Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC CỬU LONG
KHOA: KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
MÔN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TIỂU LUẬN
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: Ths. ĐINH THỊ TÂN
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1. LÊ THỊ KIỀU TIÊN (MSSV:2111063008)
2. DƯƠNG NGỌC TUYẾT CHÂN
(MSSV:2111063018)
3. NGUYỄN NHƯ QUỲNH (MSSV:2111063020)
4. NGUYỄN BÙI NHƯ PHƯƠNG (MSSV:2111063006)
MỤC LỤC
- PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử là một chặng đường dài của mỗi quốc gia. Dân tộc nào cũng trải
qua những năm tháng hào hùng bi tráng. Và nhờ những năm tháng đó mà con
người càng hoàn thiện hơn, càng phát triển hơn về mọi mặt trong đó có nhân
cách. Việt Nam là một đất nước có lịch sử rất oai hùng , bề dày lịch sử hơn
4000 năm và là một người dân Việt Nam, chúng ta không thể quên được những
cuộc chiến mà nhân dân ta phải trải qua. Qua những di tích văn hoá, lịch sử để
lại ta càng thấy tự hào, trân trọng những người đã ngã xuống vì nước nhà, thật
oanh liệt. Chúng ta là những người may mắn và hạnh phúc sinh ra trong thời
bình nhưng qua những nhân chứng lịch sử, qua trang sử hào hùng chúng ta phải
luôn tự hào về những chiến công cũng như biết ơn về các anh hùng đã ngã
xuống vì độc lập tự do của tổ quốc.
Phú Quốc là hòn đảo lớn nhất Việt Nam, là thành phố đảo đầu tiên của
Việt Nam. Nói đến du lịch Phú Quốc, ngoài khám phá những bờ biển tuyệt đẹp
và những món đặc sản trứ danh, không ai có thể bỏ qua được di tích nhà tù Phú
Quốc nơi đây từng là “địa ngục trần gian” ghi dấu tinh thần kiên trung của
những người tù cộng sản, tố cáo tội ác tày trời của đế quốc Mỹ. Nhà tù Phú
Quốc chính là bức tranh chân thực nhất về sự dã man, tàn bạo của kẻ địch
trong thời loạn. Trên nền tảng đó, chúng tôi chọn đề tài Nhà tù Côn Đảo Phú
Quốc là đề tài nghiên cứu của nhóm, cùng với những lí do như sau:
Một là: Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Dân ta phải biết sử ta/Cho
tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Thật vậy, câu nói của Hồ Chủ Tịch chính
là lời nhắc nhở sâu sắc với con dân đất Việt về lịch sử nước nhà. Có thể nói,
lịch sử là cội rễ của sự hình thành nền văn hóa, là lời giải đáp về gốc tích tổ
tiên cha ông mà mỗi con người, mỗi quốc gia đều mang một ẩn số riêng. Lịch
sử đem lại cho chúng ta cái nhìn sâu sắc hơn về nguồn cội, về cha ông, tổ tiên,
nâng cao thêm lòng tự tôn dân tộc, chắp cho đôi cánh của niềm tự hào về một
2
- trang sử đau thương mà oanh liệt của những con người đã hóa núi sông ta. Bên
cạnh đó, lịch sử còn đem lại những giá trị truyền thống, của đạo đức mà cha
ông ta truyền lại cho con cháu ngàn đời.
Hai là: Chào mừng 67 năm Ngày Cách Mạng Tháng Tám và Quốc Khánh
2/9. Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản ”Tuyên ngôn Độc lập” lịch sử, trịnh trọng
tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới: Nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam).
Ba là: Nước ta đang trong quá trình đấu tranh với dịch Covid19. Với sự
đồng lòng, chung sức, ý chí quyết tâm rất cao của toàn Đảng, toàn quân, toàn
dân đẩy lùi dịch Covid19, cho người dân được trở lại cuộc sống bình yên như
ông cha ta đã từng nằm xuống vì hòa bình đất nước.
Bốn là: Giới thiệu Nhà tù Phú Quốc – một trong những di tích quốc gia
đặc biệt được nhiều du khách trong và ngoài nước ghé thăm nhiều nhất
Từ những lí do đó, chúng tôi quyết định chọn Nhà Tù Côn Đảo làm đề tài
nghiên cứu, cùng nhau nhìn lại vào những trang sử oanh hùng của dân tộc,
những nỗi đau của lịch sử. Vì nhà tù Phú Quốc là một nhân chứng sống cho
lòng yêu nước của dân tộc ta. Đồng thời, chúng tôi muốn nghiên cứu nó một
cách sâu sắc hơn để có thể tự tin quảng bá hình ảnh đẹp này đến với những
bạn bè trong và ngoài nước, những ai chưa biết đến nhà tù Phú Quốc – một khu
di tích của hòn đảo ngọc xinh đẹp. Là “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống
“Uống nước nhớ nguồn” cho thế hệ trẻ, để bản hùng ca giữa trùng khơi về
tinh thần độc lập tự do sẽ tiếp tục vang vọng trong mỗi trái tim người Việt
Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những vấn đề xoay quanh nhà tù Phú Quốc luôn được các nhà văn hóa,
sử gia, kiến trúc sư, dân tộc học, dịch học, phong thủy học, âm nhạc, hội họa
tìm tòi nghiên cứu hoặc viết lẻ tẻ đăng báo, hoặc viết thành sách. Cuốn sách
“Trại giam tù binh Phú Quốc Những trang sử đẫm máu” được các nhân chứng
lịch sử viết lên bằng cả sự thật, trải nghiệm của chính bản thân trong những
3
- năm tháng bị giam giữ, tra tấn trong tù. Tuân thủ nguyên tắc trung thực, tác giả
khách quan chọn lọc, ghi lại những điều thật sự đã xảy ra phía sau những dây
thép gai. Sách do tác giả Trần Văn Kiêm, NXB Tổng Hợp TPHCM xuất bản.
