Quốc là một nhân chứng sống cho  lòng yêu nước của dân tộc ta. Đồng thời, chúng tôi muốn nghiên cứu nó một   cách sâu sắc hơn để  có thể  tự  tin quảng bá hình  ảnh đẹp này đến với những   bạn bè trong và ngoài nước, những ai chưa biết đến nhà tù Phú Quốc – một khu   di tích của hòn đảo ngọc xinh đẹp. Là “địa chỉ  đỏ” giáo dục truyền thống  “Uống nước nhớ  nguồn” cho thế  hệ  trẻ, để  bản hùng ca giữa trùng khơi về  tinh thần độc lập tự  do sẽ  tiếp tục vang vọng trong mỗi trái tim người Việt  Nam. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Những vấn đề  xoay quanh nhà tù Phú Quốc luôn được các nhà văn hóa,   sử  gia, kiến trúc sư, dân tộc học, dịch học, phong thủy học, âm nhạc, hội họa   tìm tòi nghiên cứu hoặc viết lẻ  tẻ  đăng báo, hoặc viết thành sách. Cuốn sách  “Trại giam tù binh Phú Quốc ­ Những trang sử đẫm máu” được các nhân chứng   lịch sử  viết lên bằng cả  sự  thật, trải nghiệm của chính bản thân trong những  3
  4. năm tháng bị giam giữ, tra tấn trong tù. Tuân thủ nguyên tắc trung thực, tác giả  khách quan chọn lọc, ghi lại những điều thật sự  đã xảy ra phía sau những dây  thép gai. Sách do tác giả Trần Văn Kiêm, NXB Tổng Hợp TPHCM xuất bản.  Cùng đó, là cuốn Trại giam tù binh Phú Quốc thời kỳ  chống thực dân  Pháp và đế  quốc Mỹ  xâm lược của tác giả  Phạm Thiên Thư, NXB Tổng Hợp  TPHCM tái bản 2018. Tinh thần kiên trung, bất khuất  ấy đã từng được nhiều   nhà văn, nhà thơ  và cả  nhiều đồng chí sau ngày “chiến thắng trở  về” khắc   họa… Cuốn Trại giam tù binh Phú Quốc thời kỳ  chống thực dân Pháp và đế  quốc Mỹ  xâm lược đã góp thêm tiếng nói tương đối toàn diện về  cuộc chiến   đấu bi hùng nhưng rất đáng tự hào, đã nêu nhiều bài học quý báu cho Đảng ta,   cho quân đội và nhân dân ta. Ngoài ra, chúng ta còn được thấy trên mọi phương diện báo chí, phóng  sự  và phim tài liệu. Người đọc được biết đến nhiều cuộc đấu tranh mà chỉ  có  bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, với nghị lực sáng tạo phi thường của   chiến sĩ cách mạng, chiến sĩ cộng sản bị địch bắt, tù đày mới đủ sức chống lại  bọn đao phủ ác ôn, mà tội ác của chúng trời không dung, đất không tha. 3. Mục tiêu và mục đích nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu:  Một là, nghiên cứu về  quá trình hình thành chứng tích Nhà tù Phú Quốc  từ xưa đến nay, từ đó đưa ra cho người đọc, người xem một cái nhìn tổng quan  về nhà tù.  Hai là, tìm hiểu về những nỗi đau, cuộc sống nơi được gọi là “ Địa ngục   trần gian” và tinh thần bất khuất, ý chí sắt đá của các chiến sĩ cách mạng.  Ba là, tìm hiểu những tội ác tàn bạo, dã man của giặc đối với nhân dân   ta.  Mục đích nghiên cứu:  Một là, ngày nay, cuộc sống của con người ngày càng được hiện đại hóa  hơn thì nhu cầu trở về cội nguồn tìm hiểu những văn hóa truyền thống là một  4
  5. nhu cầu thiết yếu, nâng cao hiểu biết những giá trị văn hóa, lịch sử, những danh  nhân văn hóa của mọi thời đại, của mỗi quốc gia, dân tộc.  Hai là, làm tư liệu cho việc học tập, nghiên cứu sau này. Ba là, thoả  mãn về  sự  hiếu kỳ, tìm tòi về  những giá trị  lịch sử  quý giá  của dân tộc.  4. Phạm vi nghiên cứu Tập trung nghiên cứu về Nhà tù Phú Quốc – một địa danh, di tích lịch sử  mang đậm dấu  ấn dân tộc, tồn tại từ  năm 1967­1973. Nơi còn được biết đến  với tên gọi “ Nhà lao Cây Dừa” thuộc tỉnh Kiên Giang. Nghiên cứu tổng thể về  Nhà tù Phú Quốc, lịch sử nhà tù trong những năm kháng chiến.   5. Câu hỏi nghiên cứu Quá trình hình thành và về dày lịch sử của Nhà tù Phú Quốc như thế nào? Di tích được dựng lại theo những sự kiện lịch sử thực tế, vậy có còn tồn  tại những nỗi đau trong quá khứ còn kéo dài đến hiện tại? Những tội ác tàn bạo của giặc đối với nhân dân ta được thể hiện như thế  nào? 6. Giả thuyết nghiên cứu Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc, hay Trại giam Tù binh Cộng  sản Phú Quốc là một trại giam nằm tại phường  An Thới ở  phía nam đảo Phú  Quốc. Trong Chiến tranh Đông Dương, trại giam này có tên là Nhà lao Cây  Dừa. Đây là trại giam tù binh trung tâm toàn Việt Nam Cộng hòa, từng giam giữ  hơn 32.000 tù binh (40.000 tù nhân nếu tính cả tù chính trị nhiều thời kỳ) được  xây dựng từ năm1949.  Như một mảng tối ám ảnh giữa đảo ngọc trong xanh thanh bình, Nhà tù  Phú Quốc là minh chứng chân thực về  sự  khốc liệt của chiến tranh, chỉ  tham   quan và nhìn thôi cũng đã đủ làm du khách rùng mình về sự dã man và tàn nhẫn   mà những tù nhân ở  đây từng gánh chịu. Hiện nay, hang năm di tích Trại giam  Phú Quốc  đón hàng chục nghìn lượt khách  tham quan trong và  ngoài nước  5
