Xem mẫu

  1. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ MỤC LỤC ....................................................................................................................10 LỜI MỞ ĐẦU Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới có thể phát triển mà lại đứng biệt lập, tách rời quan hệ kinh tế với các nước khác. Xu thế quốc tế hoá nền kinh tế thế giới là một trong những xu hướng vận động chủ y ếu trong đ ời sống kinh tế quốc tế hiện nay. Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là yêu cầu rất cấp bách để xây dựng nền kinh tế phát triển nhanh ở nước ta. Muốn phát triển nền kinh tế lạc hậu, thiếu vốn, thiếu những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài thì đ ầu tư nước ngoài đã trở nên một vấn đề quan trọng và cần thiết để phát triển nền kinh tế. Thông qua đầu tư nước ngoài thì nước tiếp nhận đầu tư có thể tranh thủ huy động được nguồn vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại của nước ngoài, tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. Không những thế đầu tư nước ngoài còn là cơ hội để tìm kiếm thị trường bên ngoài, tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới. Nắm bắt được tình hình thực tế đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) đã đề ra những chính sách hết sức đúng đắn, đánh dấu bước chuyển biến quan trọng, xoá bỏ hoàn toàn cơ chế quan liêu bao cấp cũ. Một trong những bước chuyển biến lớn trong định hướng đổi mới kinh tế, thể chế hoá đường lối của Đại hội VI là việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Sau khi Luật đầu tư nước ngoài ra đời và thay đổi, bổ sung liên tục quá trình thu hút đầu tư nước ngoài Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được đó, quá trình thu hút đầu tư, sự vận hành của các dự án đã làm nảy sinh vấn đề mất cân đối cần được khắc phục nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng nguồn vốn này. Chính vì vậy mà nhóm chúng em chọn đề tài: “ Thực trạng mất cân đối trong các hình thức đầu tư FDI tại Việt Nam và những giải pháp khắc phục ”. Do thời gian có hạn nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu sự mất cân đối trong đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, đánh giá hậu quả mất cân đối và đề ra giải pháp.Các số liệu thống kê lấy từ năm 1988 đến năm 2013. Nhóm hy vọng bài tiểu luận này sẽ hữu ích cho mọi người. -1-
  2. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ NỘI DUNG CHƯƠNG I: KHÁI NIỆM VỀ NGUỒN VỐN FDI VÀ CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ FDI 1. Khái niệm về nguồn vốn FDI Với ý nghĩa cốt lõi nhất, FDI hay đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Theo IMF: FDI là hình thức đầu tư quốc tế phản ánh mục tiêu của một thực thể cư trú tại một nền kinh tế nhằm có được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp c ư trú tại một nên kinh tế khác. Lợi ích lâu có nghĩa là tồn tại một mối quan hệ dài h ạn gi ữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp và một mức độ ảnh hưởng đáng kể của nhà đ ầu tư đối với việc quản lý doanh nghiệp. [nguồn: IMF 1993] Theo OECD: FDI phản ánh mục tiêu của một thực thể cư trú tại một nền kinh tế (“nhà đầu tư trực tiếp”) muốn có được lợi ích lâu dài trong một thực thể cư trú tại một nền kinh tế khác nền kinh tế của nhà đầu tư (“doanh nghiệp đầu tư trực tiếp”). Lợi ích lâu dài ngụ ý một mối quan hệ dài hạn giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp và một mức độ ảnh hưởng đáng kể trong việc quản lý doanh nghiệp đó. [nguồn: OECD 1996] Có thể thấy FDI được đặc trưng bởi mục đích tìm kiếm lợi ích lâu dài và một mức độ ảnh hưởng đáng kể của các nhà đầu tư đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, tùy từng thái độ và mục tiêu phát triển, mỗi quốc gia lại có những tiêu chuẩn riêng về mức sở hữu tối thiểu và các yếu tố của mối quan hệ đầu tư trực tiếp (như đại diện trong ban giám đốc, tham gia vào quá trình ra quyết định, các giao dịch vật chất bên ngoài công ty, việc trao đổi nhân sự quản lý, cung cấp các thông tin kĩ thuật, cung cấp tín dụng dài hạn với mức lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường). Tựu chung lại, có thể thấy s ự khác biệt cơ bản của FDI so với các hình thức đầu tư quốc tế khác như sau: Thứ nhất, mọi hình thức đầu tư quốc tế đều được tiến hành ở bên ngoài nước của công ty đầu tư, nhưng FDI, khác với các hình thức khác, được tiến hành bên trong công ty đầu tư: quyền kiểm soát đối với việc sử dụng những nguồn l ực đ ược di -2-
