Xem mẫu

  1. TIỂU LUẬN: ĐỂ GIAI CẤP CÔNG NHÂN XỨNG ĐÁNG LÀ LỰC LƯỢNG ĐI ĐẦU TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ VÀ HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
  2. 1. Kể từ năm 1917, thế giới đã được chứng kiến sức mạnh và vai trò tổ chức, lãnh đạo xây dựng xã hội mới của giai cấp công nhân. Tuy nhiên, chưa có một giai đoạn nào trong thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI này mà vai trò của giai cấp công nhân, cả trên bình diện quốc tế lẫn ở nước ta, lại bị thử thách, bị nghi ngờ, thậm chí còn bị một số người phủ định như trong giai đoạn gần 20 năm vừa qua. Đồng thời, cũng chưa bao giờ người công nhân và giai cấp công nhân lại đứng trước những yêu cầu rất cao về năng lực nhiều mặt như hiện nay. Những thách thức, những yêu cầu như vậy chắc chắn sẽ còn cao hơn, mạnh mẽ hơn và gay gắt hơn rất nhiều trong giai đoạn sắp tới. Thấy hết những thách thức cần phải vượt qua cùng những yêu cầu mà người công nhân và giai cấp công nhân cần phải đáp ứng trong bối cảnh thế giới đang có những thay đổi nhanh chóng về mọi mặt đến khó lường như chúng ta đã và đang chứng kiến là công việc cấp bách và không hề dễ dàng. Điều này đòi hỏi phải có tư duy thật sáng suốt để không rơi vào bảo thủ hoặc ngộ nhận rồi phủ định sạch trơn vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong xã hội hiện đại, nhất là trong tương lai khi loài người sống trong môi trường của nền kinh tế tri thức. Việc chúng ta nhận thức được sự cần thiết và nhanh chóng tổ chức, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho công nhân nhằm đáp ứng một cách tốt nhất những yêu cầu đó cũng chính là chủ động góp phần xây dựng giai cấp công nhân đủ sức phục vụ sự nghiệp “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”(1) mà mục tiêu
  3. trực tiếp trước mắt là “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”(2). Có nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan, đã dẫn đến những nhận định, những đánh giá khác nhau về vị trí và vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong thời hiện đại. Chỉ xin nêu ra hai nguyên nhân: Một là, sự sụp đổ nhanh chóng và gần như đồng loạt dẫn đến việc Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân mất quyền lãnh đạo ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và nhất là ở Liên Xô - cội nguồn và thành trì của chủ nghĩa xã hội, trụ cột của hoà bình, nơi mà giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó đã lãnh đạo nhân dân giành và giữ được chính quyền suốt hơn nửa thế kỷ, đồng thời đã rất thành công trong việc biến một đất nước chỉ có trình độ phát triển trung bình thành một siêu cường cả về kinh tế, quân sự lẫn khoa học - kỹ thuật. Sự sụp đổ của một siêu cường do giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó lãnh đạo đã để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng về nhiều mặt, trong đó hậu quả về sự giảm sút, sự mất niềm tin vào vai trò của giai cấp công nhân trong xã hội hiện đại là một trong những hậu quả nặng nề nhất. Chắc chắn phải có thời gian và những tấm gương thành công mới thì giai cấp công nhân mới có thể lấy lại được uy tín và địa vị của mình như đã có trong thế kỷ XX. Hai là, nhân loại đang sống trong kỷ nguyên mà khoa học và công nghệ đã có những tiến bộ vượt bậc và tính chất lao động của con người đã có rất nhiều thay đổi so với các thế kỷ trước. Nhân loại đang chứng kiến việc máy móc từng bước thay thế không ít những chức năng trí tuệ vô cùng phức tạp mà trước đây vốn do con người đảm nhận. Lực lượng sản xuất, nhất là công cụ sản xuất, của xã hội đã có những thay đổi căn bản với sự xuất hiện của nhiều loại máy móc thay thế sức người, nhất là các máy móc thông minh (intelligent machine). Đồng thời, sự hình thành nền kinh tế tri thức trong điều kiện toàn cầu hoá mạnh mẽ ngày càng đòi hỏi ở người lao động trình độ chuyên môn, trình độ học vấn, năng lực trí tuệ và khả năng sáng tạo cao hơn rất nhiều so với bất cứ một giai đoạn nào trước đây trong lịch sử nhân loại. Chính những điều này đã dẫn đến sự bất đồng khá lớn trong việc xác định nội hàm khái niệm giai cấp công nhân; trong việc đánh giá về khả năng, vị trí và vai trò của nó trong xã hội; trong
  4. việc xác định những yêu cầu đối với người công nhân và giai cấp công nhân trong xã hội đương đại, nhất là trong tương lai. Trong điều kiện hiện nay, việc đưa ra một định nghĩa đầy đủ, những tiêu chí chính xác về giai cấp công nhân mong được tất cả mọi người chấp nhận, vì vậy, thực sự là vô cùng khó khăn. Bởi vì, bản thân giai cấp công nhân là một thực thể liên tục vận động và phát triển không ngừng. Lịch sử khoa học đã cho thấy rằng, không có một khái niệm nào mà nội hàm của nó lại đứng yên và mãi mãi không thay đổi, trong khi một số thuộc tính của bản thân đối tượng được phản ánh trong khái niệm đó đã có những biến đổi. Chắc hẳn, ngày nay, không thể nghĩ rằng, giai cấp công nhân chỉ gồm những người chuyên lao động bằng chân tay, lao động cơ bắp, mặc dù số chuyên lao động chân tay, lao động cơ bắp đó vẫn chiếm một lượng không nhỏ trong số những người lao động, nhất là ở những nước đang phát triển như nước ta. Hoặc cũng không thể nói rằng, ngày nay, mọi công nhân, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển, đều là những người không có tài sản, không có một tí sở hữu nào, v.v.. Cho nên, đứng về nguyên lý mà nói, một khi những bộ phận cấu thành chỉnh thể đã có sự thay đổi thì bản thân chỉnh thể cũng không đứng yên mà sẽ có những cái mới. Chính điều này là cơ sở để khẳng định rằng, đã đến lúc cần có nhận thức mới về giai cấp công nhân và về các tiêu chí của người công nhân trong thế giới đương đại, trong nền kinh tế tri thức đã hiển hiện và đang phát triển rất nhanh. Nói cách khác, cần vạch ra cái bất biến, cái cốt lõi và cả những cái mới trong số các tiêu chí để xếp một ai đó vào hàng ngũ những người công nhân và để từ đó, đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân và cũng để thấy những yêu cầu mới mà giai cấp công nhân cần phải đáp ứng. 2. Như mọi người đều đã và đang chứng kiến, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại bắt đầu từ giữa thế kỷ XX không chỉ đã làm thay đổi mạnh mẽ về chất các ngành công nghiệp, mà còn làm thay đổi mạnh mẽ mọi mặt của toàn bộ nền sản xuất, cả sản xuất vật chất lẫn sản xuất tinh thần, và đời sống xã hội của con người. Quá trình toàn cầu hoá đang làm cho những tri thức khoa học mới trở thành tài sản chung của toàn thể nhân loại; tất cả các quốc gia đều có thể tự vươn lên nếu biết nắm bắt