Cùng đó, là cuốn Trại giam tù binh Phú Quốc thời kỳ chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược của tác giả Phạm Thiên Thư, NXB Tổng Hợp
TPHCM tái bản 2018. Tinh thần kiên trung, bất khuất ấy đã từng được nhiều
nhà văn, nhà thơ và cả nhiều đồng chí sau ngày “chiến thắng trở về” khắc
họa… Cuốn Trại giam tù binh Phú Quốc thời kỳ chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược đã góp thêm tiếng nói tương đối toàn diện về cuộc chiến
đấu bi hùng nhưng rất đáng tự hào, đã nêu nhiều bài học quý báu cho Đảng ta,
cho quân đội và nhân dân ta.
Ngoài ra, chúng ta còn được thấy trên mọi phương diện báo chí, phóng
sự và phim tài liệu. Người đọc được biết đến nhiều cuộc đấu tranh mà chỉ có
bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng, với nghị lực sáng tạo phi thường của
chiến sĩ cách mạng, chiến sĩ cộng sản bị địch bắt, tù đày mới đủ sức chống lại
bọn đao phủ ác ôn, mà tội ác của chúng trời không dung, đất không tha.
3. Mục tiêu và mục đích nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu:
Một là, nghiên cứu về quá trình hình thành chứng tích Nhà tù Phú Quốc
từ xưa đến nay, từ đó đưa ra cho người đọc, người xem một cái nhìn tổng quan
về nhà tù.
Hai là, tìm hiểu về những nỗi đau, cuộc sống nơi được gọi là “ Địa ngục
trần gian” và tinh thần bất khuất, ý chí sắt đá của các chiến sĩ cách mạng.
Ba là, tìm hiểu những tội ác tàn bạo, dã man của giặc đối với nhân dân
ta.
Mục đích nghiên cứu:
Một là, ngày nay, cuộc sống của con người ngày càng được hiện đại hóa
hơn thì nhu cầu trở về cội nguồn tìm hiểu những văn hóa truyền thống là một
4
- nhu cầu thiết yếu, nâng cao hiểu biết những giá trị văn hóa, lịch sử, những danh
nhân văn hóa của mọi thời đại, của mỗi quốc gia, dân tộc.
Hai là, làm tư liệu cho việc học tập, nghiên cứu sau này.
Ba là, thoả mãn về sự hiếu kỳ, tìm tòi về những giá trị lịch sử quý giá
của dân tộc.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu về Nhà tù Phú Quốc – một địa danh, di tích lịch sử
mang đậm dấu ấn dân tộc, tồn tại từ năm 19671973. Nơi còn được biết đến
với tên gọi “ Nhà lao Cây Dừa” thuộc tỉnh Kiên Giang. Nghiên cứu tổng thể về
Nhà tù Phú Quốc, lịch sử nhà tù trong những năm kháng chiến.
5. Câu hỏi nghiên cứu
Quá trình hình thành và về dày lịch sử của Nhà tù Phú Quốc như thế nào?
Di tích được dựng lại theo những sự kiện lịch sử thực tế, vậy có còn tồn
tại những nỗi đau trong quá khứ còn kéo dài đến hiện tại?
Những tội ác tàn bạo của giặc đối với nhân dân ta được thể hiện như thế
nào?
6. Giả thuyết nghiên cứu
Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc, hay Trại giam Tù binh Cộng
sản Phú Quốc là một trại giam nằm tại phường An Thới ở phía nam đảo Phú
Quốc. Trong Chiến tranh Đông Dương, trại giam này có tên là Nhà lao Cây
Dừa. Đây là trại giam tù binh trung tâm toàn Việt Nam Cộng hòa, từng giam giữ
hơn 32.000 tù binh (40.000 tù nhân nếu tính cả tù chính trị nhiều thời kỳ) được
xây dựng từ năm1949.
Như một mảng tối ám ảnh giữa đảo ngọc trong xanh thanh bình, Nhà tù
Phú Quốc là minh chứng chân thực về sự khốc liệt của chiến tranh, chỉ tham
quan và nhìn thôi cũng đã đủ làm du khách rùng mình về sự dã man và tàn nhẫn
mà những tù nhân ở đây từng gánh chịu. Hiện nay, hang năm di tích Trại giam
Phú Quốc đón hàng chục nghìn lượt khách tham quan trong và ngoài nước
5
- (trong đó có nhiều cựu tù binh là chứng nhân sống về lịch sử di tích), góp phần
giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh cách mạng bất khuất cho
các thế hệ.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài dùng phương pháp phân tích tài liệu là chủ yếu. Thu thập tài liệu,
tổng hợp, phân tích.
Phương pháp thu thập tài liệu: Dùng tài liệu thu thập được trên sách báo,
internet, hình ảnh,… để có cái nhìn tổng quát đầy đủ bao quát về nhà tù Phú
Quốc.
Phương pháp quan sát: Quan sát, tổng hợp trên những gì thực tế thấy
được.
Phương pháp tổng hợp: Nhằm tổng hợp lại các kiến thức có trong tài
liệu thu thập được trên nguồn internet đưa ra những luận điểm, những vấn đề
để phân tích.
Phương pháp phân tích: Dựa trên tài liệu thu thập về nhà tù Phú Quốc
nhóm chúng tôi phân tích tổng hợp làm rõ những tội ác man rợ dã man mà bọn
thực dân đã làm đối với người chiến sĩ cách mạng từ đó cho thấy sự hi sinh hào
hùng của ông cha ta để chiến đấu bảo vệ đất nước cho ta cuộc sống bình yên
như ngày hôm nay.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Về mặt khoa học, nghiên cứu đề tài này giúp cho mọi người sẽ hiểu
được sâu hơn về khu di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc, tạo ra nguồn tài liệu
phục vụ cho những nghiên cứu sâu hơn về sau.
Về mặt thực tiễn, việc thực hiện đề tài nghiên cứu về Nhà tù Phú Quốc
sẽ giúp nhóm chúng em hoàn thành môn học và bổ sung kiến thức cho bản thân.
Nó sẽ là nguồn tài liệu sau này giúp cho học sinh, sinh viên bổ sung thêm kiến
thức trong học tập và làm việc.