  6. (trong đó có nhiều cựu tù binh là chứng nhân sống về lịch sử di tích), góp phần  giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh cách mạng bất khuất cho  các thế hệ. 7. Phương pháp nghiên cứu  Đề tài dùng phương pháp phân tích tài liệu là chủ yếu. Thu thập tài liệu,   tổng hợp, phân tích. Phương pháp thu thập tài liệu: Dùng tài liệu thu thập được trên sách báo,  internet, hình  ảnh,… để  có cái nhìn tổng quát đầy đủ  bao quát về  nhà tù Phú  Quốc. Phương pháp quan sát:  Quan sát, tổng hợp trên những gì thực tế  thấy   được.  Phương pháp tổng hợp:  Nhằm tổng hợp lại các kiến thức có trong tài  liệu thu thập được trên nguồn internet đưa ra những luận điểm, những vấn đề  để phân tích. Phương pháp phân tích: Dựa trên tài liệu thu thập về  nhà tù Phú Quốc  nhóm chúng tôi phân tích  tổng hợp làm rõ những tội ác man rợ dã man mà bọn   thực dân đã làm đối với người chiến sĩ cách mạng từ đó cho thấy sự hi sinh hào  hùng của ông cha ta để chiến đấu bảo vệ đất nước cho ta cuộc sống bình yên  như ngày hôm nay. 8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn Về  mặt khoa học, nghiên cứu đề  tài này giúp cho mọi người sẽ  hiểu   được sâu hơn về  khu di tích lịch sử  Nhà tù Phú Quốc, tạo ra nguồn tài liệu  phục vụ cho những nghiên cứu sâu hơn về sau. Về mặt thực tiễn, việc thực hiện đề tài nghiên cứu về Nhà tù Phú Quốc   sẽ giúp nhóm chúng em hoàn thành môn học và bổ sung kiến thức cho bản thân.  Nó sẽ là nguồn tài liệu sau này giúp cho học sinh, sinh viên bổ sung thêm kiến  thức trong học tập và làm việc. 9. Dự kiến dàn ý công trình nghiên cứu  Phần mở đ ầ   u    6
  7. 1. Lý do chọn đề tài 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 3. Mục tiêu và mục đích nghiên cứu 4. Phạm vi nghiên cứu 5. Câu hỏi nghiên cứu 6. Giả thuyết nghiên cứu 7. Phương pháp nghiên cứu 8. Ý nghĩa 9. Dự kiến dàn ý công trình nghiên cứu Nội dung nghiên cứu Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn 1. Cơ sở lí luận 2. Cơ sở thực tiễn Chương 2: Tổng quan về Nhà tù Phú Quốc  1. Vị trí địa lí 2. Những khu vực chính tại Nhà tù Phú Quốc Chương 3: Lịch sử Nhà tù Phú Quốc trong những năm kháng chiến  1. Thời kì kháng chiến chống Pháp 2. Thời kì chiến tranh Việt Nam Chương 4: Nhà tù Phú Quốc – Minh chứng tội ác tàn bạo  1. Những hình thức tra tấn 2. Chứng tích chiến tranh tàn khốc Chương 5: Gía trị lịch sử của Nhà tù Phú Quốc 7
  8. 1. Gía trị lịch sử 2. Những điều có thể bạn chưa biết về nhà tù Phú Quốc Kết luận Ý nghĩa PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lí luận Khái niệm Nhà Tù: Nhà tù, hay trại giam/ cơ  sở  cải huấn / trung tâm giam   giữ  / trung tâm cải tạo, là một cơ  sở  mà  ở  đó các tù nhân bị  giam nhốt cưỡng  bức và bị từ chối các quyền tự do thuộc thẩm quyền của nhà nước. Nhà tù được   sử dụng phổ biến nhất trong hệ thống tư pháp hình sự: những người bị buộc tội   có thể bị bỏ tù cho đến khi họ xét xử; những người nhận tội hoặc bị kết tội tại   phiên tòa có thể bị phạt tù trong một thời gian nhất định. Nói một cách đơn giản  nhất, nhà tù cũng có thể được mô tả là một tòa nhà trong đó mọi người bị giam  giữ một cách hợp pháp như một hình phạt cho tội ác mà họ đã gây ra. Nhà tù cũng có thể được sử dụng như một công cụ các chế độ độc tài dùng  để  đàn áp chính trị. Các đối thủ  của họ  có thể  bị  bỏ  tù vì các tội ác chính trị,   thường mà không cần xét xử  hoặc theo thủ tục pháp lý khác; việc sử dụng này   là bất hợp pháp theo hầu hết các hình thức luật quốc tế  quản lý việc quản lý  công   bằng   công   bằng.   Trong   thời   kỳ   chiến   tranh,   tù   nhân   chiến   tranh   hoặc  những người bị giam giữ có thể bị giam giữ trong các nhà tù quân sự hoặc trại tù  binh chiến tranh, và một nhóm lớn dân thường có thể bị giam giữ trong các trại   tạm giam Khái quát về  Nhà tù Phú Quốc: Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc,  hay Trại giam Tù binh Cộng sản Phú Quốc là một trại giam nằm  ở  phía nam   8