  5. những cơ hội do nó tạo ra, biết chắt lọc những gì là quý giá và thật sự cần thiết cho đất nước mình, không bắt chước hay sao chép một cách mù quáng(3). Chính nhờ cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại này mà xã hội hiện đại đã có được một hệ thống các lực lượng sản xuất mới, trong đó tri thức chuyển hoá “thành lực lượng sản xuất trực tiếp” như C.Mác đã tiên đoán từ thế kỷ XIX(4) và chính tri thức là “nguồn gốc sinh ra của cải ... và tạo ra giá trị”(5) như W.Wriston nhận xét ngay từ năm 1922. Ngày nay, không còn nghi ngờ gì nữa, tri thức là một bộ phận quan trọng cấu thành và thấm vào tất cả các yếu tố máy móc, vật liệu, công nghệ, tổ chức, quản lý, nhất là vào “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”(6). Sự phát triển và lớn mạnh nhanh chóng của lực lượng sản xuất mới đó đã từng bước dẫn nhân loại vào nền kinh tế mới - nền kinh tế tri thức - ở các mức độ khác nhau, trong đó động lực chủ yếu làm nên sự tăng trưởng kinh tế và cả sự phát triển xã hội chính là tri thức. Tuy bước chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức là bước chuyển từ một nền kinh tế chủ yếu sử dụng các nguồn tài nguyên do thiên nhiên ban tặng sang nền kinh tế chủ yếu sử dụng tri thức; song, không có tri thức nào khác ngoài tri thức của con người, do vậy, con người có tri thức vẫn là yếu tố quyết định trong nền kinh tế mới. Do vậy, nếu trong kinh tế nông nghiệp, chủ thể của sản xuất, của nền kinh tế và yếu tố quan trọng cấu thành xã hội chủ yếu là người nông dân; trong nền kinh tế công nghiệp, chủ thể đó chủ yếu là người công nhân thì trong nền kinh tế tri thức, vai trò này chủ yếu vẫn thuộc về công nhân, nhưng đó là công nhân tri thức. Công cuộc công nghiệp hoá theo hướng hiện đại của chúng ta không chỉ nhằm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, mà xa hơn nữa, để đứng vào hàng ngũ các nước phát triển, do vậy, phải có cách đi rút ngắn nhanh hơn đến kinh tế tri thức, trước hết là không tách rời công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Điều đó đòi hỏi ở lực lượng lao động nói chung, đội ngũ công nhân nói riêng của chúng ta một trình độ học vấn, một trình độ chuyên môn ngày càng cao hơn, hiện đại hơn. Chỉ có như vậy mới có
  6. thể đáp ứng được nhiệm vụ đưa đất nước theo con đường phát triển rút ngắn đó. Bằng con đường giáo dục trong các nhà trường, người lao động có thể thu nhận được học vấn cần thiết. Tuy nhiên, nhiều mặt khác, như bí quyết, kỹ năng, kỹ xảo, v.v. lại không dễ đạt được bằng con đường truyền thụ học vấn thông thường mà phải qua sự đào luyện nghề nghiệp. Do vậy, đội ngũ những người lao động, những công nhân vừa phải được trang bị học vấn trong nhà trường, đặc biệt là vềphương pháp nhận thức, vừa phải tự học để rút ra được, chọn lọc được, liên kết được, tích lũy được những bí quyết, những kỹ năng nghề nghiệp. Đó chính là nguồn nhân lực trình độ cao, chất lượng cao hay như người ta thường nói, là tư bản vốn người trình độ cao. Không thể có thứ vốn này nếu như nền giáo dục quá lạc hậu, trì trệ hay một nền giáo dục và môi trường xã hội chỉ dạy cho thế hệ những người lao động, những công nhân tương lai cách thức chấp nhận, cách thức tiếp thu số liệu hay tri thức đơn thuần, học gì biết nấy, mà không dạy cho họ cách thức hay phương pháp tư duy độc lập, sáng tạo, cách thức xử lý số liệu và tri thức - một trong những đòi hỏi quan trọng ở giai đoạn phát triển mới của văn minh nhân loại, không giúp cho họ học cách thích nghi nhanh với những thay đổi trong khoa học, công nghệ và trong sản xuất - một đòi hỏi khác của thời đại kinh tế tri thức. Chúng ta không nên nuôi ảo tưởng là sẽ nhanh chóng biến toàn bộ nguồn lao động, trước hết là công nhân của chúng ta, thành những người lao động hay công nhân tri thức nếu như biết rằng, trình độ học vấn của công nhân ta rất thấp, thậm chí có cả người mù chữ, còn số lao động tri thức năm 2000 của chúng ta mới chỉ ước đạt từ 5 đến 6% so với trên 60% của Mỹ và trên 40% của các nước Tây Âu phát triển. Vì vậy, nếu không có ý thức và không có những biện pháp thích hợp và khẩn trương để tăng nhanh tỷ lệ đó thì chắc chắn, chúng ta sẽ ngày càng tụt hậu xa hơn chứ đừng nói đến việc thu hẹp khoảng cách trong phát triển. Với đà thay đổi như hiện nay của các ngành kinh tế, những người lao động không có tri thức cần thiết chắc chắn không thể tìm được việc làm tại những thị trường lao động cần tri thức cao của nước ngoài và cũng rất khó tìm được việc làm tại các khu công nghiệp trình độ cao ở trong nước. Do