9. Dự kiến dàn ý công trình nghiên cứu
Phần mở đ ầ u
6
- 1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3. Mục tiêu và mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Câu hỏi nghiên cứu
6. Giả thuyết nghiên cứu
7. Phương pháp nghiên cứu
8. Ý nghĩa
9. Dự kiến dàn ý công trình nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
1. Cơ sở lí luận
2. Cơ sở thực tiễn
Chương 2: Tổng quan về Nhà tù Phú Quốc
1. Vị trí địa lí
2. Những khu vực chính tại Nhà tù Phú Quốc
Chương 3: Lịch sử Nhà tù Phú Quốc trong những năm kháng chiến
1. Thời kì kháng chiến chống Pháp
2. Thời kì chiến tranh Việt Nam
Chương 4: Nhà tù Phú Quốc – Minh chứng tội ác tàn bạo
1. Những hình thức tra tấn
2. Chứng tích chiến tranh tàn khốc
Chương 5: Gía trị lịch sử của Nhà tù Phú Quốc
7
- 1. Gía trị lịch sử
2. Những điều có thể bạn chưa biết về nhà tù Phú Quốc
Kết luận
Ý nghĩa
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
Khái niệm Nhà Tù: Nhà tù, hay trại giam/ cơ sở cải huấn / trung tâm giam
giữ / trung tâm cải tạo, là một cơ sở mà ở đó các tù nhân bị giam nhốt cưỡng
bức và bị từ chối các quyền tự do thuộc thẩm quyền của nhà nước. Nhà tù được
sử dụng phổ biến nhất trong hệ thống tư pháp hình sự: những người bị buộc tội
có thể bị bỏ tù cho đến khi họ xét xử; những người nhận tội hoặc bị kết tội tại
phiên tòa có thể bị phạt tù trong một thời gian nhất định. Nói một cách đơn giản
nhất, nhà tù cũng có thể được mô tả là một tòa nhà trong đó mọi người bị giam
giữ một cách hợp pháp như một hình phạt cho tội ác mà họ đã gây ra.
Nhà tù cũng có thể được sử dụng như một công cụ các chế độ độc tài dùng
để đàn áp chính trị. Các đối thủ của họ có thể bị bỏ tù vì các tội ác chính trị,
thường mà không cần xét xử hoặc theo thủ tục pháp lý khác; việc sử dụng này
là bất hợp pháp theo hầu hết các hình thức luật quốc tế quản lý việc quản lý
công bằng công bằng. Trong thời kỳ chiến tranh, tù nhân chiến tranh hoặc
những người bị giam giữ có thể bị giam giữ trong các nhà tù quân sự hoặc trại tù
binh chiến tranh, và một nhóm lớn dân thường có thể bị giam giữ trong các trại
tạm giam
Khái quát về Nhà tù Phú Quốc: Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc,
hay Trại giam Tù binh Cộng sản Phú Quốc là một trại giam nằm ở phía nam
8
- đảo Phú Quốc. Trong Chiến tranh Đông Dương, trại giam này có tên là Nhà lao
Cây Dừa. Đây là trại giam tù binh trung tâm toàn Việt Nam Cộng hòa.
Đảng Cộng sản Việt Nam: ra đời trong lòng một đất nước còn đang chìm
ngập trong bóng tối của chế độ phong kiến, thực dân, hơn 90% người mù chữ
và một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, nạn đói xảy ra hằng năm. Mấy ngàn
người cộng sản đầu tiên ấy tồn tại trong máu lửa khủng bố bạo tàn, nhiều
người đã hy sinh, nhiều người đã nếm trải những nhà tù khét tiếng nhất ở Sơn
La, Côn Đảo, Hỏa Lò, Phú Quốc…
1.2. Cơ sở thực tiễn
Năm 1949 khi quân Trung Hoa Quốc dân đảng thua trận trước Quân Giải
phóng Nhân dân Trung Quốc, Hoàng Kiệt ( ? ? Huang Chieh) tướng lĩnh tỉnh Hồ
Nam dẫn hơn 30000 quân chạy sang Việt Nam, lúc bấy giờ được Pháp đưa ra
đóng quân tại phía Nam đảo Phú Quốc. Sau đó, năm 1953, họ về Đài Loan theo
Tưởng Giới Thạch. Họ bỏ lại nhà cửa đồn điền, thực dân Pháp thấy vậy tận
dụng nhà cửa có sẳn lập ra nhà tù rộng khoảng 40 hecta gọi là "Trại Cây Dừa"
nhốt tù binh gần 14000 người.[2] Trại gồm 4 khu nhà giam A, B, C, D. Các tù
binh cộng sản bị Pháp bắt từ các chiến trường Trung, Nam, Bắc Việt Nam bị
tập trung đưa ra trại giam này ở Phú Quốc. Số tù binh này gồm khoảng 14000
người, đa số từ nhà tù Đoạn Xá (Hải Phòng). Cũng như tại các nhà tù khác trong
Chiến tranh Đông Dương, tù nhân cộng sản tại Trại Cây Dừa sinh hoạt đấu
tranh chống khủng bố, đàn áp, và tổ chức vượt ngục. Sau hơn 1 năm ở trại, có
99 tù nhân bị chết, 200 người vượt ngục.
Cuối năm 1955, Việt Nam Cộng hòa xây dựng một trại giam ở địa điểm
Căng Cây Dừa cũ, với diện tích rộng 4 ha, đặt tên là Trại huấn chính Cây Dừa,
còn gọi là Nhà lao Cây Dừa. Trại tù có nhà giam tù nam, nhà giam tù nữ, nhà
giam phụ lão. Ngày 2 tháng 1 năm 1956, 598 người tù từ trại Trung tâm huấn
chính Biên Hòa được đưa đến đề lao Gia Định, rồi đưa xuống tàu vận tải Hắc
Giang của hải quân chở từ Sài Gòn về đến Phú Quốc. Về sau còn có thêm một
số tù chính trị thuộc diện "Việt Cộng" hoặc "thân Cộng" cũng được đưa đến
Trại huấn chính Cây Dừa.