  9. đảo Phú Quốc. Trong Chiến tranh Đông Dương, trại giam này có tên là Nhà lao  Cây Dừa. Đây là trại giam tù binh trung tâm toàn Việt Nam Cộng hòa.  Đảng Cộng sản Việt Nam: ra đời trong lòng một đất nước còn đang chìm  ngập trong bóng tối của chế  độ  phong kiến, thực dân, hơn 90% người mù chữ  và một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nạn đói xảy ra hằng năm. Mấy ngàn   người cộng sản đầu tiên  ấy tồn tại trong   máu lửa khủng bố  bạo tàn, nhiều  người đã hy sinh, nhiều người đã nếm trải những nhà tù khét tiếng nhất ở Sơn  La, Côn Đảo, Hỏa Lò, Phú Quốc…  1.2. Cơ sở thực tiễn Năm 1949 khi quân Trung Hoa Quốc dân đảng thua trận trước Quân Giải  phóng Nhân dân Trung Quốc, Hoàng Kiệt ( ? ?  Huang Chieh) tướng lĩnh tỉnh Hồ  Nam dẫn hơn 30000 quân chạy sang Việt Nam, lúc bấy giờ  được Pháp đưa ra  đóng quân tại phía Nam đảo Phú Quốc. Sau đó, năm 1953, họ về Đài Loan theo   Tưởng Giới Thạch. Họ  bỏ  lại nhà cửa đồn điền, thực dân Pháp thấy vậy tận   dụng nhà cửa có sẳn lập ra nhà tù rộng khoảng 40 hecta gọi là "Trại Cây Dừa"   nhốt tù binh gần 14000 người.[2] Trại gồm 4 khu nhà giam A, B, C, D. Các tù  binh cộng sản bị  Pháp bắt từ  các chiến trường Trung, Nam, Bắc Việt Nam bị  tập trung đưa ra trại giam này  ở  Phú Quốc. Số  tù binh này gồm khoảng 14000  người, đa số từ nhà tù Đoạn Xá (Hải Phòng). Cũng như tại các nhà tù khác trong   Chiến tranh Đông Dương, tù nhân cộng sản tại Trại Cây Dừa sinh hoạt đấu  tranh chống khủng bố, đàn áp, và tổ  chức vượt ngục. Sau hơn 1 năm ở  trại, có   99 tù nhân bị chết, 200 người vượt ngục. Cuối năm 1955, Việt Nam Cộng hòa xây dựng một trại giam  ở  địa điểm  Căng Cây Dừa cũ, với diện tích rộng 4 ha, đặt tên là Trại huấn chính Cây Dừa,  còn gọi là Nhà lao Cây Dừa. Trại tù có nhà giam tù nam, nhà giam tù nữ, nhà   giam phụ  lão. Ngày 2 tháng 1 năm 1956, 598 người tù từ  trại Trung tâm huấn   chính Biên Hòa được đưa đến đề  lao Gia Định, rồi đưa xuống tàu vận tải Hắc  Giang của hải quân chở  từ Sài Gòn về đến Phú Quốc. Về sau còn có thêm một  số  tù chính trị  thuộc diện "Việt Cộng" hoặc "thân Cộng" cũng được đưa đến  Trại huấn chính Cây Dừa. 9
  10. Tổ chức Chữ thập Đỏ đã đến nhà tù Phú Quốc vào những năm 1969, 1972.  Các nhà quan sát của tổ chức này đã thấy sự tàn bạo có hệ thống và kéo dài tại  nhà tù. Họ tìm được các vật chứng của nhục hình ở các tù binh, trong đó có các  vết sẹo do tra tấn bằng điện, thể hiện của sự thiếu ăn, suy dinh dưỡng. Tháng 8   năm 1971, một điều tra viên của Sứ quán Mỹ tại Việt Nam Cộng hòa báo cáo về  sự  đánh đập tù nhân tại Phú Quốc vẫn tiếp diễn. Trong Quân lực Việt Nam  Cộng hòa, lực lượng canh gác tại nhà tù được đánh giá chỉ bằng số tù binh trốn  trại, không có cố gắng nào trong việc kỷ luật các giám thị xử tệ với tù nhân. Sau  các kết quả điều tra của MACV và Sứ quán Mỹ, Tướng Cao Văn Viên, tổng chỉ  huy Quân lực Việt Nam Cộng hòa, vẫn khẳng định rằng các đoàn kiểm tra của  tổ chức Chữ thập Đỏ quốc tế đã báo cáo sai lệch về tình trạng ở nhà tù. CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ NHÀ TÙ PHÚ QUỐC 1.1. Vị trí địa lí Nhà tù Phú Quốc nằm tại địa chỉ  số  350 Nguyễn Văn Cừ, thuộc xã An  Thới, huyện đảo Phú Quốc, tọa lạc ở hòn đảo phía Tây Nam nước ta thuộc tỉnh   Kiên Giang. Ngoài ra, Nhà tù Phú Quốc cũng có một trại giam tù hình sự, giam  giữ  những tù nhân thường phạm bị  kết án 10 năm trở  lên,  ở  phường Dương  Đông, mặt tây của đảo. Hiện tại Nhà tù Phú Quốc là một trong những điểm du  lịch lịch sử, nơi ghi lại tội ác của Hoa Kỳ  và Việt Nam Cộng hòa. Đây là một   trong những địa điểm tham quan nổi tiếng của du lịch Phú Quốc. Mỗi năm nhà  tù Phú Quốc đón hơn 10 nghìn lượt khách ra vào tham quan. 1.2. Những khu vực chính tại nhà tù Phú Quốc Diện tích Trại giam Phú Quốc lên đến 400 hecta có tất cả  là 12 khu (năm  1972) được đánh số  từ  khu 1 đến khu 12.Riêng khu 13, 14 được xây dựng thêm   vào cuối năm 1972. Mỗi khu có 4 phân khu A, B, C, D. Mỗi phân khu có 9 phòng  10