  7. vậy, trí thức hoá giai cấp công nhân là đòi hỏi khách quan trước xu thế phát triển của lịch sử, của sự phát triển kinh tế tri thức, của nhiệm vụ rút ngắn khoảng cách trong phát triển giữa nước ta với thế giới. Nếu xét trên một bình diện khác, bình diện là giai cấp lãnh đạo xã hội, chúng ta càng cần tỉnh táo hơn và cần có những biện pháp quyết liệt hơn. Không thể bình chân như vại khi thế giới đang vận động với tốc độ lớn về mọi phương diện. Liên Xô đã thua Mỹ trong cuộc chạy đua về kinh tế. Giai cấp công nhân Liên Xô mất quyền lãnh đạo xã hội một phần không nhỏ là do đã không cụ thể hoá, không chuyển được sức mạnh của tri thức mới rất cao của mình trong lĩnh vực quốc phòng sang phục vụ kinh tế, không chuyển được tri thức khoa học và công nghệ cao thành các công cụ có hàm lượng tri thức cao trong lực lượng sản xuất hiện đại, không kịp thời chuyển từ nền công nghiệp cổ điển sang đầu tư phát triển kinh tế tri thức. Một nền quốc phòng và công nghiệp quốc phòng hùng hậu bậc nhất thế giới tương phản với một nền kinh tế công nghiệp thiếu hụt về phương diện phục vụ con người là bức tranh dễ nhận ra ở Liên Xô trước khi nước này sụp đổ. Từ thực tế đó, bài học được rút ra là, sẽ không thể lãnh đạo được xã hội một khi sự lãnh đạo đó không mang lại cuộc sống ngày một tốt hơn cho con người, cũng như trình độ của giai cấp lãnh đạo không vượt hơn mặt bằng chung của xã hội, không theo kịp những thay đổi mạnh mẽ của thời đại. Vì tất cả những lý do đó mà nhiệm vụ tự vươn lên của giai cấp công nhân để nắm lấy những tri thức ngày càng cao nhằm đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và tiến tới nền kinh tế tri thức là nhiệm vụ hàng đầu trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai gần. Thực tế ở các nước tư bản phát triển cho thấy, các nhà tư bản không có chủ định giúp cho mọi công nhân làm chủ quy trình sản xuất hoặc có khả năng sáng tạo, mà chỉ đào tạo cốt làm sao cho công nhân thực hiện được các chức năng nhất định trong quy trình đó. Điều này cũng dễ nhận ra trong quy trình đào tạo công nhân ở các xí nghiệp liên doanh hoặc các xí nghiệp 100% vốn nước ngoài ở nước ta hiện nay. Bởi vậy, việc thực hiện nhiệm vụ mà Đại hội lần thứ X của Đảng nêu ra là “tranh thủ cơ hội thuận
  8. lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế cùa nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại”(7) là trách nhiệm của toàn dân tộc nhưng vai trò hàng đầu thuộc về giai cấp công nhân. 3. Bên cạnh đó, để giai cấp công nhân vừa đủ sức giữ vai trò lãnh đạo xã hội, vừa góp phần thực hiện nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì còn cần xây dựng nhiều mặt khác, như tự ý thức về vai trò của giai cấp mình, về tính tổ chức, tính tiên phong trong xã hội. Ở đây, chỉ xin bàn về một vấn đề. Sẽ không thể có một giai cấp mạnh đủ sức lãnh đạo xã hội nếu như các thành viên của nó không đủ mạnh, không tự ý thức được trách nhiệm và vai trò làm chủ. Đây đang là những vấn đề rất khó khăn. Hiện nay, trình độ công nhân nước ta khá thấp, cả trình độ nghề nghiệp chuyên môn lẫn trình độ học vấn. Khi học vấn thấp, thậm chí còn có không ít người mù chữ, thì việc tự ý thức về trách nhiệm làm chủ và khả năng làm chủ khó có thể cao được. Ngay ở trong các xí nghiệp nhà nước, ý thức làm chủ cũng như điều kiện làm chủ của công nhân vẫn rất hạn chế. Trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, vị thế của công nhân còn khó khăn hơn rất nhiều. Một trong những thứ đáng được làm chủ nhất thì trên thực tế, người công nhân cũng chưa được làm chủ - đó là sức lao động của chính họ. Quy luật khắc nghiệt của kinh tế thị trường đang có nguy cơ đẩy người lao động vào những khó khăn mà trước đây, họ chưa bao giờ gặp – sự đe doạ thường trực của tình trạng thất nghiệp. Do quá trình và nội dung đào tạo không cơ bản, chỉ mang tính chắp vá, phục vụ cho những công đoạn sản xuất nhất định nào đó, cũng như do khả năng lựa chọn, thích nghi và sáng tạo kém, nên người công nhân khi mất việc ở xí nghiệp này không thể hoặc không dễ gì tìm được việc làm ở các xí nghiệp khác. Bên cạnh đó, hàng năm,
  9. chúng ta lại có hàng chục vạn người gia nhập đội ngũ công nhân từ rất nhiều nguồn khác nhau mà phần nhiều là từ nông thôn và các thành phần khác, cho nên trình độ học vấn, tay nghề và ý thức tổ chức không những rất khác nhau, mà còn rất thấp. Vì vậy, hơn bao giờ hết, chính điều này đòi hỏi phải có các tổ chức công đoàn mạnh để giúp đỡ họ, giác ngộ họ và bảo vệ quyền lợi cho họ. Đáng tiếc, đây lại đang là một trong những khâu rất yếu của công tác tổ chức và tập hợp công nhân hiện nay. Theo một công trình nghiên cứu thì rất nhiều công nhân không biết ai là người đứng ra bảo vệ quyền lợi của mình(8). Một điều đáng báo động nữa là, tỷ lệ đảng viên là công nhân đã thấp lại đang ngày càng giảm. Số các xí nghiệp công nghiệp có đảng viên và tổ chức đảng cũng rất thấp và hoạt động khó khăn, nhất là khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Công tác tuyên truyền, vận động công nhân, do vậy, rất gian nan. Nếu tình hình này vẫn tiếp tục tồn tại thì nguy cơ về sự giác ngộ giai cấp, ý thức và lập trường giai cấp giảm sút là điều khó tránh khỏi; sự tự phát sẽ tăng lên. Hệ quả sẽ đến là, sức mạnh, vai trò xã hội, trong đó có vai trò và khả năng lãnh đạo, của giai cấp công nhân sẽ giảm sút. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra cho giai cấp công nhân lúc này là “phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và tay nghề” để “xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”(9). Để nâng cao chất lượng, khả năng và vị thế của giai cấp công nhân thì bên cạnh việc nâng cao khả năng, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn cho công nhân, đã đến lúc nên thừa nhận những trí thức làm việc trong các ngành sản xuất là thành viên của giai cấp mình. Bởi vì, xu hướng trí thức hoá công nhân và công nhân hoá trí thức là xu hướng tất yếu của nền kinh tế tri thức để hình thành đội ngũ công nhân tri thức như trên đã trình bày. Chắc chắn, vấn đề này sẽ có nhiều ý kiến khác nhau, song đã đến lúc cần có nhận thức mới về giai cấp công nhân trước những thay đổi lớn trong sự phát triển của xã hội.