9
- Tổ chức Chữ thập Đỏ đã đến nhà tù Phú Quốc vào những năm 1969, 1972.
Các nhà quan sát của tổ chức này đã thấy sự tàn bạo có hệ thống và kéo dài tại
nhà tù. Họ tìm được các vật chứng của nhục hình ở các tù binh, trong đó có các
vết sẹo do tra tấn bằng điện, thể hiện của sự thiếu ăn, suy dinh dưỡng. Tháng 8
năm 1971, một điều tra viên của Sứ quán Mỹ tại Việt Nam Cộng hòa báo cáo về
sự đánh đập tù nhân tại Phú Quốc vẫn tiếp diễn. Trong Quân lực Việt Nam
Cộng hòa, lực lượng canh gác tại nhà tù được đánh giá chỉ bằng số tù binh trốn
trại, không có cố gắng nào trong việc kỷ luật các giám thị xử tệ với tù nhân. Sau
các kết quả điều tra của MACV và Sứ quán Mỹ, Tướng Cao Văn Viên, tổng chỉ
huy Quân lực Việt Nam Cộng hòa, vẫn khẳng định rằng các đoàn kiểm tra của
tổ chức Chữ thập Đỏ quốc tế đã báo cáo sai lệch về tình trạng ở nhà tù.
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN VỀ NHÀ TÙ PHÚ QUỐC
1.1. Vị trí địa lí
Nhà tù Phú Quốc nằm tại địa chỉ số 350 Nguyễn Văn Cừ, thuộc xã An
Thới, huyện đảo Phú Quốc, tọa lạc ở hòn đảo phía Tây Nam nước ta thuộc tỉnh
Kiên Giang. Ngoài ra, Nhà tù Phú Quốc cũng có một trại giam tù hình sự, giam
giữ những tù nhân thường phạm bị kết án 10 năm trở lên, ở phường Dương
Đông, mặt tây của đảo. Hiện tại Nhà tù Phú Quốc là một trong những điểm du
lịch lịch sử, nơi ghi lại tội ác của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Đây là một
trong những địa điểm tham quan nổi tiếng của du lịch Phú Quốc. Mỗi năm nhà
tù Phú Quốc đón hơn 10 nghìn lượt khách ra vào tham quan.
1.2. Những khu vực chính tại nhà tù Phú Quốc
Diện tích Trại giam Phú Quốc lên đến 400 hecta có tất cả là 12 khu (năm
1972) được đánh số từ khu 1 đến khu 12.Riêng khu 13, 14 được xây dựng thêm
vào cuối năm 1972. Mỗi khu có 4 phân khu A, B, C, D. Mỗi phân khu có 9 phòng
10
- để tù binh ở, có 2 phòng để thẩm vấn, phạt vạ hoặc biệt giam tù binh.Mỗi khu
trại giam lại được chia làm nhiều phân khu. Thường thì có 4 phân khu, trong 1
khu.Xung quanh mỗi phân khu là 04 vọng gác canh giữ 24/24 giờ và 10 vọng gác
lưu động, đèn chiếu sáng toàn khu trại. Riêng phân khu B2 dành riêng để giam
giữ các sĩ quan. Tù binh có cấp bậc lớn nhất là Thượng tá. Nhà tù Phú Quốc
cũng có một trại giam tù hình sự, giam giữ những tù nhân thường phạm bị kết
án 10 năm trở lên, ở phường Dương Đông, mặt tây của đảo.Trại giam Tù binh
Chiến tranh Phú Quốc do 3 tiểu đoàn quân cảnh (7, 8, 12) canh giữ.
Hiện nay, di tích chỉ còn lại một số hạng mục sau:
Cổng Tiểu đoàn 8 quân cảnh: được làm bằng lõi trụ sắt và gạch đặc, tạo
thành 02 trụ vuông hai bên.
Nghĩa địa tù binh: diện tích 20.427,8m2, nằm ở khu vực đồi 100, bốn mặt
đều giáp với đất của Hải quân vùng 5, cách điểm Trại giam phân khu B2
khoảng 1km. Sau năm 1975, toàn bộ công trình được xây bằng bê tông cốt thép,
có hàng rào bao quanh. Khu trung tâm nghĩa địa được thiết kế hình tròn, chính
giữa có một khối hình chữ nhật, bên trên là tượng đài hình nắm tay (nắm đấm)
thể hiện lòng căm thù, tinh thần kiên cường, bất khuất, sẵn sàng hy sinh của các
chiến sĩ… Ở các vách tường phía bên trong của hình chữ nhật, cách mặt đất
khoảng 1m, được dùng làm bia ghi danh liệt sĩ.
Nhà thờ Kiến Văn: có diện tích 4.837,6m2, hiện là phế tích, tại đây chỉ
còn lại vài mảnh tường, cùng nền xi măng và các cột góc tường.
Nhà trưng bày bổ sung di tích được xây dựng bằng bê tông cốt thép, chia
thành 02 phòng với 43 hiện vật và hơn 100 hình ảnh tư liệu: phòng chiếu phim
giới thiệu sơ lược về Phú Quốc và phòng giới thiệu về tổng thể trại giam với
03 phần: Phần I, sa bàn và toàn cảnh trại giam (quá trình hình thành và tồn tại),
phần II, những hình thức tra của địch và phần III, những hình thức đấu tranh và
các kỷ vật của tù binh.
11
- Phân khu B2: được phục dựng lại với diện tích 17.693 m2, gồm các hạng
mục như sau:
Vọng gác (chòi canh): nằm ở bốn góc của phân khu giam B2, được làm
bằng cột thép, cao khoảng 5m, rộng khoảng 1,5m, mái che bằng tôn.
Hàng rào: là hệ thống dây kẽm gai, sắc nhọn, bùng nhùng được quấn
thành 8 đến 10 lớp, cách khoảng 2 3m dọc hàng rào có các cột sắt dùng để treo
bóng đèn.
Cổng trại giam của phân khu B2: được quấn nhiều lớp rào kẽm gai để
bao bọc, có quân cảnh bảo vệ.