  11. để tù binh ở, có 2 phòng để thẩm vấn, phạt vạ hoặc biệt giam tù binh.Mỗi khu  trại giam lại được chia làm nhiều phân khu. Thường thì có 4 phân khu, trong 1  khu.Xung quanh mỗi phân khu là 04 vọng gác canh giữ 24/24 giờ và 10 vọng gác  lưu động, đèn chiếu sáng toàn khu trại. Riêng phân khu B2 dành riêng để  giam  giữ  các sĩ quan. Tù binh có cấp bậc lớn nhất là Thượng tá. Nhà tù Phú Quốc  cũng có một trại giam tù hình sự, giam giữ  những tù nhân thường phạm bị  kết   án 10 năm trở  lên,  ở  phường Dương Đông, mặt tây của đảo.Trại giam Tù binh  Chiến tranh Phú Quốc do 3 tiểu đoàn quân cảnh (7, 8, 12) canh giữ. Hiện nay, di tích chỉ còn lại một số hạng mục sau: Cổng Tiểu đoàn 8 quân cảnh: được làm bằng lõi trụ sắt và gạch đặc, tạo   thành 02 trụ vuông hai bên.  Nghĩa địa tù binh: diện tích 20.427,8m2, nằm ở khu vực đồi 100, bốn mặt   đều giáp với đất của Hải quân vùng 5, cách điểm Trại giam ­ phân khu B2  khoảng 1km. Sau năm 1975, toàn bộ công trình được xây bằng bê tông cốt thép,  có hàng rào bao quanh. Khu trung tâm nghĩa địa được thiết kế  hình tròn, chính   giữa có một khối hình chữ nhật, bên trên là tượng đài hình nắm tay (nắm đấm)   thể hiện lòng căm thù, tinh thần kiên cường, bất khuất, sẵn sàng hy sinh của các  chiến sĩ…  Ở  các vách tường phía bên trong của hình chữ  nhật, cách mặt đất  khoảng 1m, được dùng làm bia ghi danh liệt sĩ.   Nhà thờ  Kiến Văn: có diện tích 4.837,6m2, hiện là phế  tích, tại đây chỉ  còn lại vài mảnh tường, cùng nền xi măng và các cột góc tường.  Nhà trưng bày bổ  sung di tích được xây dựng bằng bê tông cốt thép, chia   thành 02 phòng với 43 hiện vật và hơn 100 hình ảnh tư liệu: phòng chiếu phim   giới thiệu sơ lược về  Phú Quốc và phòng giới thiệu về tổng thể  trại giam với   03 phần: Phần I, sa bàn và toàn cảnh trại giam (quá trình hình thành và tồn tại),   phần II, những hình thức tra của địch và phần III, những hình thức đấu tranh và  các kỷ vật của tù binh. 11
  12.  Phân khu B2: được phục dựng lại với diện tích 17.693 m2, gồm các hạng  mục như sau: Vọng gác (chòi canh): nằm  ở  bốn góc của phân khu giam B2, được làm  bằng cột thép, cao khoảng 5m, rộng khoảng 1,5m, mái che bằng tôn. Hàng rào: là hệ  thống dây kẽm gai, sắc nhọn, bùng nhùng được quấn  thành 8 đến 10 lớp, cách khoảng 2 ­ 3m dọc hàng rào có các cột sắt dùng để treo  bóng đèn. Cổng trại giam của phân khu B2: được quấn nhiều lớp rào kẽm gai để  bao bọc, có quân cảnh bảo vệ. Chuồng cọp kẽm gai: nằm bên phải cổng phân khu là các chuồng cọp   nằm, chuồng cọp ngồi, chuồng cọp nửa thấp nửa cao. Chuồng cọp dài khoảng   2m, rộng khoảng 0,5m, cao khoảng 0,5m, được để ngoài trời, nằm ngay sát mặt   đất, làm bằng kẽm gai, bên trong là các mô hình tù binh bị giam giữ. Liền kề với các chuồng cọp kẽm gai là kiểu giam giữ tù binh bằng thùng   cát xô, thực tế đây là một công ten nơ  nhỏ. Trên đỉnh có đục một lỗ  thông hơi,   trên thành đục một cửa sổ nhỏ dùng để đưa cơm, nước vào cho người tù. Dãy nhà bếp và nhà ăn: nằm bên phải của cổng vào, có 04 nhà (loại nhà   tiền chế, sườn là khung thép lắp sẵn, vách, mái, cửa sổ đều bằng tôn thiếc), bên   trong cũng có mô hình tù binh đang nấu ăn. Dãy nhà dùng làm nơi  ở, giam giữ  và tra tấn tù binh: được đánh số  từ  1   đến 18 theo thứ  tự  từ  phải sang trái, là loại nhà tiền chế  giống nhà bếp, bên  trong mỗi nhà có 02 dãy sàn lát ván gỗ  làm chỗ  nằm nghỉ  cho tù binh. Sau khi  phục dựng, bên trong có mô hình tù binh, tái hiện các nội dung: phòng 1, cuộc   đấu tranh chống địch đàn áp tù binh vào ban đêm; phòng 2, cuộc sống và sinh  hoạt của tù binh vào những lúc địch không tổ  chức đàn áp, khủng bố; phòng 3,  12