  3. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ chuyển vẫn nằm trong tay nhà đầu tư, cho phép nhà đầu tư đưa ra quyết định sản xuất và đầu tư. Thứ hai, trong khi mọi hình thức đầu tư liên quan đến việc di chuyển của nguồn lực tài chính ra khỏi biên giới, FDI còn liên quan đến việc di chuyển những tài sản và nguồn lực khác, ví dụ như công nghệ, kĩ năng quản lý và những kĩ năng khác, khả năng tiếp cận thị trường, năng lực kinh doanh….Vì vậy, có thể nói, FDI không chỉ bao gồm dòng chảy của các nguồn lực tài chính vào nước chủ nhà mà đây là một gói các nguồn lực và tài sản cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển của nước chủ nhà. FDI cũng liên quan đến quyền kiểm soát của nhà đầu tư nước ngoài đối với hoạt động sản xuất tại nước chủ nhà. 2. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay 2.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh Đây là một văn bản được ký kết giữa một chủ đầu tư nước ngoài và một ch ủ đầu tư trong nước (nước nhận đầu tư) để tiến hành một hay nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà trên cơ sở quy định về trách nhiệm và phân phối kết quả kinh doanh mà không thành lập một công ty, xí nghiệp hay không ra đời một tư cách pháp nhân mới nào. Ưu điểm: • Với nước tiếp nhận: giải quyết được tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghê, tạo thêm đuợc mối quan hệ trong hợp tác kinh doanh, được nắm quyền điều hàng dự án. • Với nước đầu tư: chia sẻ đuợc sự rủi ro trong đầu tư, tận dụng đựoc hệ thống phân phối có sẵn , điều hành, phân bổ của nước tiếp nhận trong quá trình đầu tư. Xâm nhập vào thị truờng nước sở tại đễ dàng hơn mà không mất thời gian thăm dò, nghiên cứu. Nhược điểm • Với nước tiếp nhận: khó thu hút vốn đầu tư,chỉ thực hiện được ở một số lĩnh vực sinh lời. • Với nước đầu tư: không được trực tiếp điều hành dự án. -3-
  4. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ 2.2. Công ty liên doanh – Xí nghiệp liên doanh Xí nghiệp hay công ty liên doanh được thành lập giữa một bên là một thành viên của nước nhận đầu tư và một bên là các chủ đầu tư ở nước khác tham gia. Một xí nghiệp liên doanh có thể gồm hai hoặc nhiều bên tham gia liên doanh. Ưu điểm • Với nước tiếp nhận đầu tư: trước hết giải quyết đưoc tình trạng thiếu vốn, đổi mới công nghệ,nâng cao được trình độ của của người lao động , học hỏi được cách thức quản lý làm việc chuyên nghiệp. • Với nước đầu tư: chia sẻ được rủi ro,tận dụng được hệ thông phân phối có sẵn,thâm nhập được vào thị trường truyền thông và không mất thời gian chi phí cho viêc nghiên cứu thị trường tại nước sở tại. Nhựơc điểm • Cả hai bên đều gặp phải những rắc rối khó khăn trong quản lý như mất nhiều thời gian để thương thảo,bàn luận,khác biệt về văn hoá nhìn nhận trong đầu tư nên dễ xuất hiện mâu thuẫn trong quản lý. • Với nước tiếp nhận đầu tư:thay đổi nhân sự ở công ty mẹ sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của liên doanh, đối tác nước ngoài thường quan tâm đến lợi ích toàn cầu vì vậy liên doanh nhiều khi phai chịu thua thiệt vì lợi ích ở nơi khác. • Với nhà đầu tư:không chủ động được trong việc điều hành,dễ bị mất cơ hội kinh doanh. 2.3. Công ty hay xí nghiệp có 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Đây là hình thức các công ty hay xí nghiệp hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của tổ chức cá nhân nước ngoài và do bên nước ngoài tự thành lập, tự quản lý và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Ưu điểm • Với nước tiếp nhận đầu tư:thu được lợi nhuận từ doanh nghiệp(tiền thuê đất,thuế) tiếp cận đựơc thị trường nước ngoài. • Với nhà đầu tư nước ngoài:tận dụng được tài nguyên của nước sở tại, chủ động trong việc quản lý, điều hành. -4-
  5. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ Nhược điểm • Với nước tiếp nhận đầu tư:khó tiếp thu đựơc kinh nghiệm quản lý,công nghệ để nâng cao được trình độ của cán bộ quản lý,cán bộ kỹ thuật của doanh nghiệp trong nước.Bị chia sẻ thị truờng của nước mình,bị tận dụng nguồn tài nguyên. • Với nhà đầu tư nước ngoài:phải chịu hoàn toàn mọi rủi ro trong quá trình đầu tư,mất nhiều thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị truơng,khó xâm nhập vào nhiều lĩnh vực thị trưòng trong nước lớn. 2.4. Các hình thức khác: Đầu tư vào các khu chế xuất, khu phát triển kinh tế, thực hiện những hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (B.O.T). Những dự án B.O.T thường được chính phủ các nước đang phát triển tạo mọi điều kiện thuận lợi để thực hiện việc nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế. Ưu điểm • Với nước tiếp nhận đầu tư:thu được vốn đầu tư vào nhưng dự án hạ tầng đòi vốn đầu tư lớn,giảm sức ép cho ngân sách nhà nước,nâng cao được các công trình hạ tầng trong nước. • Với nhà đầu tu nước ngoài:hiệu quả sử dụng vốn được đảm bảo,chủ động quản lý, điều hành và tự chủ kinh doanh lợi nhuận. Nhược điểm • Với nước tiếp nhận đầu tư: khó tiếp cận khả năng quản lý và ra soát công trình.Nhà nước cung chịu rủi ro ngoài kiểm soat của nhà đầu tư. • Với nhà đầu tư nước ngoài: mất nhiều thời gian trong việc đàm phán ,thực hiện hợp đồng. 3. Tác động của FDI Mặc dù FDI vẫn chịu sự chi phối của Nhà nước nhưng FDI ít lệ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt khác bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý sản xuất, kinh doanh nên mức độ khả thi của dự án là khá cao, đặc biệt là trong việc tiếp -5-