Chuồng cọp kẽm gai: nằm bên phải cổng phân khu là các chuồng cọp
nằm, chuồng cọp ngồi, chuồng cọp nửa thấp nửa cao. Chuồng cọp dài khoảng
2m, rộng khoảng 0,5m, cao khoảng 0,5m, được để ngoài trời, nằm ngay sát mặt
đất, làm bằng kẽm gai, bên trong là các mô hình tù binh bị giam giữ.
Liền kề với các chuồng cọp kẽm gai là kiểu giam giữ tù binh bằng thùng
cát xô, thực tế đây là một công ten nơ nhỏ. Trên đỉnh có đục một lỗ thông hơi,
trên thành đục một cửa sổ nhỏ dùng để đưa cơm, nước vào cho người tù.
Dãy nhà bếp và nhà ăn: nằm bên phải của cổng vào, có 04 nhà (loại nhà
tiền chế, sườn là khung thép lắp sẵn, vách, mái, cửa sổ đều bằng tôn thiếc), bên
trong cũng có mô hình tù binh đang nấu ăn.
Dãy nhà dùng làm nơi ở, giam giữ và tra tấn tù binh: được đánh số từ 1
đến 18 theo thứ tự từ phải sang trái, là loại nhà tiền chế giống nhà bếp, bên
trong mỗi nhà có 02 dãy sàn lát ván gỗ làm chỗ nằm nghỉ cho tù binh. Sau khi
phục dựng, bên trong có mô hình tù binh, tái hiện các nội dung: phòng 1, cuộc
đấu tranh chống địch đàn áp tù binh vào ban đêm; phòng 2, cuộc sống và sinh
hoạt của tù binh vào những lúc địch không tổ chức đàn áp, khủng bố; phòng 3,
12
- cuộc đấu tranh biểu tình của tù binh phản đối địch; phòng 4, cuộc đấu tranh
tuyệt thực của tù binh; phòng 6, cuộc đấu tranh của tù binh và sự đàn áp đẫm
máu của địch ở Phân khu B8; phòng 13, 15, 16, một số hình thức tra tấn tù binh
điển hình của địch ở trại giam; các phòng 5, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 18, cảnh tù binh bị
giam giữ; phòng 14, đường hầm của tù binh đào để vượt ngục (đoạn hầm dài
khoảng 25m, đường kính khoảng 50 cm); phòng 17, cảnh tù binh đào hầm và
vượt ngục.
Phòng biệt giam B2: diện tích 9 x 3m, vách được dựng bằng thép tấm,
đục lỗ nhỏ, mái che bạt, dưới mái gần đỉnh đầu là lưới rào dây kẽm gai sắc
nhọn, nền đất tráng xi măng. Phòng biệt giam tái hiện cảnh tượng địch tra tấn tù
binh bằng chày vồ, bằng giày đinh, cho tù binh “đi tàu bay”, bị chôn sống…
Dãy nhà vệ sinh: nằm phía sau phòng giam 14 và 16, giáp với hàng rào phía
sau khu trại giam. Ở các dãy nhà vệ sinh đều có mô hình mô phỏng cảnh địch
bắt tù binh dọn dẹp, khiêng thùng phân đi đổ…
Đài tưởng niệm liệt sĩ tại Đồi Sim: diện tích 12.420,5m2, giáp với đất của
dân và tỉnh lộ 47, được xây bằng bê tông cốt thép. Đài tưởng niệm được thiết kế
với hai bên là biểu tượng hình ngọn sóng được sơn màu xanh da trời, cao
khoảng 5m và chính giữa là hình khối nhọn, được khoét rỗng khoảng 2m tạo
biểu tượng hình người mang ý nghĩa “những con người ra đi từ nơi ấy”.
Cổng Tiểu đoàn 7 quân cảnh: sau giải phóng năm 1975, cổng Tiểu đoàn 7
quân cảnh được di dời vào trong, cách địa điểm cũ 15m. Cổng được làm lại
bằng lõi trụ sắt và gạch chỉ đặc, tạo thành 02 trụ vuông hai bên, cao 4,1m, rộng
0,85m. Khoảng cách giữa 02 trụ cổng là 5,9m. Bao quanh cổng là tường rào cao
0,8m. Sát với trụ cổng bên trái (hướng từ ngoài vào) là bảng trích giới thiệu sơ
lược về Tiểu đoàn 7 quân cảnh.
Cổng và nhà Ban Chỉ huy trại giam: hiện nay ở điểm này chỉ còn lại cổng
và 04 nhà mới được phục dựng lại trên nền cũ, có diện tích 20m x 5,68m đều
được phục dựng bằng bê tông cốt thép, tường gạch, nền tráng xi măng, mái lợp
13
- tôn, cửa ra vào và cửa sổ làm bằng gỗ. Cổng mới tôn tạo lại được di dời vào
bên trong cách vị trí cũ 21,5m, được làm bằng trụ sắt và đổ bê tông. Cánh cửa
cổng chính làm bằng các thanh sắt ấp chiến lược và dây kẽm gai. Bao quanh
cổng và nhà Ban Chỉ huy trại giam là tường rào. Mặt tường rào phía trước giáp
tỉnh lộ 47, làm bằng dây kẽm gai, còn các mặt tường khác xây bằng bê tông.
CHƯƠNG 3: LỊCH SỬ NHÀ TÙ PHÚ QUỐC NHỮNG NĂM
KHÁNG CHIẾN
1.1. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp
Năm 1953, thực dân Pháp đóng quân tại Nam đảo Phú Quốc xây dựng nhà
tù khoảng 40 ha gọi là Trại Cây Dừa. Nơi đây giam giữ gần 14.000 tù binh, hầu
hết là các tù binh cộng sản bị Pháp bắt từ các chiến trường Bắc, Trung, Nam bị
tập trung về đây.
Cũng như những nơi khác, các tù nhân ở đây tổ chức đấu tranh, đàn áp và
vượt ngục. Sau hơn 1 năm có đến 99 người chết, 200 người vượt ngục.