  13. cuộc đấu tranh biểu tình của tù binh phản đối địch; phòng 4, cuộc đấu tranh   tuyệt thực của tù binh; phòng 6, cuộc đấu tranh của tù binh và sự  đàn áp đẫm   máu của địch ở Phân khu B8; phòng 13, 15, 16, một số hình thức tra tấn tù binh   điển hình của địch ở trại giam; các phòng 5, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 18, cảnh tù binh bị  giam giữ; phòng 14, đường hầm của tù binh đào để  vượt ngục (đoạn hầm dài   khoảng 25m, đường kính khoảng 50 cm); phòng 17, cảnh tù binh đào hầm và  vượt ngục. Phòng biệt giam B2: diện tích 9 x 3m, vách được dựng bằng thép tấm,  đục lỗ  nhỏ, mái che bạt, dưới mái gần đỉnh đầu là lưới rào dây kẽm gai sắc   nhọn, nền đất tráng xi măng. Phòng biệt giam tái hiện cảnh tượng địch tra tấn tù   binh bằng chày vồ, bằng giày đinh, cho tù binh “đi tàu bay”, bị chôn sống… Dãy nhà vệ sinh: nằm phía sau phòng giam 14 và 16, giáp với hàng rào phía  sau khu trại giam.  Ở  các dãy nhà vệ  sinh đều có mô hình mô phỏng cảnh địch  bắt tù binh dọn dẹp, khiêng thùng phân đi đổ…  Đài tưởng niệm liệt sĩ tại Đồi Sim: diện tích 12.420,5m2, giáp với đất của  dân và tỉnh lộ 47, được xây bằng bê tông cốt thép. Đài tưởng niệm được thiết kế  với   hai   bên   là   biểu   tượng   hình   ngọn   sóng   được   sơn   màu   xanh   da   trời,   cao  khoảng 5m và chính giữa là hình khối nhọn, được khoét rỗng khoảng 2m tạo   biểu tượng hình người mang ý nghĩa “những con người ra đi từ nơi ấy”.  Cổng Tiểu đoàn 7 quân cảnh: sau giải phóng năm 1975, cổng Tiểu đoàn 7  quân cảnh được di dời vào trong, cách địa điểm cũ 15m. Cổng được làm lại  bằng lõi trụ sắt và gạch chỉ đặc, tạo thành 02 trụ vuông hai bên, cao 4,1m, rộng  0,85m. Khoảng cách giữa 02 trụ cổng là 5,9m. Bao quanh cổng là tường rào cao   0,8m. Sát với trụ cổng bên trái (hướng từ ngoài vào) là bảng trích giới thiệu sơ  lược về Tiểu đoàn 7 quân cảnh.  Cổng và nhà Ban Chỉ huy trại giam: hiện nay  ở điểm này chỉ còn lại cổng  và 04 nhà mới được phục dựng lại trên nền cũ, có diện tích 20m x 5,68m đều  được phục dựng bằng bê tông cốt thép, tường gạch, nền tráng xi măng, mái lợp  13
  14. tôn, cửa ra vào và cửa sổ  làm bằng gỗ. Cổng mới tôn tạo lại được di dời vào  bên trong cách vị  trí cũ 21,5m, được làm bằng trụ  sắt và đổ  bê tông. Cánh cửa  cổng chính làm bằng các thanh sắt  ấp chiến lược và dây kẽm gai. Bao quanh  cổng và nhà Ban Chỉ huy trại giam là tường rào. Mặt tường rào phía trước ­ giáp  tỉnh lộ 47, làm bằng dây kẽm gai, còn các mặt tường khác xây bằng bê tông. CHƯƠNG 3: LỊCH SỬ NHÀ TÙ PHÚ QUỐC NHỮNG NĂM  KHÁNG CHIẾN 1.1.  Thời kỳ kháng chiến chống Pháp Năm 1953, thực dân Pháp đóng quân tại Nam đảo Phú Quốc xây dựng nhà   tù khoảng 40 ha gọi là Trại Cây Dừa. Nơi đây giam giữ gần 14.000 tù binh, hầu  hết là các tù binh cộng sản bị Pháp bắt từ các chiến trường Bắc, Trung, Nam bị  tập trung về đây.  Cũng như  những nơi khác, các tù nhân  ở  đây tổ  chức đấu tranh, đàn áp và  vượt ngục. Sau hơn 1 năm có đến 99 người chết, 200 người vượt ngục. Sau Hiệp định Genève năm 1954, Pháp trao trả  hầu hết tù binh cho Việt   Nam Dân chủ Cộng Hoà. 1.2. Thời kỳ chiến tranh Việt Nam Năm 1955, Việt Nam Cộng Hoà xây dựng trại giam tại địa điểm Căng Cây  Dừa cũ. Diện tích ban đầu là 4 ha, đặt tên là Trại huấn chính Cây Dừa, hay còn  gọi là Nhà lao Cây Dừa. Trại có các nhà giam phân tách nam, nữ, người cao tuổi.  Năm 1956, gần 600 tù nhân từ  Đề  lao Gia Định được tàu đưa đến đây.  Trước đó là từ  Trung tâm huấn chính Biên Hoà. Về  sau nhiều tù nhân chính trị  cũng được đưa đến Nhà lao Cây Dừa. Cũng trong năm 1956, có khoảng 100 tù nhân vượt ngục, nhiều người bị  bắn chết khi vượt rào. Vì nhận thấy tình hình bất ổn, những tù nhân chính trị bị  đưa về đất liền, một số bị đày ra Nhà tù Côn Đảo. 14