  10. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng từng bước nền kinh tế tri thức là sự nghiệp của toàn thể dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự nghiệp đó thành công đến đâu, nhanh hay chậm, một phần không nhỏ phụ thuộc vào sự đóng góp của giai cấp công nhân, do vậy, mỗi người công nhân phải có trách nhiệm, có nghĩa vụ tự đào luyện mình theo những yêu cầu của sự nghiệp đó. Giai cấp chỉ mạnh khi các thành viên của giai cấp tự giác, tự ý thức được trách nhiệm và đủ năng lực để hoàn thành trách nhiệm đó. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nếu chúng ta thực hiện thành công việc sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển để đến năm 2020, về cơ bản, thành nước công nghiệp theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì vị trí và vai trò lãnh đạo xã hội của giai cấp công nhân vẫn là điều không ai có thể phủ nhận được. Trong trường hợp ngược lại, nếu không đáp ứng được những đòi hỏi trên thì các thế hệ tương lai chắc chắn khó chấp nhận sự lãnh đạo của một giai cấp không tiến kịp thời đại, nghĩa là không chấp nhận sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.r (*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. (1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 186. (2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 23. (3) Xem: Nguyễn Trọng Chuẩn. Toàn cầu hoá hiện nay và quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội. Tạp chí Triết học, số 1, 2006, tr. 22-27. (4) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t. 46, phần II. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 372. (5) W.Wriston. The Twilight of Sovereignty. RSA Journal, 5432, pp.568-577. (6) V.I.Lênin. Toàn tập. t.38. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1997, tr.430. (7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 87 - 88. (8) Xem: Phạm Qụang Trung, Cao Văn Biền, Trần Đức Cường. Về thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001.
  11. (9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr. 118. MỘT SỐ NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ CƠ BẢN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG “QUỐC TRIỀU HÌNH LUẬT” NGUYỄN THANH BÌNH (*) 1. Quốc triều hình luật (hay còn gọi là Lê triều hình luật) được xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh trong các triều đại phong kiến Việt Nam thời Lê sơ. Bộ luật này được vua Lê Thánh Tông ban hành vào năm 1483 trong thời gian ông lấy niên hiệu là Hồng Đức (1470-1497), nên trong dân gian và trong sử sách vẫn thường gọi bộ luật này là Luật Hồng Đức(1). Tất nhiên, cho đến nay, vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau về thời điểm khởi thảo và thời điểm hoàn chỉnh bộ luật này. Trong thiên Hình luật chí (sách Lịch triều hiến chương loại chí), Phan Huy Chú cũng như dựa trên nhiều nguồn tư liệu khác và theo quan điểm chung của nhiều nhà nghiên cứu thì bộ luật này được xây dựng trên cơ sở sưu tập tất cả các điều luật, các văn bản pháp luật đã ban bố và thi hành trong các đời vua trước đây, được sửa chữa, bổ sung và san định lại cho hoàn chỉnh(2). Song, trong Lời nói đầu của cuốn Quốc triều hình luật do Viện Sử học Việt Nam dịch và giới thiệu thì bộ luật trên có thể được soạn thảo ngay năm đầu của triều Lê sơ (Lê Thái Tổ) và “không ngừng được các triều vua kế tiếp bổ sung, hoàn chỉnh dần, trong đó chắc chắn là có những đóng góp to lớn của ông vua nổi tiếng văn hiến Lê Thánh Tông”(3). Có thể khẳng định rằng, Luật Hồng Đức là bộ luật tiến bộ nhất, hoàn chỉnh nhất trong các bộ luật ở Việt Nam thời phong kiến; là thành tựu có giá trị đặc biệt trong lịch sử pháp luật Việt Nam; là một trong những thành tựu tiêu biểu của nền văn hiến nước ta. Bộ luật ấy chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu sắc và nội dung tư tưởng rộng lớn, là cơ sở nền tảng trong việc xây dựng nhà nước phong