  6. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu. Do quyền lợi gắn chặt với dự án, họ quan tâm đến hiệu quả kinh doanh nên có thể lựa chọn công nghệ thích hợp, nâng cao trình độ quản lý và tay nghề của công nhân. Vì vậy FDI ngày càng có vai trò to l ớn đ ối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư. Đối với nước chủ đầu tư : Đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở các nước tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư và xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng. Mặt khác đầu tư ra nước ngoài giúp bành trướng sức mạnh kinh tế và nâng cao uy tín chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. Đối với nước nhận đầu tư: FDI có tác dụng lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát… Qua FDI các tổ chức kinh tế nước ngoài mua lại những doanh nghiệp có nguy cơ phá sản, giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người lao động. FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình hình bội chi ngân sách, cải thiện cán cân thanh toán, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước khác. FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục được tình trạng thiếu vốn kéo dài. Nhờ vậy mà mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển to lớn với nguồn tài chính khan hiếm được giải quyết, đặc biệt là trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Theo sau FDI là máy móc thiết bị và công nghệ mới giúp các nước đang phát triển tiếp cận với khoa học - kỹ thuật mới. Quá trình đưa công nghệ vào sản xuất giúp tiết kiệm được chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước đang phát triển trên thị trường quốc tế. -6-
  7. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội hiện đại được du nhập vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nước bắt kịp phương thức quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với phong cách làm việc công nghiệp cũng như hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi. FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hoá nước ngoài và đi kèm với nó sẽ là những hoạt động Marketing được mở rộng không ngừng. Bên cạnh những tác động tích cực, FDI còn có những tác động tiêu cực đối với cả nước chủ đầu tư và nước nhận đầu tư: Với nước chủ đầu tư: vốn đầu tư chảy ra nước ngoài có khả năng làm giảm tăng trưởng GDP và việc làm của quốc gia; khi các công ty lớn đầu tư ra nước ngoài sản xuất những mặt hàng cùng loại sẽ tạo nên khả năng cạnh tranh mới giữa các doanh nghiệp ngoài nước với chính doanh nghiệp trong nước, thậm chí cạnh tranh với chính doanh nghiệp đầu tư. Với nước nhận đầu tư: nhà đầu tư nước ngoài có thể kiểm soát thị trường địa phương, làm mất tính độc lập, tự chủ về kinh tế, phụ thuộc ngày càng nhiều vào nước ngoài; FDI chính là công cụ phá vỡ hàng rào thuế quan bảo hộ, làm mất tác dụng của công cụ thuế quan; tạo cạnh tranh giữa các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước, có thể dẫn đến suy giảm sản xuất của các doanh nghiệp trong nước; FDI, nhất là của các TNCs, có thể gây nên những vấn đề phức tạp mới về chuyển giao các công nghệ quá hiện đại mà không phù hợp; lợi nhuận thu được có xu hướng chuyển ra nước ngoài, làm giảm tiềm lực phát triển kinh tế lâu dài; các nước phát triển có xu hướng chuyển giao các công nghệ lạc hậu sang các nước nhận đầu tư; góp phần làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội mới như phân hóa đội ngũ cán bộ, “chảy máu chất xam”, tham nhũng, hối lộ… -7-
  8. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MẤT CÂN ĐỐI TRONG CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ FDI VÀO VIỆT NAM 1. Tình hình thu hút vốn đầu tư đăng ký vào Việt Nam từ 1988 – 2013 Những năm cuối thập niên 80 – đầu thập niên 90 trong bối cảnh quốc tế: chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tan vỡ; các thế lực thù địch tìm cách chống phá Việt Nam trên nhiều mặt. Thế giới có những diễn biến phức tạp của tình hình chính trị và an ninh quốc tế, sự phục hồi chậm của nền kinh tế thế giới và biến động giá cả trên thị trường quốc tế... Các nước đang phát triển ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á thực hiện cải cách kinh tế, trở thành khu vực phát triển năng động của thế giới. Tình hình trong nước: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nền kinh tế ở tình trạng kém phát triển, sản xuất nhỏ, mang nặng tính chất tự cấp tự túc, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mức lạm phát lên tới trên 700% vào năm 1986, sản xuất đình trệ, cơ sở kỹ thuật lạc hậu và lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng. Với bối cảnh trong nước và quốc tế như vậy, để khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, thực hiện công cuộc “đổi mới” toàn diện, trong đó có việc hoàn thiện, nâng Điều lệ Đầu tư năm 1977 thành bộ Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, đã khẳng định sự đúng đắn của chủ trương. Trong 3 năm 1988 – 1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn đầu tư vào Việt Nam còn ít (214 dự án với tổng số vốn dăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động nhiều đén tình hình kinh tế -xã hội đất nước. Trong thời kỳ 1991 – 1996, vốn ĐTNN đã tăng lên mạnh mẽ với 1.781 dự án được cấp phép có tổng số vốn đăng ký 28,3 tỷ USD. Đây có thể xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN vào Việt Nam, đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư – kinh doanh tấp so với một số nước trong khu vực, sẵn lực lượng lao động với giá cả nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy ĐTNN tằng trưởng nhanh chóng có tác động lan tỏa đến thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước. Năm 1955 thu hút đc 6,6 tỷ USD tăng 5,5 lần so với năm 1991 (1,2 tỷ USD ). Năm 1996 thu hút được 8,8 tỷ USD vốn đắng ký tăng 45% so với năm trước. -8-