  15. Một trại giam rộng hơn 400 ha được xây dựng cách địa điểm Căng Cây  Dừa cũ 2km, nằm tại thung lũng An Thới. Trại giam chia thành 12 khu, mỗi khu  chia thành 4 phân khu với số  lượng hơn 400 nhà giam. Mỗi phân khu đều có 2  phòng để  thẩm vấn, phạt hoặc biệt giam. Trại giam này thường được gọi là  Trại giam tù binh Phú Quốc. Ngày nay nhà tù đã trở thành Di tích lịch sử tại Đảo Ngọc. Đây cũng là nơi   tham quan, tìm hiểu của du khách trong và ngoài nước. Tại đây bao gồm khu   trưng  bày   hiện  vật   trong   nhà  và   khu  trưng  bày   ngoài  trời   hầu  như   còn  giữ  nguyên vị trí của hiện vật. CHƯƠNG 4: NHÀ TÙ PHÚ QUỐC­ MINH CHỨNG TỘI ÁC  TÀN BẠO 1.1. Những hình thức tra tấn Để có được nền hoà bình cùng gây dựng phát triển đất nước như ngày hôm  nay cả  một quá trình phải đánh đổi bằng xương, bằng máu, bằng những cuộc  chia ly và bằng hàng ngàn tính mạng con người vô tội. Bọn thực dân và bè lũ tay   sai không chỉ  cướp nước chia   mà còn đàn áp quân và dân ta bằng những thủ  đoạn man rợ nhất. Sau những năm tháng trao tay chính quyền, đặc biệt đến thời   Mỹ – Nguỵ chỉ trong vòng 6 năm từ 1967­1973 chúng đã bắt giữ và tra tấn bằng   những phương thức ghê rợn nhất đến hàng loạt các chiến sĩ Cộng Sản cũng như  người dân vô tội đã khiến cho Nhà tù Phú Quốc gây ra nỗi ám  ảnh kinh hoàng   cho bất kì ai từng đến nơi đây. Nhà tù Phú Quốc là bằng chứng về tội ác dã man, tàn bạo với hơn 45 kiểu   tra tấn dã man của Mỹ – Ngụy. Với bộ máy điều hành, quản lý của địch ở  nhà  tù Phú Quốc có khoảng 2.000 nhân viên và sỹ quan, gồm cả hải quân, lục quân,  không quân,… chúng đã giam giữ  tổng cộng khoảng 40.000 lượt tù binh, chủ  yếu là cán bộ, chiến sĩ  cách mạng và dân thường. Số lượng tù binh bị nhồi nhét  trong các phòng giam lúc cao điểm từ  120 – 180 người. Theo thống kê, đã có   khoảng 4.000 tù binh bị giết hại, hàng chục nghìn người bị thương tật, tàn phế.  15
  16. Thật không thể  nào lột tả  được nỗi thống khổ  của quân và dân ta lúc bấy giờ.   Chỉ có thể gói gọn trong cụm từ miêu tả về nơi đây: “Địa ngục trần gian”. Đầu tiên, ngoài khu giam giữ tập trung, nơi đây có những dãy chuồng kỳ lạ  như  để nuôi động vật. Chúng được gọi là “chuồng hổ”, một công cụ tra tấn tù  nhân tàn bạo. Những chuồng này được làm bằng rào kẽm gai, chỉ đủ chỗ cho tù  nhân nằm hoặc ngồi. Quản ngục nghĩ ra đủ biện pháp tàn bạo để tra tấn, từ đổ  nước lạnh lên người tù nhân vào ban đêm, đổ  nước muối hoặc hơ  lửa gần   chuồng vào những ngày oi nóng. Đã có rất nhiều tù nhân đã chết bởi hình thức   tra tấn này. Đục răng  là một trong những màn tra tấn được coi là nhẹ  nhất trong 24   hình thức tra tấn dã man được nghĩ ra để  tra tấn các tù nhân nhà tù Phú Quốc.   Một chiếc gậy nhỏ được kê vào răng tù nhân, sau đó gõ búa vào đầu gậy. Muốn  đục răng hàm trên thì đánh xuống, đục răng hàm dưới thì đánh lên. Một khi răng  đã rơi ra thì tù nhân phải nuốt ngay máu, có người còn bị  bắt nuốt trôi luôn cả  răng xuống dạ  dày. Khi nhìn thấy cảnh đó, mình bất giác rờ  tay lên xem răng   mình còn không. Ai trong chúng ta từng phải nhổ răng hẳn vẫn nhớ nỗi đau ấy ê   ẩm đến như thế nào, ấy vậy mà các tù binh nhà tù Phú Quốc phải chịu đục liền  một lúc hai, ba, thậm chí đến chục chiếc răng cùng một lúc thì hẳn còn đớn đau   gấp vạn lần. Kinh khủng hơn là màn tra tấn bằng  đèn cao áp. Những người tù nhân bị  đặt nằm trên ghế, sau đó một chiếc đèn cao áp được đặt ngay trên mắt tù nhân.  Quản ngục nhà tù Phú Quốc ép tù nhân phải mở  to mắt và chiếu đèn vào trong  thời gian dài, cho đến khi mắt bị chín đến phát nổ con ngươi mắt Còn có những tù nhân bị  cho vào thùng phuy chứa đầy nước. Một tên quản  ngục nhà tù Phú Quốc ấn đầu tù nhân xuống cho ngập nước, tên kia dùng búa gõ   mạnh vào thùng phuy, khiến nhiều tù nhân vỡ  tai, sặc nước tới chết. Nếu đã  từng bị  ai đó hét vào tai, hẳn bạn sẽ  cảm thấy rất đau đầu đúng không nào?   Tưởng tượng nỗi đau đó nhân lên gấp ngàn lần, và bạn sẽ  hình dung ra được  những gì các tù nhân phải trải qua. Một hình thức tra tấn man rợ khác, tưởng như  chỉ  có từ  thời Trung Cổ, là  luộc sống các tù nhân. Các quản tù của nhà tù Phú Quốc bỏ tù nhân vào bao tải,  16