  12. kiến thịnh trị thời Lê sơ. 2. Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, pháp luật là ý chí, là quyền lực của các thế lực, giai cấp thống trị được cụ thể hoá, thể chế hoá bằng luật. Vì vậy, pháp luật là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để ràng buộc, bắt buộc mọi người, mọi giai cấp khác phải tuân thủ, phục tùng tuyệt đối, vô điều kiện ý chí, quyền lực của thế lực, giai cấp thống trị. Đồng thời, pháp luật cũng còn là một trong những công cụ chủ yếu nhất, quan trọng nhất của giai cấp thống trị nhằm duy trì, bảo vệ địa vị thống trị và những quyền lợi ích kỷ của chúng. Bộ Luật Hồng Đức cũng vậy. Cụ thể là, bộ luật này đã dành hẳn chương Vệ cấm (với 47 điều) và nhiều điều luật khác ở các chương khác nhằm bảo vệ tuyệt đối tính mạng, thân thể, quyền sở hữu tối cao của nhà vua. Theo đó, tất cả những hành vi tuỳ tiện xâm phạm thái miếu, hoàng thành, cung điện,… cùng các tội xâm phạm đến an ninh quốc gia, các hành vi bán ruộng đất bừa bãi, mắm muối, vật cấm và binh khí cho người nước ngoài đều được coi là vi phạm pháp luật, vi phạm nghiêm trọng đạo trung, là nằm trong các tội thập ác và bị trừng trị với những khung hình phạt rất nặng (đồ, lưu, tử hình)(4). Ngoài ra, ở nhiều chương, nhiều điều khác trong bộ luật này quy định tất cả những hành vi, hành động vi phạm và làm nguy hại đến lễ chế “tôn quân”, “trung vua” “tam cương, ngũ thường”, trật tự đẳng cấp – tức là những chuẩn mực đạo đức Nho giáo và trật tự xã hội phong kiến theo quan điểm Nho giáo đều được coi là vi phạm nghiêm trọng địa vị, quyền lực tối thượng của nhà vua; đến lợi ích và sự tồn tại của giai cấp phong kiến, của nhà nước và chế độ phong kiến, v.v.. Và như vậy, đều được xem là vi phạm nghiêm trọng pháp luật, bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc. Đúng là bộ Luật Hồng Đức được xây dựng, bổ sung và hoàn chỉnh trên cơ sở tiếp thu nhiều bộ luật của Việt Nam trước đó, như bộ Hình thư (năm 1042) dưới triều Lý, bộ Quốc triều hình luật (năm 1230) dưới triều Trần cùng nhiều văn bản pháp luật khác được công bố và thi hành trong các triều đại này. Nhưng pháp luật phong kiến Trung Quốc, tư tưởng Nho giáo và tư tưởng Pháp trị của phái Pháp gia cũng là cơ sở và nền tảng tư tưởng để xây dựng và chỉ đạo việc thực thi bộ luật này. Do vậy, cùng
  13. với mục đích chủ yếu của bộ luật này như đã nói ở trên, bộLuật Hồng Đức không thể không chứa đựng tính chất khắc nghiệt, tàn khốc và nhiều yếu tố hạn chế, tiêu cực như nhiều bộ luật khác dưới chế độ phong kiến. Nhưng bên cạnh đó, những yếu tố và tính chất nhân văn, nhân bản của Phật giáo, Nho giáo và đặc biệt là những giá trị tốt đẹp mang đậm tính nhân văn, nhân ái, đoàn kết trong truyền thống dân tộc và phong tục, tập quán của người Việt Nam; yêu cầu và nhiệm vụ thực tiễn đặt ra cho giai cấp phong kiến (cũng còn là của cả dân tộc) trong công cuộc bảo vệ xây dựng, phát triển đất nước về mọi mặt, trong việc xây dựng chế độ phong kiến toàn thịnh và một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền hùng mạnh cũng là những cơ sở, căn cứ và là những mục đích chủ yếu để xây dựng, hoàn chỉnh bộ luật này. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, ngoài những hạn chế, tính chất cứng nhắc và tiêu cực, bộ Luật Hồng Đức còn chứa đựng nhiều yếu tố, giá trị tích cực, tiến bộ. Trong đó, cần phải nhấn mạnh và khẳng định đến một giá trị nổi bật là, những quyền tối thiểu nhưng cơ bản của con người, đặc biệt là của người dân được thừa nhận, được tôn trọng và được bảo vệ bằng pháp luật. Những quyền ấy cùng những giá trị của nó không chỉ được thể hiện ở những tư tưởng, đường lối, chủ trương mà còn ở cả việc chỉ đạo, hướng dẫn việc thực thi bộ luật này. Tất cả đều nhằm làm cho những quyền cơ bản của con người được thực hiện có hiệu quả trong thực tế đúng theo tinh thần của Nho giáo mà các triều đại phong kiến Việt Nam lấy làm hệ tư tưởng: Dân là gốc nước, là nền tảng của chính trị và đúng như lời tuyên bố của vua Lê Thánh Tông: “Đạo lớn của đế vương” là “thương yêu dân chúng kính trời xanh”, v.v.. Nhìn tổng thể, các điều luật ở các chương trong bộ Luật Hồng Đức khẳng định, tất cả những hành vi, hành động nào vi phạm đến quyền con người đều được coi là vi phạm pháp luật và đều bị nghiêm trị cho dù người vi phạm là ai đi chăng nữa (tất nhiên trừ nhà vua). Vậy, những quyền cơ bản nào của con người, những nội dung và giá trị nào liên quan đến quyền cơ bản của con người được đề cập trong bộ Luật Hồng Đức ?