  9. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng số vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD; nhưng số vốn đã giảm mạnh ít hơn năm trước khá nhiều, đó là do tác động của cuộc khủng khoảng kinh tế ở Châu Á năm 1997. Trong khoảng thời gian này nhiều dự án ĐTNN đực cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số là từ các nhà đầu tư Hàn Quốc và Hồng Công). Từ năm 2000 - 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 tỷ USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18% so với năm 2000; năm 2002 vốn dăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001; năm 2003 đạt 3,1 tỷ USD ,tăng 45,1% so với năm trước. Từ năm 2004 – 2007, ĐTNN vào Việt Nam tăng mạnh năm 2005 đã tăng 50,8% so với năm 2003, và đặc biệt là đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đạt được con số cao kỷ lục trong năm 2007 với 20,3 tỷ USD vốn ĐTNN , đó là con số cao nhất trong 20 năm (1988-2007) và tăng gần gấp đôi so với năm 1996. Theo báo cáo nhanh của Cục Đầu tư nước ngoài vào ngày 25-12-2008, tổng số vốn đầu tư ngước ngoài đăng ký của cả nước đạt 64,01 tỷ USD, tăng hơn 200% so với năm 2007,đây là con số cao nhất từ trước đến nay. Năm 2009, tình hình vốn đầu tư nước ngoài FDI vào Việt Nam chỉ đạt 21,48 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 10 tỉ USD. Đây là mức suy giảm khá mạnh và chỉ bằng 30% so với năm 2008, nhưng đây cũng là con số khá cao trong bối cảnh cuộc khủng hoảng khinh tế toàn cầu vào cuối năm 2008. Năm 2010, năm cuối thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006- 2010, FDI ở Việt Nam đạt được những kết quả đáng khích lệ. Năm 2010,tuy chỉ đạt được 18,5 tỷ USD vốn FDI, nhưng ước tính các dự án FDI đã giải ngân được 11 tỉ USD, tăng 10% so với năm 2009, trong đó, giải ngân của các nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) ước đạt 8 tỷ USD. Vốn FDI chiếm 25,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2010, cao hơn năm 2009 (chiếm 25,5%). Tưởng như nề kinh tế đã bắt đầu khôi phục thì theo kết quả báo cáo của Bộ Công Thương, ước tính cho cả năm 2011, tổng vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 14 tỷ USD và vốn giải ngân đạt gần 11 tỷ USD, tổng vốn đăng ký 2011 giảm 24% so với năm 2010. Năm 2012 tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã bắt đầu phục hồi với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt 16,3 tỷ USD, tăng 16,43% so với -9-
  10. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ năm 2011. Con số này đã cao hơn nhiều so với ước tính sơ bộ mà Cục Đầu tư nước ngoài đã công bố hồi cuối năm 2012: cả vốn cấp mới và tăng thêm là 13,013 tỷ USD, bằng 84,7% so với cùng kỳ 2011. Như vậy, năm 2012, Việt Nam đã đạt mục tiêu về thu hút FDI (15-16 tỷ USD) và đã tăng so với năm trước, đây là một kết quả rất tích cựccho nền kinh tế Việt Nam. Năm 2013, theo các báo cáo nhận được, tính đến ngày 15/12/2013 cả nước có 1275 dự án mới được cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 14,272 tỷ USD, tăng 70,5% so với cùng kỳ năm 2012 và 472 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 7,355 tỷ USD, tăng 30,8% so với cùng kỳ năm 2012. Dây là con số với số liệu đáng mừng cho nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phục hồi sau cuộc khủng khoảng nền kinh tế toàn cầu. 2. Mất cân đối trong các hình thức đầu tư FDI tại Việt Nam 2.1. Thực trạng: Trong giai đoạn đầu thu hút FDI vào Việt Nam (1988 – 1994), , FDI tập trung chủ yếu vào hình thức liên doanh,chiếm khoảng 80% tổng vốn đăng ký, 20% còn lại chia đều cho các hình thức khác. Một trong những nguyên nhân là do trong thời kỳ đầu thu hút FDI, các nhà đầu tư nước ngoài còn chưa am hiểu về môi trường đầu tư của Việt Nam, về những thủ tục pháp lý cần thiết… vì thế họ lựa chọn hình thức liên doanh đ ể - 10 -
  11. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ tìm hiểu thêm về môi trường đầu tư của Việt Nam thông qua các đối tác liên doanh của mình.Tuy nhiên, từ năm 1995 đến nay, FDI theo hình thức 100% vốn nước ngoài gia tăng thông qua đầu tư mới hoặc chuyển từ liên doanh sang, do vậy hình thức liên doanh giảm đi rõ rệt. Tính đến hết năm 2007, chủ yếu các doanh nghiệp ĐTNN thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài, có 6.685 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký 51,2 tỷ USD, chiếm 77,2% về số dự án và 61,6% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức liên doanh có 1.619 dự án với tổng vốn đăng ký 23,8 tỷ USD, chiếm 18,8% về số dự án và 28,7% tổng vốn đăng ký. Theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh có 221 d ự án với t ổng vốn đăng ký 4,5 tỷ USD chiếm 2,5% về số dự án và 5,5% tổng vốn đăng ký. Số còn lại thuộc các hình thức khác như BOT, BT, BTO. Có thể so sánh tỷ trọng dự án hoạt động theo hình thức 100% vốn nước ngoài tính đến hết năm 2004 là 39,9%, theo hình th ức liên doanh là 40,6% và theo hình thức hợp doanh là 19,5% để thấy được hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư lựa chọn hơn. Trong số 1275 dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được cấp mới từ đầu năm đến năm 2013, thì có tới 778 dự án đầu tư theo hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài với số vốn đạt 5,27 tỷ USD, còn lại là theo các hình thức khác như: BOT, BT, BTO; liên doanh; cổ phần; hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ta có thể minh họa cụ thể bằng biểu đồ dưới đây: Nguồn: Cục đầu tư - Bộ kế hoạch và đầu tư Ta có thể thấy trong khi tỷ trọng của các hình thức FDI 100% vốn nước ngoài, hay liên doanh chiếm đa số thì hợp đồng BOT, BT, hay BTO chiếm tỷ trọng rất khiêm - 11 -