  17. sau đó bỏ lên chảo nước đang sôi sùng sục. Nếu ai trong chúng ta từng bị bỏng  nước sôi sẽ biết rằng vị trí bỏng trở nên vô cùng đau và rát, dù chỉ  là một phần  cơ thể rất nhỏ. Tôi không thể tưởng tượng được nỗi đau ấy sẽ lớn đến thế nào  khi toàn bộ cơ thể bị nhận chìm trong nước sôi.  Bất chấp cơ thể bỏng rát đau  đớn, các tù nhân vẫn kiên quyết không hé răng hay kêu gào đau đớn, buộc phải  coi khinh những đòn tra tấn của quản tù. Ngoài ra, còn có nhiều hình thức tra tấn dã man khác dùng để  hành hạ tinh   thần và thể xác dường như chỉ có ở địa ngục: Đập vỡ mắt cá chân và xương bánh chè; Dùng ván gỗ và đinh ốc, ép siết đến vỡ lồng ngực nạn nhân; Dùng kìm để rút móng chân móng tay; Dùng giẻ tẩm dầu đốt cháy hạ bộ; Dùng dùi đục để đục gãy từng chiếc răng; Móc mắt, dùng đèn cao áp để gần mắt cho đến khi mắt nổ đôm đốp; Bỏ tù nhân vào chảo nước sôi; Đóng đinh đủ  mọi kích thước lên cơ  thể  tù nhân, cái nhỏ  thì đóng xuyên  ngón tay, cái lớn đóng vào cùi chỏ, đầu gối, những cái lớn nhất đóng vào hộp sọ  để giết chết tù nhân. Tẩm xăng rồi đốt miệng những tù nhân không khai báo Nã đạn cối vào trại tù binh Cắt da “chỗ kín” của tù nhân, nhét đỉa sống vào rồi khâu lại; Nung thanh sắt đỏ rồi xuyên liên tục qua bắp chân; Mổ bụng, moi gan; Vì phải chịu cảnh đau khổ  suốt một thời gian dài trong nhà tù, nên nhiều  chiến sĩ tù đày đã tổ chức nhiều cuộc vượt ngục, tìm đủ mọi cách để thoát khỏi  nơi địa ngục trần gian này. Theo tư liệu tại di tích, các thế hệ chiến sĩ bị tù đày   tại đây đã làm nên kỳ  tích, tổ  chức được 42 cuộc vượt ngục. Vượt ngục quả  cảm theo đủ mọi cách có thể: bí mật vượt rào; đánh lính áp giải khi ra ngoài làm  việc khổ  sai để  cướp đường chạy trốn; đào hầm ngầm lấy lối thoát ra… Gần   trăm người hy sinh hoặc bị bắt trở lại, hơn 200 người thoát được ra ngoài, tiếp   17
  18. tục hoạt động. Những cuộc vượt ngục thành công, thoát khỏi nhà tù này có thể  được xem là kì tích đáng nể. Nhiều cuộc vượt ngục thành công, nhưng cũng có  cuộc vượt ngục bị lộ anh em chiến sỹ cách mạnh phải đánh đổi cả  tính mạng,  tất cả vì mong muốn được tiếp tục chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất  đất nước 1.2. Chứng tích chiến tranh tàn khốc Đến nay, chiến tranh đã đi qua, nhưng những vết tích, tàn tật đau thương   vẫn để  lại cho những chiến sĩ may mắn còn sống sót cho đến hiện nay khi bị  giam giữ tại chốn địa ngục trần gian này. Điển hình là ông Tằng quê  ở  Quảng Ngãi,   Sau khoảng 8 năm  ở  tù, ông  được trao trả theo Hiệp định Paris, khi ấy ông chỉ còn 23kg. Đặc biệt hơn trong   cạp quần ông có giắt 8 chiếc răng của chính mình. Hiện nay 8 chiếc răng đó  đang nằm trong Bảo tàng của những người tù Phú Quốc, tại huyện Phú Xuyên,  TP.Hà Nội”.   Cùng với đó là hình  ảnh về  người lính đặc công năm xưa Nguyễn Viết   Vĩnh  ở  Hải Phòng. Sau khi bị  tra tấn tại nhà lao non nước thì ông tiếp tục bị  chuyển đến nhà tù Phú Quốc và bị tra tấn với nhiều hình thức dã man, hàm răng  dưới của ông Vĩnh đã bị rụng hết, mỗi khi trái gió trở trời thì đôi tai ông lại ù lên  nghe như  có tiếng máy bay đang gầm rú. khắp mình lại đau nhức ê  ẩm và tê   buốt mà đó là hậu quả từ những lần tra tấn của địch cách đây mấy chục năm. Bác Lương Quang Hồng  ở  thành phố  Hồ  Chí Minh ­ cựu tù Phú Quốc bị  giam cầm từ tháng 5/1968 đến tháng 3/1973, nhớ  lại: “Gồng mình trước những  đòn tra tấn của địch gần như  không còn con đường sống, nhiều anh em, đồng   chí may mắn thoát chết, trong đó có tôi. Kẻ  địch càng tra tấn tàn bạo thì càng  làm bừng lên khí phách kiên trung, bất khuất của người cộng sản, tuyệt đối  trung thành với Đảng, với Tổ  quốc, với nhân dân”.  Bác Hàn Long Biên, bác  Lương Quang Hồng và nhiều cựu tù Phú Quốc khác đều chung nhận xét: “Phú  Quốc hôm nay phát triển ngoài sức tưởng tượng của những cựu tù chúng tôi.  Sân bay quốc tế, bến cảng, cáp ngầm xuyên biển đưa điện quốc gia ra đảo,  đường cao tốc Nam ­ Bắc đảo, khu đô thị  mới, khu du lịch… được đầu tư  xây  18