Sau Hiệp định Genève năm 1954, Pháp trao trả hầu hết tù binh cho Việt
Nam Dân chủ Cộng Hoà.
1.2. Thời kỳ chiến tranh Việt Nam
Năm 1955, Việt Nam Cộng Hoà xây dựng trại giam tại địa điểm Căng Cây
Dừa cũ. Diện tích ban đầu là 4 ha, đặt tên là Trại huấn chính Cây Dừa, hay còn
gọi là Nhà lao Cây Dừa. Trại có các nhà giam phân tách nam, nữ, người cao tuổi.
Năm 1956, gần 600 tù nhân từ Đề lao Gia Định được tàu đưa đến đây.
Trước đó là từ Trung tâm huấn chính Biên Hoà. Về sau nhiều tù nhân chính trị
cũng được đưa đến Nhà lao Cây Dừa.
Cũng trong năm 1956, có khoảng 100 tù nhân vượt ngục, nhiều người bị
bắn chết khi vượt rào. Vì nhận thấy tình hình bất ổn, những tù nhân chính trị bị
đưa về đất liền, một số bị đày ra Nhà tù Côn Đảo.
14
- Một trại giam rộng hơn 400 ha được xây dựng cách địa điểm Căng Cây
Dừa cũ 2km, nằm tại thung lũng An Thới. Trại giam chia thành 12 khu, mỗi khu
chia thành 4 phân khu với số lượng hơn 400 nhà giam. Mỗi phân khu đều có 2
phòng để thẩm vấn, phạt hoặc biệt giam. Trại giam này thường được gọi là
Trại giam tù binh Phú Quốc.
Ngày nay nhà tù đã trở thành Di tích lịch sử tại Đảo Ngọc. Đây cũng là nơi
tham quan, tìm hiểu của du khách trong và ngoài nước. Tại đây bao gồm khu
trưng bày hiện vật trong nhà và khu trưng bày ngoài trời hầu như còn giữ
nguyên vị trí của hiện vật.
CHƯƠNG 4: NHÀ TÙ PHÚ QUỐC MINH CHỨNG TỘI ÁC
TÀN BẠO
1.1. Những hình thức tra tấn
Để có được nền hoà bình cùng gây dựng phát triển đất nước như ngày hôm
nay cả một quá trình phải đánh đổi bằng xương, bằng máu, bằng những cuộc
chia ly và bằng hàng ngàn tính mạng con người vô tội. Bọn thực dân và bè lũ tay
sai không chỉ cướp nước chia mà còn đàn áp quân và dân ta bằng những thủ
đoạn man rợ nhất. Sau những năm tháng trao tay chính quyền, đặc biệt đến thời
Mỹ – Nguỵ chỉ trong vòng 6 năm từ 19671973 chúng đã bắt giữ và tra tấn bằng
những phương thức ghê rợn nhất đến hàng loạt các chiến sĩ Cộng Sản cũng như
người dân vô tội đã khiến cho Nhà tù Phú Quốc gây ra nỗi ám ảnh kinh hoàng
cho bất kì ai từng đến nơi đây.
Nhà tù Phú Quốc là bằng chứng về tội ác dã man, tàn bạo với hơn 45 kiểu
tra tấn dã man của Mỹ – Ngụy. Với bộ máy điều hành, quản lý của địch ở nhà
tù Phú Quốc có khoảng 2.000 nhân viên và sỹ quan, gồm cả hải quân, lục quân,
không quân,… chúng đã giam giữ tổng cộng khoảng 40.000 lượt tù binh, chủ
yếu là cán bộ, chiến sĩ cách mạng và dân thường. Số lượng tù binh bị nhồi nhét
trong các phòng giam lúc cao điểm từ 120 – 180 người. Theo thống kê, đã có
khoảng 4.000 tù binh bị giết hại, hàng chục nghìn người bị thương tật, tàn phế.
15
- Thật không thể nào lột tả được nỗi thống khổ của quân và dân ta lúc bấy giờ.
Chỉ có thể gói gọn trong cụm từ miêu tả về nơi đây: “Địa ngục trần gian”.
Đầu tiên, ngoài khu giam giữ tập trung, nơi đây có những dãy chuồng kỳ lạ
như để nuôi động vật. Chúng được gọi là “chuồng hổ”, một công cụ tra tấn tù
nhân tàn bạo. Những chuồng này được làm bằng rào kẽm gai, chỉ đủ chỗ cho tù
nhân nằm hoặc ngồi. Quản ngục nghĩ ra đủ biện pháp tàn bạo để tra tấn, từ đổ
nước lạnh lên người tù nhân vào ban đêm, đổ nước muối hoặc hơ lửa gần
chuồng vào những ngày oi nóng. Đã có rất nhiều tù nhân đã chết bởi hình thức
tra tấn này.
Đục răng là một trong những màn tra tấn được coi là nhẹ nhất trong 24
hình thức tra tấn dã man được nghĩ ra để tra tấn các tù nhân nhà tù Phú Quốc.
Một chiếc gậy nhỏ được kê vào răng tù nhân, sau đó gõ búa vào đầu gậy. Muốn
đục răng hàm trên thì đánh xuống, đục răng hàm dưới thì đánh lên. Một khi răng
đã rơi ra thì tù nhân phải nuốt ngay máu, có người còn bị bắt nuốt trôi luôn cả
răng xuống dạ dày. Khi nhìn thấy cảnh đó, mình bất giác rờ tay lên xem răng
mình còn không. Ai trong chúng ta từng phải nhổ răng hẳn vẫn nhớ nỗi đau ấy ê
ẩm đến như thế nào, ấy vậy mà các tù binh nhà tù Phú Quốc phải chịu đục liền
một lúc hai, ba, thậm chí đến chục chiếc răng cùng một lúc thì hẳn còn đớn đau
gấp vạn lần.
Kinh khủng hơn là màn tra tấn bằng đèn cao áp. Những người tù nhân bị
đặt nằm trên ghế, sau đó một chiếc đèn cao áp được đặt ngay trên mắt tù nhân.