  12. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ tốn.Trên thực tế trong thời gian qua, phương thức huy động vốn ngoài nhà nước hoặc vốn viện trợ phát triển ODA để xây dựng các công trình kinh tế xã hội theo phương thức BOT chưa thực sự diễn ra đúng thực chất nên đạt hiệu quả thấp. Mặc dù những dự án nếu được thực hiện đúng theo phương thức BOT là rất đáng hoan nghênh do tính năng ưu việt nhất của phương thức này là huy động tối đa các nguồn vốn ngoài nhà nước vào việc thực hiện xây dựng các công trình kinh tế- xã hội. Hay nói cách khác d ự án BOT là sự hợp tác giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân, trong đó nguồn vốn và hiệu quả hoạt động của khu vực tư nhân được đem ra phục vụ lợi ích công cộng. Theo thống kê chưa đầy đủ, cho đến thời điểm này cả nước có hơn 70 dự án chủ yếu xây dựng các công trình hạ tầng được thực hiện bằng phương thức BOT.Hiện nay có rất nhiều những dự án lớn của ngành Giao thông Vận tải như: dự án xây dựng cầu Yên Lệnh, hầm đường bộ qua đèo Ngang... được ký kết thực hiện theo phương thức BOT (xây dựng- kinh doanh- chuyển giao). 2.2. Nguyên nhân: Khách quan: Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế tất yếu, mua bán trao đ ổi hàng hóa không chỉ gói gọn trong phạm vi ranh giới quốc gia nữa mà một quốc gia muốn tồn tại phải hội nhập, hòa vào dòng chảy chung của thế giới, vì thế vốn đ ầu tư đ ược lưu thông, luân chuyển một cách thuận lợi giữa các quốc gia với nhau, do đó việc các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia cũng dễ dàng và thuận lợi hơn trong việc thành lập các công ty con ở nước ngoài để tiếp cận thị trường mới, mở rộng thị trường do đó xu hướng công ty 100% vốn nước ngoài và liên doanh trở thành những hình thức phổ biến và chiếm tỷ trọng cao đặc biệt trong nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài c ủa nước ta. Chính phủ VN coi trọng việc thu hút FDI nên liên tục cải thiện môi tr ường đ ầu tư.Chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư của chính phủ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài, các tập đoàn đa quốc gia. Cũng chính chính sách thuế, và cơ chế hạch toán kế toán còn nhiều non yếu của nước ta mà các tập đoàn đa quốc gia có thể thông qua hoạt động chuyển giá đ ể tối đa hóa lợi nhuận. Ngoài ra,tỷ trọng FDI theo hình thức 100% vốn nước ngoài ngày càng chiếm ưu thế do đầu tư mới hoặc chuyển đổi từ hình thức liên doanh sang. Sở dĩ có hiện tượng - 12 -
  13. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ trên là vì từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực thì xu hướng chuy ển đổi FDI sang 100% vốn nước ngoài đã gia tăng. Thêm vào đó với hình thức BTO, BT hay BOT với tỷ trọng khiêm tốn có thể lý giải do đối tác ký kết các hợp đồng BOT đa phần là các doanh nghiệp nhà nước,mặc dù mục tiêu xây dựng công trình có vẻ khả quan nhưng kết quả huy động nguồn vốn ngoài nhà nước là hết sức mờ nhạt.Theo thống kê cho thấy vốn Nhà nước trong các dự án BOT thường chiếm tới 20-40% tổng vốn đầu tư. Như vậy, cần phải làm rõ hơn đâu là vốn hỗ trợ của Nhà nước, đâu là vốn góp của Nhà nước. Nguyên nhân chính do những quy định hiện hành chưa thực sự cho phép cũng như cuốn hút các thành phần kinh tế tư nhân vào cuộc. Với những dự án lớn của ngành Giao thông Vận tải như: dự án xây dựng cầu Yên Lệnh, hầm đường bộ qua đèo Ngang... mặc dù được ký kết thực hiện theo phương thức BOT (xây dựng- kinh doanh- chuyển giao) nhưng trên thực tế lại không đáp ứng được yêu cầu của hình thức đó, do những dự án này vẫn sử dụng các nguồn vốn nhà nước để thực hiện. Đây là một trong những tình trạng phổ biến được xem là áp dụng phương thức BOT để xây dựng các công trình công cộng hiện nay. Nguyên nhân chính là do các dự án BOT trong ngành Giao thông Vận tải hầu hết đều do các đơn vị thi công tham gia đầu tư, với lợi thế là họ có năng l ực và hi ểu bi ết trong gia đoạn thi công, song sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc quản lý và vận hành dự án sau này. Một nguyên nhân khác đó là những ưu điểm, và tính chất riêng biệt của mỗi hình thức mang lại những lợi ích khách nhau cho nhà đầu tư:Hình thức 100% vốn nước ngoài: nhà đầu tư có quyền kiểm soát mọi hoạt động cũng như chịu trách nhiệm toàn bộ cho rủi ro • Hình thức liên doanh: nhà đầu tư sẻ chia sẻ những rủi ro và chi phí với đối tác liên doanh • Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh: nhà đầu tư nước ngoài không được trực tiếp điều hành quản lý dự án và mối quan hệ hợp tác đối với nước s ở tại thi ếu tính chắc chắn. Điều này làm họ trở nên e dè hơn khi đầu tư theo hình thức này. • Hình thức hợp đồng BOT, BT, BTO: nhà đầu tư được chủ động quản lý điều hành và tự chủ kinh doanh, hiệu quả đồng vốn đầu tư của họ được đảm bảo và lợi - 13 -