  14. Trước hết, bộ Luật Hồng Đức đã đưa ra nhiều điều luật, quy phạm cụ thể nhằm tạo ra môi trường, thể chế,… để những quyền cơ bản của con người được tôn trọng và được bảo vệ. Về vấn đề này, cũng cần lưu ý đến một thực tế là, cho đến nay, trong giới nghiên cứu, không ít người đã khẳng định các triều đại phong kiến Việt Nam dựa vào Nho giáo, pháp luật Trung Quốc để hình thành các bộ luật cho triều đại mình là chỉ nhằm mục đích củng cố, duy trì địa vị tối cao, quyền lực thống trị tuyệt đối của nhà vua, bảo vệ sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ phong kiến và địa vị thống trị của giai cấp phong kiến, v.v.. Đúng là bộ Luật Hồng Đức, như đã nói ở trên, có khá nhiều điều luật thể hiện và minh chứng cho những nhận định này. Nhưng đó chỉ là một mặt, dù là mặt chủ yếu. Còn một mặt khác nữa là, tuy những điều luật đó nhằm củng cố, duy trì trật tự, kỷ cương, sự ổn định của chế độ phong kiến và phù hợp với yêu cầu và lợi ích của giai cấp phong kiến,… song ở một mức độ nhất định nào đó, điều đó lại tạo ra một môi trường, điều kiện, một xã hội để cho quyền con người được thừa nhận và được tôn trọng. Có nghĩa là, ở bất cứ chế độ xã hội nào cũng vậy, những quyền cơ bản của con người chỉ có thể được tôn trọng, bảo vệ, được thực tiễn hoá trong một xã hội, một chế độ xã hội có trật tự, có kỷ cương và thật sự ổn định. Bộ Luật Hồng Đức đưa ra nhiều điều luật nhằm ràng buộc, bắt buộc mọi người kể cả nhà vua, tầng lớp quan lại tuân thủ theo đúng tinh thần “vua ra vua, bề tôi ra bề tôi”, “cha ra cha, con ra con”, trên dưới có trật tự,… để “tu thân” mà “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Cho dù có ngoài ý muốn của các ông vua và giai cấp phong kiến thời Lê sơ như thế nào đi chăng nữa, thì điều này cũng đã tạo ra những tiền đề, những điều kiện hợp pháp để thực thi có hiệu quả quyền con người về phương diện pháp luật. Ngoài ra, nhiều điều luật nhằm điều chỉnh hành vi con người trong các mối quan hệ cơ bản của con người theo tinh thần của đạo “tu thân”, “tề gia”, “tam tòng tứ đức”, “trên dưới có trật tự”, v.v., dù không tránh khỏi tính chất cứng nhắc và khắc nghiệt, nhưng rõ ràng, điều đó đã tạo ra điều kiện, tính chất hợp lý để quyền con người được tôn trọng; các quyền được chăm sóc và được nuôi dưỡng, được bảo vệ của người già
  15. cả, ốm yếu, người khó khăn, ông bà, cha mẹ, người trên được thực hiện. Theo đó, các tội bất hiếu, bất kính, bất nghĩa trong bộ luật này được xếp vào tội Thập ác và bị nghiêm trị với những hình phạt rất nặng (đồ, lưu, tử hình). Như điều 475, 503, 504,(5) … của bộ Luật này đã ghi rõ, nếu con cháu lăng mạ, tố cáo ông bà cha mẹ, vợ tố cáo chồng (chỉ cho phép tố cáo khi ông bà, cha mẹ, chồng phạm tội mưu phản, đại nghịch) thì bị đày đi nơi xa. Điều 506 quy định, con cháu trái lời dạy bảo, không phụng dưỡng bề trên; con nuôi, con kế thất hiếu với cha nuôi, cha kế bị xử tội đồ. Hoặc nhiều điều khác cấm con dâu không được chửi mắng, đánh đập, âm mưu giết ông bà, cha mẹ chồng và các hành động đánh đập anh chị, cậu dì, ông bà cha mẹ vợ, cùng chú bác, thím cô, anh em trai, v.v.. Nếu phạm những tội này sẽ bị xử tội đồ, lưu;… (điều 476, 477, 478…). Bên cạnh đó, bộ Luật cũng đưa ra nhiều quy định cấm quan lại, những kẻ có chức quyền không được tự tiện quấy nhiễu nhân dân (các điều 304, 632,…); quan lại phải đảm bảo an ninh, an toàn cho dân (các điều 458, 645, 646, 647, 648, 648…), phải chăm sóc những người già cả, trẻ mồ côi, người tàn tật, thấp hèn… (các điều 294, 295,…), không được lợi dụng chức quyền để tham ô, chiếm đoạt tiền bạc, tài sản của dân, v.v.. Rõ ràng, bộ Luật Hồng Đức với những điều luật của mình không chỉ nhằm bảo vệ địa vị thống trị và quyền lợi của nhà vua và giai cấp phong kiến, không chỉ duy trì và bảo vệ trật tự, kỷ cương của chế độ phong kiến, mà còn kiến tạo và duy trì một xã hội mà trong đó, những quyền cơ bản của con người, của mọi người được tôn trọng và được bảo vệ bằng pháp luật. Hai là, trong bộ Luật Hồng Đức, có nhiều điều luật với nhiều quy định cụ thể đã chứng tỏ nhân phẩm con người và nhiều quyền tự do khác của con người được thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ. Thể hiện điều này và tính ưu việt của nó, như đã nói ở trên, tất cả những hành động xâm phạm đến nhân phẩm con người, như con cháu chửi mắng, đánh đập ông bà cha mẹ; anh em, vợ chồng đánh đập, chửi mắng, lăng mạ, làm nhục nhau (các điều từ 473 đến 476,…); các hành vi tố cáo, vu khống không đúng sự thật và trái quy định (từ
  16. điều 501 đến điều 505); việc quan lại quấy nhiễu ức hiếp dân (điều 164); tự tiện bắt bớ, giam cầm người vô tội (điều 636); phạm nhân không đáng gông cùm mà gông cùm (điều 658); vô cớ đánh đập tù nhân (điều 707); đánh chết hay bức tử người tù (điều 682); tra tấn tù nhân tuổi cao và vị thành niên (điều 665); không chăm sóc tù nhân (điều 663); xử tội không đúng tội danh và theo luật quy định (điều 679),… đều bị pháp luật nghiêm trị. Đặc biệt, bộ luật này còn đưa ra những quy định cấm “Các tước vương công và nhà quyền quý tự tiện thích chữ vào dân đinh” (điều 168), cùng tất cả những ai tự tiện thích chữ vào mặt vợ, con trai, con gái người khác và nô tỳ, người ở đợ (các điều 165, 168, 365); trị tội những tên quan lại và những người lợi dụng quyền thế mà ức hiếp lương dân, bắt ép để lấy con