Quản ngục nhà tù Phú Quốc ép tù nhân phải mở to mắt và chiếu đèn vào trong
thời gian dài, cho đến khi mắt bị chín đến phát nổ con ngươi mắt
Còn có những tù nhân bị cho vào thùng phuy chứa đầy nước. Một tên quản
ngục nhà tù Phú Quốc ấn đầu tù nhân xuống cho ngập nước, tên kia dùng búa gõ
mạnh vào thùng phuy, khiến nhiều tù nhân vỡ tai, sặc nước tới chết. Nếu đã
từng bị ai đó hét vào tai, hẳn bạn sẽ cảm thấy rất đau đầu đúng không nào?
Tưởng tượng nỗi đau đó nhân lên gấp ngàn lần, và bạn sẽ hình dung ra được
những gì các tù nhân phải trải qua.
Một hình thức tra tấn man rợ khác, tưởng như chỉ có từ thời Trung Cổ, là
luộc sống các tù nhân. Các quản tù của nhà tù Phú Quốc bỏ tù nhân vào bao tải,
16
- sau đó bỏ lên chảo nước đang sôi sùng sục. Nếu ai trong chúng ta từng bị bỏng
nước sôi sẽ biết rằng vị trí bỏng trở nên vô cùng đau và rát, dù chỉ là một phần
cơ thể rất nhỏ. Tôi không thể tưởng tượng được nỗi đau ấy sẽ lớn đến thế nào
khi toàn bộ cơ thể bị nhận chìm trong nước sôi. Bất chấp cơ thể bỏng rát đau
đớn, các tù nhân vẫn kiên quyết không hé răng hay kêu gào đau đớn, buộc phải
coi khinh những đòn tra tấn của quản tù.
Ngoài ra, còn có nhiều hình thức tra tấn dã man khác dùng để hành hạ tinh
thần và thể xác dường như chỉ có ở địa ngục:
Đập vỡ mắt cá chân và xương bánh chè;
Dùng ván gỗ và đinh ốc, ép siết đến vỡ lồng ngực nạn nhân;
Dùng kìm để rút móng chân móng tay;
Dùng giẻ tẩm dầu đốt cháy hạ bộ;
Dùng dùi đục để đục gãy từng chiếc răng;
Móc mắt, dùng đèn cao áp để gần mắt cho đến khi mắt nổ đôm đốp;
Bỏ tù nhân vào chảo nước sôi;
Đóng đinh đủ mọi kích thước lên cơ thể tù nhân, cái nhỏ thì đóng xuyên
ngón tay, cái lớn đóng vào cùi chỏ, đầu gối, những cái lớn nhất đóng vào hộp sọ
để giết chết tù nhân.
Tẩm xăng rồi đốt miệng những tù nhân không khai báo
Nã đạn cối vào trại tù binh
Cắt da “chỗ kín” của tù nhân, nhét đỉa sống vào rồi khâu lại;
Nung thanh sắt đỏ rồi xuyên liên tục qua bắp chân;
Mổ bụng, moi gan;
Vì phải chịu cảnh đau khổ suốt một thời gian dài trong nhà tù, nên nhiều
chiến sĩ tù đày đã tổ chức nhiều cuộc vượt ngục, tìm đủ mọi cách để thoát khỏi
nơi địa ngục trần gian này. Theo tư liệu tại di tích, các thế hệ chiến sĩ bị tù đày
tại đây đã làm nên kỳ tích, tổ chức được 42 cuộc vượt ngục. Vượt ngục quả
cảm theo đủ mọi cách có thể: bí mật vượt rào; đánh lính áp giải khi ra ngoài làm
việc khổ sai để cướp đường chạy trốn; đào hầm ngầm lấy lối thoát ra… Gần
trăm người hy sinh hoặc bị bắt trở lại, hơn 200 người thoát được ra ngoài, tiếp
17
- tục hoạt động. Những cuộc vượt ngục thành công, thoát khỏi nhà tù này có thể
được xem là kì tích đáng nể. Nhiều cuộc vượt ngục thành công, nhưng cũng có
cuộc vượt ngục bị lộ anh em chiến sỹ cách mạnh phải đánh đổi cả tính mạng,
tất cả vì mong muốn được tiếp tục chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất
đất nước
1.2. Chứng tích chiến tranh tàn khốc
Đến nay, chiến tranh đã đi qua, nhưng những vết tích, tàn tật đau thương
vẫn để lại cho những chiến sĩ may mắn còn sống sót cho đến hiện nay khi bị
giam giữ tại chốn địa ngục trần gian này.
Điển hình là ông Tằng quê ở Quảng Ngãi, Sau khoảng 8 năm ở tù, ông
được trao trả theo Hiệp định Paris, khi ấy ông chỉ còn 23kg. Đặc biệt hơn trong
cạp quần ông có giắt 8 chiếc răng của chính mình. Hiện nay 8 chiếc răng đó
đang nằm trong Bảo tàng của những người tù Phú Quốc, tại huyện Phú Xuyên,
TP.Hà Nội”.
Cùng với đó là hình ảnh về người lính đặc công năm xưa Nguyễn Viết
Vĩnh ở Hải Phòng. Sau khi bị tra tấn tại nhà lao non nước thì ông tiếp tục bị
chuyển đến nhà tù Phú Quốc và bị tra tấn với nhiều hình thức dã man, hàm răng
dưới của ông Vĩnh đã bị rụng hết, mỗi khi trái gió trở trời thì đôi tai ông lại ù lên
nghe như có tiếng máy bay đang gầm rú. khắp mình lại đau nhức ê ẩm và tê
buốt mà đó là hậu quả từ những lần tra tấn của địch cách đây mấy chục năm.