  14. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ nhuận không bị chia sẻ. Ngoài ra, các dự án đầu tư được nhà nước sở tại đảm bảo và tránh được rủi ro bất thường ngoài khả năng kiểm soát. Tuy nhiên, chi phí đ ầu tư cho những dự án BTO cao và việc đàm phán cũng như thực thi hợp đồng BTO thường gặp nhiều khó khăn, tốn nhiều thời gian và công sức, nhất là đàm phán và ký kết hợp đồng với các nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào và khách hàng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ. Mặc dù chính phủ rất muốn thu hút đầu tư nước ngoài theo hình thức BTO vì những ưu điểm của nó nhưng vì những lý do sau khiến các nhà đ ầu tư e dè khi đ ầu t ư theo hình thức này: Khó thu hồi vốn, thời gian thu hồi vốn lâu thường trên 20 năm • Tính hiệu quả trong kinh doanh không cao thậm chí có khả năng thua lỗ • Khó khăn về vốn và chính sách hỗ trợ của nhà nước chưa đủ để thu hút các nhà đầu tư BTO trong lĩnh vực xây dựng đường giao thông. • Việc thiếu các văn bản áp dụng cho các hình thức này cũng là trở ngại lớn cho quá trình hình thành các dự án thuộc hình thức đầu tư này.Ngoài ra, việc nhà đầu tư ít có điều kiện tiếp cận thông tin về cơ hội đầu tư trong lĩnh vực này (tiếp cận thông tin về danh mục các dự án kết cấu hạ tầng thu hút đầu tư) cũng là một tr ở ngại cho việc phát triển của hình thức BTO tại Việt Nam. Chủ quan: Xét trên góc độ từ việc phân tích mục tiêu của nhà đầu tư: Theo quan điểm của các nhà đầu tư nước ngoài, hình thức doanh nghiệp liên doanh sẽ giúp họ giảm chi phí đầu tư, tận dụng cơ sở sẵn có của nước ta như đất đai, thiết bị và mạng lưới phân phối, lợi nhuận thu được ổn định và quan trọng hơn là việc dễ hòa nhập với thị trường nên sẽ dễ dàng tiếp cận với các nhà hoạch đ ịnh chính sách hơn. Tuy nhiên, sau một thời gian, khi đã hiểu hơn về thị trường cùng với những s ửa đổi trong chính sách nới lỏng của nước ta, họ chuyển từ liên doanh sang 100% vốn nước ngoài. Sở dĩ mà doanh nghiệp có vốn 100% nước ngoài chiếm tỷ trọng cao như vậy là do nhà đầu tư đã hiểu thêm về chính sách, luật pháp và phong tục tập quán, cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam, hơn nữa, thực tế khả năng của các bên đối tác Việt Nam trong liên doanh thường yếu cả về vốn lẫn trình độ quản lý, dẫn đến hoạt động - 14 -
  15. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ kinh doanh kém hiệu quả. Từ đó các đối tác nước ngoài có xu hướng rút dần ra khỏi liên doanh, thành lập các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, đứng lên làm chủ toàn bộ doanh nghiệp mình bỏ vốn đầu tư. Phát triển hạ tầng mặc dù được Chính phủ ưu tiên thu hút FDI, nhưng nhà đầu tư chưa mặn mà. Đầu tư hạ tầng yêu cầu vốn lớn, thời gian thu hồi dài và lợi nhuận ít. Cho nên nhà đầu tư nước ngoài nếu không thấy có ưu đãi thì họ không đầu tư. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, hình thức 100% vốn nước ngoài này khiến họ có thể chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp, không phải xung đột, mâu thuẫn về quản lý điều hành như trong hình thức liên doanh; họ sẽ có thể chủ động trong việc tuyển chọn nguồn nhân lực , triển khai nhanh các dự án đầu tư để thực hiện chiến lược toàn cầu của tập đoàn nhưng dĩ nhiên họ cũng phải gánh chịu toàn bộ rủi ro cũng như phải chi phí nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận một thị trường mới. Thêm vào đó,vì mục đích tối đa hóa lợi nhuận các doanh nghiệp sẽ tận dụng các hình thức 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh hay công ty mẹ con đ ể th ực hi ện hoạt động chuyển giá do lợi dụng những “kẽ hở” trong chính sách thuế, cơ chế hạch toán và kế toán với hình thức này lợi dụng ưu đãi về chính sách thuế. Rõ ràng với các hình thức đầu tư như 100% vốn góp nước ngoài hay hình thức liên doanh, các công ty đa quốc gia đã đầu tư vào nhiều nước trên thế giới không ch ỉ nhằm mục đích khai thác lợi thế về tài nguyên, thiên nhiên, lao động, hay chiếm lĩnh thị trường mở rộng thị phần mà mục tiêu tiềm ẩn trong những hình thức đầu tư đó chính là để họ có thể thực hiện việc “chuyển giá” nhằm tối đa hóa lợi nhuận của công ty. Cái lợi thông qua những hình thức đầu tư này của các tập đoàn đa quốc gia chính là lợi dụng hành vi “chuyển giá” các công ty con ở nước ngoài sẽ chuyển l ợi nhuận, doanh thu về nước dưới các hình thức như: công ty mẹ bán nguyên vật liệu, thiết bị, máy móc cho công ty con với giá cao hơn giá thị trường để làm tăng chi phí, tăng kh ấu hao máy móc, thiết bị tại công ty con. Ngược lại, công ty con bán thành phẩm cho công ty mẹ với giá thấp hơn giá thị trường để làm giảm thu nhập chịu thuế. Điều này sẽ giúp nước xuất khẩu vốn thu được ngoại tệ nhiều hơn nhờ đó góp phần cải thiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế của nước xuất khẩu vốn. Nhiều doanh nghiệp nước ngoài lợi dụng hình thức chuyển giá để nâng chi phí đầu vào, hạ thấp giá đầu ra để giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. - 15 -