gái người dân (điều 336, 338); tự tiện bắt dân đinh làm đày tớ (điều 302); cấm người ngoài nài ép người vợ muốn thủ tiết với chồng đi lấy người khác (điều 320) và tất cả những hành động gian dâm (từ điều 401 đến điều 410 chương Thông gian), v.v.. Đáng lưu ý là, các điều 401, 403, 404, 406 quy định, những hành động vi phạm nghiêm trọng nhân phẩm con người, như hiếp dâm (kể cả gian dâm với trẻ em từ 12 tuổi trở xuống đều xếp vào tội hiếp dâm), loạn luân (gian dâm trong nội bộ gia đình, gia tộc) đều bị trừng trị với hình phạt rất nặng:lưu, chém. Ngoài những quy phạm bảo vệ nhân phẩm con người, nhiều quyền tự do của con người cũng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, như mọi người đều có các quyền: bình đẳng trong việc thực thi pháp luật, tự do hôn nhân, lựa chọn và bảo vệ hạnh phúc của mình, quyền được bảo vệ tính mạng, tài sản, v.v.. Điều 687 quy định, mọi người đều được kêu oan khi cảm thấy bị bắt bớ, giam cầm vô cớ và khi bị xử phạt oan sai. Hoặc ở các điều 206, 326, 335, 336, 338,… ghi rõ: mọi người có quyền tố cáo quan lại thu thuế trái quy định, chiếm đoạt ruộng đất, của cải, tiền bạc,… của mình, kể cả việc thu tiền của quân dân để làm lễ vật cung phụng nhà vua (điều 300). Về quyền tự do hôn nhân, lựa chọn và bảo vệ hạnh phúc của con người, ngoài những điều luật cấm quan lại, người có quyền thế bắt ép để lấy con gái của lương dân, ngăn cấm người ngoài nài ép những người vợ thủ tiết, bộ Luật Hồng Đứccòn đưa ra nhiều
  17. điều luật để thực hiện và bảo vệ quyền tự do này. Như điều 324 cấm anh, em, học trò lấy vợ của em, của anh, của thầy đã chết; điều 294 quy định việc trừng trị những kẻ loạn luân, cùng tất cả những hành động gả, bán vợ cho người khác khi không được sự đồng ý của người phụ nữ. Hoặc như các điều 320, 333 ghi rõ: người nào mà đã gả con gái rồi mà về sau vì thấy người chồng nghèo khổ, lại bắt con gái về thì bị xử phạt 60 trượng, biếm(6) hai tư, người con gái đó phải bắt trở về nhà chồng. Điều 315 quy định việc trừng trị tất cả những ai đã gả con gái rồi (tức đã nhận đồ sính lễ) mà lại thôi không gả nữa thì bị phạt 80 trượng và đem gả cho người khác mà đã thành hôn rồi thì bị xử tội đồ, người sau biết thế mà cứ lấy thì cũng bị xử tội đồ, người con gái đó phải gả cho người hỏi trước, nếu người đó không lấy nữa thì nhà người con gái phải bồi thường đồ sính lễ gấp đôi cho người đó. Còn điều 321 quy định, vợ cả vợ lẽ nếu tự tiện bỏ nhà chồng cũng như đi lấy chồng khác đều bị xử tội đồ và họ cùng gia sản phải trả về cho nhà chồng cũ. Tất cả những người đàn ông nào biết mà vẫn lấy họ làm vợ đều bị xử tội đồ. Ngoài ra, các điều 308, 309, v.v. còn yêu cầu người chồng phải luôn thương yêu người vợ, phải chăm lo hạnh phúc cho gia đình. Như điều 308 chỉ rõ: người chồng mà bỏ lửng vợ 5 tháng thì người vợ được trình báo với quan sở tại và xã quan để từ đó người vợ được tự do, còn người chồng bị mất vợ; nếu người chồng đã bỏ vợ mà lại ngăn cản người khác lấy vợ cũ thì bị tội biếm. Điều 309 quy định: Người nào mà quá say đắm với nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì bị xử tộibiếm. Bên cạnh đó, như trên đã nói, tất cả những hành vi gian dâm đều bị nghiêm trị với khung hình phạt rất nặng. Mặc dù tuân thủ khá nghiêm ngặt những quan điểm của Nho giáo là địa vị, vai trò của người phụ nữ, người vợ bị coi thường và bị hạ thấp so với người đàn ông, người chồng, v.v., nhưng trong bộ Luật Hồng Đức, có nhiều điều thể hiện sự nới lỏng những ràng buộc đối với người phụ nữ, người vợ; người phụ nữ, người vợ đã ít nhiều có vai trò, quyền hạn nhất định trong việc lựa chọn, định đoạt và bảo vệ hôn nhân, hạnh phúc của mình. Điều 322 quy định rõ ràng: người con gái nào đã hứa gả chồng mà chưa thành hôn, nếu người con trai bị ác tật hay phạm tội hoặc phá tán gia sản thì cho
  18. phép người con gái được kêu quan mà trả đồ lễ. Ngoài ra, có nhiều điều trong bộ luật bảo đảm trong một chừng mực nhất định quyền tự do và bình đẳng của người phụ nữ với người đàn ông, như cho phép người vợ được ly dị chồng trong một số trường hợp theo luật định; được đồng sở hữu tài sản với người chồng (nếu là tài sản chung của vợ và chồng), được quyền sở hữu tài sản riêng và một phần tài sản riêng của chồng nếu việc ly hôn không do lỗi của người vợ hoặc khi người chồng chết (điều 375); hoặc cũng như con trai, người con gái được phần thừa kế tài sản của bố mẹ để lại khi bố mẹ chết; trường hợp gia đình không có con trai thì được quyền kế thừa hương hoả (điều 391). Rõ ràng là, nhân phẩm con người và các quyền tự do của con người được thừa nhận, bảo vệ thể hiện trong bộ Luật Hồng Đức còn là sự kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp và những thuần phong, mỹ tục của dân tộc và con người Việt Nam. Đây chính là một trong nhiều điểm tiến bộ của bộ Luật Hồng Đức; do vậy, nó khác về cơ bản so với nhiều bộ luật Trung Quốc phong kiến. Ba là, mọi người đều có quyền được sống, được chăm sóc, được bảo vệ. Đây có thể được coi là điểm nổi bật nhất, tiến bộ nhất của bộ Luật Hồng Đức về vấn đề quyền con người. Trước hết, cần phải khẳng định rằng, không chỉ ở Việt Nam, mà ở nhiều nước phương Đông khác, trong đời sống chính trị, không phải bao giờ và lúc nào, địa vị thống trị của các thế lực, giai cấp thống trị cũng bị quy định trực tiếp bởi địa vị kinh tế mà còn phụ thuộc vào sự quan tâm của các thế lực, giai cấp này đến đời sống và vai trò của người dân. Đặc biệt ở Việt Nam, nhân dân có vai trò hết sức to lớn và có ý nghĩa quyết định trong công cuộc dựng nước và giữ nước, trong việc bảo vệ và phát triển chế độ phong kiến. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên, trong các bộ luật cũng như trong nhiều chiếu, dụ, điều của các nhà vua, các triều đại phong kiến Việt Nam (được ghi chép các bộ Quốc sử,như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục) cho thấy, các triều đại phong kiến Việt Nam rất quan tâm đến đời sống mọi mặt của người dân theo đúng tinh thần “thân dân”, “ái dân”,