Bác Lương Quang Hồng ở thành phố Hồ Chí Minh cựu tù Phú Quốc bị
giam cầm từ tháng 5/1968 đến tháng 3/1973, nhớ lại: “Gồng mình trước những
đòn tra tấn của địch gần như không còn con đường sống, nhiều anh em, đồng
chí may mắn thoát chết, trong đó có tôi. Kẻ địch càng tra tấn tàn bạo thì càng
làm bừng lên khí phách kiên trung, bất khuất của người cộng sản, tuyệt đối
trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân”. Bác Hàn Long Biên, bác
Lương Quang Hồng và nhiều cựu tù Phú Quốc khác đều chung nhận xét: “Phú
Quốc hôm nay phát triển ngoài sức tưởng tượng của những cựu tù chúng tôi.
Sân bay quốc tế, bến cảng, cáp ngầm xuyên biển đưa điện quốc gia ra đảo,
đường cao tốc Nam Bắc đảo, khu đô thị mới, khu du lịch… được đầu tư xây
18
- dựng hiện đại. Nhà cửa, phố xá, đô thị sung túc khang trang, sạch đẹp. Khách du
lịch đến đông vui. Các thế hệ lãnh đạo của huyện Phú Quốc, của tỉnh Kiên
Giang, đang nỗ lực xây dựng Phú Quốc đẹp giàu như hôm nay, không phụ lòng
những chiến sĩ cách mạng anh dũng hy sinh trên đất đảo này và nhiều người
khác đã góp một phần máu xương, công sức, mồ hôi, nước mắt trong đấu tranh
đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Nhiều cựu tù, đồng đội chúng tôi năm xưa rất muốn
trở về thăm lại Phú Quốc.”
Hình ảnh các chiến sĩ nhân dân ta thật là kiên cường, bất khuất, dũng cảm,
dù phải chịu nhiều sự tra tấn dã man thậm chí đánh đổi bằng cái chết, nhưng
vẫn kiên cường đấu tranh chống lại kẻ thù, , tìm mọi cách, mọi hình thức có thể
để sớm về với cách mạng, với Đảng, vững chắc niềm tin nhất định đánh thắng
kẻ thù xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc
CHƯƠNG 5: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ NHÀ TÙ PHÚ QUỐC
1.1.Giá trị lịch sử
Nhà tù ở Phú Quốc vẫn được biết đến là một di tích quốc gia đặc biệt. Nơi
đây lưu giữ lại tội ác của đế quốc Mỹ đối với dân tộc ta. Đế quốc Mỹ đã sử
dụng mọi cực hình dã man để làm mất đi ý chí chiến đấu và tinh thần yêu nước
của nhân dân. Cảnh được dựng lại như tái hiện rõ nét hình ảnh tra tấn tàn bạo
của Mỹ Ngụy. Đồng thời tố cáo tội ác của họ.
Trại giam Tù binh Cộng sản Việt Nam/Phú Quốc Di tích Quốc gia đặc
biệt hôm nay nhuộm thắm máu đào của hơn 4.000 chiến sĩ cách mạng ngã
xuống và hàng chục ngàn cán bộ, chiến sĩ cộng sản đã vượt qua cái chết, tiếp
tục chiến đấu đến ngày chiến thắng 30/4/1975. Di tích lịch sử này có giá trị lịch
sử to lớn, gắn liền với vận mệnh dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, nơi thắp sáng lên chủ nghĩa anh hùng cách
mạng với những người chiến sĩ cộng sản mưu trí, dũng cảm, kiên trung, bất
khuất, sẵn sàng hy sinh tất cả cho Đảng, cho Tổ quốc và nhân dân, nơi giáo dục
19
- truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho mọi người dân
ViệtNam.
40 năm qua, tỉnh Kiên Giang tập trung tìm kiếm, thu thập tài liệu, hiện vật
liên quan đến Di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc; gìn giữ, tu bổ các di chỉ còn lại,
phục dựng hiện trạng dấu tích đã mất; khai quật, tìm kiếm hài cốt các liệt sĩ.
Tỉnh tổ chức hội thảo khoa học về di tích lịch sử Trại giam Phú quốc với sự
tham gia của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, nhà khoa học và các cựu tù Phú
Quốc, khẳng định giá trị to lớn của Di tích Nhà tù Phú Quốc trong lịch sử đấu
tranh cách mạng giải phóng miền Nam. Hiện nay, trong khuôn viên Di tích Quốc
gia đặc biệt Nhà tù Phú Quốc, các hạng mục nhà trưng bày hiện vật, nghĩa trang
tù binh, đài tưởng niệm liệt sĩ đã được tu bổ, tôn tạo; khu trụ sở tiểu đoàn quân
cảnh, khu làm việc của bộ chỉ huy trại giam, khu Trại giam B2 được phục dựng
gần nhưnguyêngốc.
Năm 1995, Khu di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc được Bộ Văn hóa Thông tin
công nhận di tích cấp quốc gia.
Di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc gồm có tượng đài hình nắm tay, là "biểu
tượng của sự đàn áp khốc liệt và tinh thần hiên ngang vùng lên phá xiềng của tù
binh Phú Quốc", nghĩa trang liệt sĩ, và khu Trại giam Tù binh Phú Quốc được
phục dựng. Ngày 27/3/2015, tại lễ công bố Quyết định của Thủ tướng Chính
phủ xếp hạng 14 di tích quốc gia đặc biệt của cả nước, trong đó có Di tích lịch
sử Nhà tù Phú Quốc, Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang Lê Văn Thi khẳng định:
Tỉnh sẽ tiếp tục thực hiện công tác tu bổ, phục dựng, tôn tạo di tích Nhà tù Phú
Quốc, tiến hành xây dựng Khu tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ hy sinh tại đây
và 11 bia ghi dấu địa điểm 11 khu giam còn lại của di tích, nhằm thể hiện nhiều
hơn nữa giá trị lịch sử quý giá của di tích, giáo dục truyền thống yêu nước, tinh
thần đấu tranh cách mạng kiên trung, bất khuất cho các tầng lớp nhân dân, nhất
là thế hệ trẻ Việt Nam, đồng thời giới thiệu một cách sinh động về ý chí đấu
tranh giành, giữ độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam với bạn bè thế giới.
Di tích quốc gia đặc biệt Nhà tù Phú Quốc là điểm đến không thể thiếu của
20
nguon tai.lieu . vn