  16. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ =>Một thực trạng nghịch lý diễn ra trong các doanh nghiệp có vốn đ ầu tư nước ngoài đó là các doanh nghiệp thường xuyên báo lỗ trong khi vẫn mở r ộng quy mô sản xuất kinh doanh. Khi các khoản thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu ở nước xuất khẩu vốn (nơi có công ty mẹ của các tập đoàn mNC’s) cao hơn ở nước nhập khẩu vốn, các tập đòan sẽ tận dụng lợi thế này đề tối đa hóa lợi nhuận. Ngoài ra, hình thức 100% vốn nước ngoài lại chiếm tỷ trọng cao còn vì mục đích đảm bảo độc quyền công nghệ. Việc sao chép công nghệ là hiện tượng khá phổ biến ở các nước đang phát triển. Nếu công nghệ không được kiểm soát thì dễ bị các đối tác hoặc công ty địa phương sao chép. Do đó, các nhà đầu tư nước ngoài thường dùng hình thức 100% vốn nước ngoài trong trường hợp cần kiểm soát bản quyền công nghệ. 2.3. Hậu quả: Như đã nêu trong nguyên nhân, các doanh nghiệp nước ngoài vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận đã thực hiện hoạt động chuyển giá để rồi liên tục báo lỗ dù quy mô kinh doanh vẫn mở rộng. Đơn cử như việc TP.HCM có khoảng 3.500 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động, báo cáo quyết toán thuế từ năm 2009 trở về trước, năm nào cũng có khoảng 61% trong số này kê khai kinh doanh thua lỗ và tình trạng này không có d ấu hiệu thuyên giảm. Nhưng điều đáng nói là, mặc dù kê khai hoạt động kinh doanh thua lỗ, song các doanh nghiệp không ngừng mở rộng hoạt động sản xuất - kinh doanh, tăng quy mô hoạt động. Nguyên nhân là do các công ty mẹ ở nước ngoài đã thực hiện chuyển giá, tìm mọi cách để công ty con không có lãi và toàn bộ số lãi của công ty con đ ược chuyển về công ty mẹ, làm thất thu cho ngân sách nhà nước 60% trong 3.500 doanh nghiệp FDI hoạt động trên địa bàn Thành phố báo lỗ trong năm 2009, năm 2008 là 50% và năm 2007 là 70%. Mới đây, Cục Thuế TP.HCM đã tiến hành thanh tra thuế tại Khách sạn Equatorial (liên doanh giữa Công ty Dịch vụ tổng hợp Hoàng Việt và Công ty Planego – Hồng Kông) và Khách sạn Metropolitan (liên doanh giữa Công ty Xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng và Công ty Saigon Metropolitan Ltd. Thuộc Tập đoàn British Virgin Island – Vương quốc Anh). Tại các cuộc thanh tra này, đã xác đ ịnh đ ược các khoản trốn thuế và lỗ lên tới hàng chục triệu USD. - 16 -
  17. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ Ngoài ra,theo thống kê của tỉnh Lâm Đồng, tình trạng báo lỗ của các doanh nghiệp FDI trên địa bàn tỉnh này rất tồi tệ, khi có đến 104/111 doanh nghiệp có báo cáo lỗ trong năm 2009. Nhiều tập đoàn đa quốc gia thường áp dụng “chiêu thức” này tại các nước có mức thuế thu nhập doanh nghiệp cao như Việt Nam (28%), Trung Quốc (30%) nhằm nâng khống giá nguyên vật liệu, tăng khống chi phí quảng cáo tiếp thị... để giảm lợi nhuận đến mức thấp nhất, thậm chí hạch toán ra những con số lỗ “ảo” để trốn thuế. Khi tình trạng thua lỗ “ảo” của liên doanh kéo dài, những doanh nghiệp Việt Nam trong liên doanh sẽ không thể trụ nổi, đành ôm nợ, xin rút! Lúc đó, công ty liên doanh sẽ bị thôn tính thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.Điều này dẫn đến hiện tr ạng là tại Việt Nam, “con” cứ báo lỗ trong khi đó tại bản xứ, “mẹ” cứ ung dung hưởng lợi. Tình trạng trên đang là thách thức đối với các cơ quan chức năng Việt Nam. Tại Mỹ và Nhật Bản, trong quá khứ hai quốc gia này đã từng xử phạt rất nặng một số tập đoàn đa quốc gia của nước khác gian lận qua chuyển giá. Cách thức thông thường được nhiều DN thực hiện là công ty mẹ bán nguyên vật liệu, thiết bị, máy móc cho công ty con với giá cao hơn giá thị trường để làm tăng chi phí, tăng khấu hao máy móc, thiết bị tại công ty con. Ngược lại, công ty con bán thành phẩm cho công ty mẹ với giá thấp hơn giá thị trường để làm giảm thu nhập chịu thuế. Kết quả của việc chuyển giá là ngân sách nhà nước bị thất thu do không thể thu đ ược thuế TNDN, trong khi DN lại phát triển. Mặt tích cực cũng là tiêu cực vì khi các công ty đa quốc gia bán hàng hóa, nguyên liệu, dịch vụ với giá cao cho các công ty con ở nước ngoài, thu về ngoại tệ cho nước ta thế nhưng lượng ngoại tệ này thực chất là tiền lời của các công ty con được chuyển về công ty mẹ khiến lượng ngoại tệ (vốn) rời khỏi quốc gia tiếp nhận đầu tư gây tác động xấu đến hoạt động vĩ mô và quan trọng hơn là làm thất thu cho ngân sách nhà nước, nhà nước bị thất thu do không thể thu thuế thu nhậ doanh nghiệ trong khi doanh nghiệp lại phát triển Trong một số trường hợp công ty mẹ bán giá nguyên liệu rẻ, hỗ trợ tiền quảng cáo, chi phí tiếp thị cho các công ty con để các công ty con ở hải ngoại này sản xuất sản phẩm với giá thành thấp nhờ đó mà chiếm lĩnh thị trường loại đối thủ cạnh tranh là những nhà sản xuất nội địa cùng ngành ra khỏi thị trường. Và khi đã độc quy ền thì các công ty con mới nâng giá lên cao đạt được lợi nhuận siêu ngạch, lúc bấy giờ công ty mẹ mới nâng giá nguyên vật liệu đầu vào lên cao để chuyển lợi nhuận về nước. Hoạt động chuyển giá làm cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ sức cạnh tranh yếu bị phá sản tác động tiêu cực đến nền kinh tế-xã hội của nước ta. - 17 -