  19. “kính trọng dân” của Nho giáo. Ngoài ra, dù nhìn nhận quyền con người ở phương diện nào và như thế nào thì cũng phải thừa nhận rằng, cái cốt lõi và thực chất của quyền con người là quyền được sống, được chăm sóc, được bảo vệ và tất cả các quyền khác của con người chỉ được thực hiện và chỉ có ý nghĩa khi quyền sống, quyền được chăm sóc, được bảo vệ được tôn trọng, bảo đảm trong thực tế và được thể chế hoá bằng pháp luật, đạo luật. Liên quan đến quyền sống – một trong những quyền cơ bản của con người, bộLuật Hồng Đức đã đưa ra khá nhiều điều luật thể hiện chủ trương của nhà vua, nhà nước phong kiến cùng những quy định để hướng dẫn, chỉ đạo việc thực hiện quyền này ở hai mặt: mọi người phải có đời sống vật chất khá đầy đủ và được sống trong môi trường văn hoá lành mạnh. Nhiều điều luật đã quy định, nhà vua, tầng lớp quan lại phải có trách nhiệm chăm lo và đảm bảo đời sống vật chất của người dân. Theo đó, tất cả những hành động tự tiện chiếm ruộng đất, của cải, tiền bạc của dân, tự tiện thu thuế và thu thuế trái quy định của dân để làm của riêng, kể cả để làm lễ vật cung phụng nhà vua, đều vi phạm pháp luật và phải bị nghiêm trị; toàn bộ tài sản của dân bị chiếm đoạt hoặc thu sai quy định phải trả lại gấp đôi cho dân (các điều 181, 185, 186, 206, 300, 325, 326, 336, 338,…). Điều 325 còn hướng dẫn việc thu thuế phải công bằng; phải phân biệt người giàu, người nghèo, người khoẻ, người yếu mà thu thuế nhiều hay ít, trước hay sau. Ngoài ra, bộ luật còn đưa ra các điều luật để ngăn cấm và trừng phạt các tội tự tiện giết, bán súc vật, trâu ngựa; phá hoại hoa màu, đê điều, cầu cống,… ảnh hưởng đến công việc và đời sống của dân (các điều 573, 575, 578, 579, 580, 581, 596,…); yêu cầu quan lại địa phương phải chăm lo sửa sang đường xá, cầu cống để phục vụ tốt công việc nhà nông và cuộc sống của người dân (các điều 633, 635). Ngoài những quy định nhằm bảo đảm đời sống vật chất cho mọi người, bộ Luật Hồng Đức còn có những quy định việc thực hiện quyền của con người được sống trong môi trường văn hoá lành mạnh. Theo đó, mọi hành vi vi phạm trật tự, kỷ cương, sự hoà mục trong gia đình, ngoài xã hội đều bị ngăn cấm và bị trừng trị. Không những thế, bộ luật đã đưa ra nhiều điều ngăn cấm và trừng trị tội nhận hối lộ, tội gian dâm, ăn
  20. mặc lố lăng càn dỡ (điều 640), tội dung nạp, chứa chấp bọn vô lại, bói toán, thầy phủ thuỷ, đồng cốt, bọn giang hồ (điều 337); quan lại không ngăn cấm cũng như không trừng trị các hoạt động mê tín, dị đoan (các điều 332, 413, 538); tội không lùng bắt bọn trộm cướp trong địa hạt mà quan lại quản lý (điều 284) và nhiều điều luật khác khuyến khích tính trung thực, lòng vị tha của con người. Ngoài quyền sống, thì quyền được chăm sóc, được bảo vệ tính mạng và tài sản của con người cũng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Nhìn chung, bộ Luật Hồng Đức đều yêu cầu, đòi hỏi nhà vua, tầng lớp quan lại phải hết sức chăm lo cuộc sống, tính mạng của người dân, nhất là những người có hoàn cảnh đặc biệt. Như điều 294 và 295 ghi rõ: Nhà nước và mọi người phải có trách nhiệm chăm sóc, nuôi nấng những người ốm đau không ai nuôi nấng, những người vô gia cư, thấp hèn, những người tàn tật, goá vợ, goá chồng, những kẻ mồ côi, nghèo khổ không nơi nương tựa. Và quy định, đối với những người này, quan sở tại phải thu nuôi mà không được bỏ rơi họ; nếu không như vậy sẽ bị nghiêm trị. Ngoài các điều quy định về việc ngăn cấm, trừng trị các tội ngược đãi, vô cớ đánh đập, hành hạ tù nhân, giết chết hay bức tử tù nhân, xét xử oan sai, phạm tội không đáng giam cầm mà giam cầm,… như đã nói ở trên, bộ luật này còn có những quy định, tù nhân phạm tội nếu bị thương hay ốm đau phải được chữa trị, chăm sóc (điều 663), không được tra tấn tù nhân tuổi cao hay vị thành niên (điều 665). Điều 16 còn quy định, những người từ 70 tuổi trở lên, 15 tuổi trở xuống và những người bị phế tật nếu phạm tội (trừ tội Thập ác) đều cho chuộc tội bằng tiền; người từ 90 tuổi trở lên, 7 tuổi trở xuống mắc tội chết đều được tha bổng. Điều 17 chỉ rõ: người nào khi phạm tội chưa già cả, tàn tật đến khi già cả, tàn tật mới phát hiện thì xử tội theo luật già cả, tàn tật và khi nhỏ mà phạm tội đến khi lớn mới phát giác thì xử tội theo luật khi còn nhỏ. Còn những người phạm tội (trừ tội Thập ác và giết người) chưa bị phát giác mà tự thú trước đều được tha tội (điều 18). Đặc biệt bộ luật này đã đưa ra khá nhiều điều luật cho thấy, những hành vi chủ mưu, cố ý cướp của giết người, đánh đập, đe doạ đến sức khoẻ, tính mạng con người với tất cả những thủ đoạn và biểu hiện của các loại tội phạm này đều bị nghiêm trị đích đáng.
nguon tai.lieu . vn