  19. dựng hiện đại. Nhà cửa, phố xá, đô thị sung túc khang trang, sạch đẹp. Khách du  lịch đến đông vui. Các thế  hệ  lãnh đạo của huyện Phú Quốc, của tỉnh Kiên   Giang, đang nỗ  lực xây dựng Phú Quốc đẹp giàu như hôm nay, không phụ lòng  những chiến sĩ cách mạng anh dũng hy sinh trên đất đảo này và nhiều người  khác đã góp một phần máu xương, công sức, mồ hôi, nước mắt trong đấu tranh   đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Nhiều cựu tù, đồng đội chúng tôi năm xưa rất muốn  trở về thăm lại Phú Quốc.” Hình ảnh các chiến sĩ nhân dân ta thật là kiên cường, bất khuất, dũng cảm,   dù phải chịu nhiều sự  tra tấn dã man thậm chí đánh đổi bằng cái chết, nhưng  vẫn kiên cường đấu tranh chống lại kẻ thù, , tìm mọi cách, mọi hình thức có thể  để sớm về với cách mạng, với Đảng, vững chắc niềm tin nhất định đánh thắng   kẻ thù xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc CHƯƠNG 5: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ NHÀ TÙ PHÚ QUỐC  1.1.Giá trị lịch sử  Nhà tù ở Phú Quốc vẫn được biết đến là một di tích quốc gia đặc biệt. Nơi  đây lưu giữ  lại tội ác của đế  quốc Mỹ  đối với dân tộc ta. Đế  quốc Mỹ  đã sử  dụng mọi cực hình dã man để làm mất đi ý chí chiến đấu và tinh thần yêu nước  của nhân dân. Cảnh được dựng lại như  tái hiện rõ nét hình ảnh tra tấn tàn bạo  của Mỹ Ngụy. Đồng thời tố cáo tội ác của họ.          Trại giam Tù binh Cộng sản Việt Nam/Phú Quốc ­ Di tích Quốc gia đặc  biệt  hôm nay nhuộm  thắm máu  đào của hơn 4.000 chiến sĩ  cách mạng ngã  xuống và hàng chục ngàn cán bộ, chiến sĩ cộng sản đã vượt qua cái chết, tiếp  tục chiến đấu đến ngày chiến thắng 30/4/1975. Di tích lịch sử này có giá trị lịch  sử to lớn, gắn liền với vận mệnh dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng   miền Nam, thống nhất đất nước, nơi thắp sáng lên chủ  nghĩa anh hùng cách   mạng với những người chiến sĩ cộng sản mưu trí, dũng cảm, kiên trung, bất  khuất, sẵn sàng hy sinh tất cả cho Đảng, cho Tổ quốc và nhân dân, nơi giáo dục   19
  20. truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho mọi người dân  ViệtNam.          40 năm qua, tỉnh Kiên Giang tập trung tìm kiếm, thu thập tài liệu, hiện vật  liên quan đến Di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc; gìn giữ, tu bổ các di chỉ còn lại,  phục dựng hiện trạng dấu tích đã mất; khai quật, tìm kiếm hài cốt các liệt sĩ.   Tỉnh tổ  chức hội thảo khoa học về  di tích lịch sử  Trại giam Phú quốc với sự  tham gia của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, nhà khoa học và các cựu tù Phú  Quốc, khẳng định giá trị  to lớn của Di tích Nhà tù Phú Quốc trong lịch sử  đấu   tranh cách mạng giải phóng miền Nam. Hiện nay, trong khuôn viên Di tích Quốc  gia đặc biệt Nhà tù Phú Quốc, các hạng mục nhà trưng bày hiện vật, nghĩa trang   tù binh, đài tưởng niệm liệt sĩ đã được tu bổ, tôn tạo; khu trụ sở tiểu đoàn quân   cảnh, khu làm việc của bộ chỉ huy trại giam, khu Trại giam B2 được phục dựng   gần   nhưnguyêngốc. Năm 1995, Khu di tích lịch sử  Nhà tù Phú Quốc được Bộ  Văn hóa ­ Thông tin  công nhận di tích cấp quốc gia.  Di tích lịch sử  Nhà tù Phú Quốc gồm có tượng đài hình nắm tay, là "biểu   tượng của sự đàn áp khốc liệt và tinh thần hiên ngang vùng lên phá xiềng của tù  binh Phú Quốc", nghĩa trang liệt sĩ, và khu Trại giam Tù binh Phú Quốc được  phục dựng.  Ngày 27/3/2015, tại lễ  công bố  Quyết định của Thủ  tướng Chính  phủ xếp hạng 14 di tích quốc gia đặc biệt của cả nước, trong đó có Di tích lịch  sử  Nhà tù Phú Quốc, Chủ  tịch UBND tỉnh Kiên Giang Lê Văn Thi khẳng định:   Tỉnh sẽ tiếp tục thực hiện công tác tu bổ, phục dựng, tôn tạo di tích Nhà tù Phú  Quốc, tiến hành xây dựng Khu tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ hy sinh tại đây  và 11 bia ghi dấu địa điểm 11 khu giam còn lại của di tích, nhằm thể hiện nhiều  hơn nữa giá trị lịch sử quý giá của di tích, giáo dục truyền thống yêu nước, tinh  thần đấu tranh cách mạng kiên trung, bất khuất cho các tầng lớp nhân dân, nhất  là thế  hệ  trẻ  Việt Nam, đồng thời giới thiệu một cách sinh động về  ý chí đấu  tranh giành, giữ độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam với bạn bè thế giới.         Di tích quốc gia đặc biệt Nhà tù Phú Quốc là điểm đến không thể thiếu của   20
nguon tai.lieu . vn