  18. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ - 18 -
  19. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ CHƯƠNG III: GIÁI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG MẤT CÂN ĐỐI 1. Nhóm các giải pháp chung 1.1. Hoàn thiện các chính sách về FDI Việc thiếu một chiến lược riêng đối với FDI, chính sách FDI thiếu đồng bộ, không có qui hoạch hợp lý là một trong những yếu tố gây khó khăn cho hoạt động thu hút, quản lý và sử dụng FDI. Do đó, để nâng cao hiệu quả của công tác này, tr ước h ết cần hoàn thiện các chính sách cũng như nâng cao hiệu quả của các chính sách. Trước hết, cần nhanh chóng xây dựng một qui hoạch cụ thể cho vốn FDI. Qui hoạch mới về FDI của Việt Nam cần được hình thành trên cơ sở khảo sát và đánh giá khách quan thực trạng tình hình vốn đầu tư FDI vào các hình thức đ ầu tư, đ ịnh hướng, mục tiêu của Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội, xu thế phát triển c ủa FDI thế giới sau khủng hoảng kinh tế với sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của các nền kinh tế lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc và các tập đoàn xuyên quốc gia (TNCs). Qui hoạch này cần hình thành theo 4 định hướng lớn, gồm chất l ượng và hi ệu quả cao; phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế ít các - bon; có cam kết v ề chuy ển giao công nghệ thích hợp với từng ngành, từng dự án và lao động có kỹ năng cao; Đưa ra những yêu cầu cụ thể về hạ tầng và lao động để từ đó lập các chiến lược, kế hoạch về lao động và hạ tầng phù hợp, thống nhất. Trong qúa trình điều chỉnh dòng vốn FDI vào các hình thức dầu tư, cần phải đổi mới chính sách FDI cần tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp, các bộ ngành, để có thể biết được nhu cầu thực sự của ngành đối với sự tham gia của vốn đầu tư nước ngoàivà khả năng thực hiện chính sách của các cơ quan này. Xây dựng nhóm kĩ trị năng động, chịu trách nhiệm trực tiếp với Thủ tướng, được tuyển chọn từ các chuyên viên, công chức trẻ, có trình độ, từ các Bộ ngành để tham gia, l ồng ghép ý tưởng. Nhóm này sẽ chịu trách nhiệm xây dựng chính sách cho toàn Chính phủ, thường xuyên có tương tác hai chiều với Thủ tướng và các Bộ, cơ quan thực thi chính sách. Sau nữa cần tạo cơ chế để các bộ ngành thường xuyên trao đổi với các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là những nhà đầu tư đang hoạt động với qui mô lớn để tránh cho họ những rủi ro khi có thay đổi về chính sách và giải quyết các vướng mắc trong hoạt động kinh doanh của họ. Tiếp tục phát huy hoạt đông gặp gỡ hàng năm giữa Thủ tướng và các doanh nghiệp, phát triển hoạt động này thành những cuộc gặp gỡ riêng của thủ - 19 -
  20. ĐẦU TƯ QUỐC TẾ tướng và các doanh nghiệp FDI, như vậy các doanh nghiệp FDI và nhà nước sẽ có cơ hội trao đổi tiến đến những mục tiêu chung. 1.2.Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý; nâng cao năng lực thực thi của các cơ quan chức năng Để thực hiện phân cấp quản lý FDI một cách có hiệu quả thì một trong những điều kiện tiên quyết là phải xây dựng được đội ngũ cán bộ quản lý có đầy đủ năng lực từ đội ngũ hành chính thông thường cho đến đội ngũ cán bộ chuyên trách về hoạch định, xúc tiến đầu tư, đào tạo nhân lực, đội ngũ thanh tra hoạt động FDI. Để thực hiện được điều đó, trước hết cần rà soát lại đội ngũ cán bộ đang làm việc tại các cơ quan liên quan trực tiếp tới FDI, từng bước hình thành đội ngũ cán bộ tinh thông nghiệp vụ đầu tư quốc tế, am hiểu kinh tế thị trường và tập quán thông lệ quốc tế. Các chương trình đào tạo đặc biệt cần được xây dựng để trang bị cho người học không chỉ những kĩ năng và kiến thức về đầu tư và tài chính, các kĩ năng tính toán mà còn trang bị cho họ khả năng bao quát tình hình kinh tế vĩ mô, các về văn hóa, xã hội học, nhân khẩu học, marketing có tính đến yếu tố quốc tế vì FDI gắn với các TNCs đầu vào và đầu ra là các thị trường quốc tế.Trang bị cho đội ngũ này đấy đủ kiến thức về quản lý nhà nước và khả năng kết hợp giữa kiến thức về đầu tư với kiến thức quản lý. Đối với các cán bộ không đủ tiêu chuẩn vừa phải đào tạo l ại (nếu còn tr ẻ), vừa phải mạnh dạn chuyển công tác đi cơ quan khác. Thứ hai, cần chú tr ọng đào tạo thường xuyên cho đội ngũ cán bộ quản lý. Mở các khóa học đào tạo ban đầu, đào tạo dài hạn, và sau đó chú trọng mở các khóa đào tạo ngắn hạn vài ngày, một vài tuần nhằm bồi dưỡng nâng cao năng lực làm việc trong suốt quá trình. Phải có cơ chế chính sách tuyển dụng và sử dụng và đãi ngộ tương ứng với năng lực và hiệu quả công việc đã thực thi. Ngoài ra, cần xây dựng đội ngũ thanh tra có năng lực và chuyên môn trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ và tài chính để phục vụ tốt hơn nữa hoạt động quản lý đối với các dự án FDI sau cấp phép. 1.3.Tăng sự phối hợp và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý Do đặc điểm của hoạt động thu hút vốn FDI vào các hình thức đầu tư, quản lý và sử dụng FDI là bao gồm rất nhiều nội dung, các nội dung này lại thuộc các lĩnh vực chuyên môn không giống nhau, cần có sự tham gia của nhiều bộ ngành, cơ quan để các hoạt động có thể thống nhất theo một mục đích chung. Ngoài ra, cấp Trung ương và - 20 -
nguon tai.lieu . vn