Xem mẫu
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi thực hiện chính sách mở cửa, hòa mình với nhịp chảy của thế giới trên mọi
lĩnh vực, đất nước ta đã có những bước tiến dài rộng trên con đường phát triển và vươn
mình “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Không chỉ đón nhận luồng vốn đầu tư dồi
dào từ các nước trên thế giới, các doanh nghiệp Việt Nam còn đề ra những dự định, chiến
lược trong việc mở rộng hoạt động ra nước ngoài. Đặc biệt, trong lĩnh vực Công nghệ
thông tin và Truyền thông (ICT), rất nhiều doanh nghiệp đã cùng nhau ra “biến lớn”, liên
tiếp đầu tư vào các mạng viễn thông trên mọi châu lục để mở rộng thị trường.
Nên hay không “đem chuông đi đánh xứ người” với tốc độ phát triển hiện nay của
các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam? Việc đầu tư ra nước ngoài mang lại những cơ hội
cũng như thách thức như thế nào?Giải pháp nào khắc phục và cải thiện để duy trì sự phát
triển bền vững trong chiến lược đầu tư này? Có thể nói, những câu hỏi trên luôn là nỗi
trăn trở thường trực của Chính phủ cũng như của các doanh nghiệp, đồng thời thu hút sự
quan tâm sâu sắc của mọi người dân. Nhận thức được sự cần thiết của việc nghiên cứu
vấn đề này, nhóm đã lựa chọn đề tài “Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra
nước ngoài – Cơ hội và thách thức”.Đề tài được triển khai từ những lý luận cơ bản rồi
tập trung đi vào phân tích, đánh giá tình hình thực tế.
Qua việc phân tích, đánh giá các vấn đề trên, đề tài sẽ đưa ra một cái nhìn toàn
cảnh và rõ ràng hơn về hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp viễn thông Việt
Nam; đồng thời, đúc rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá cho mọi doanh nghiệp đang
theo đuổi công cuộc “mở cõi” hiện nay. Tuy nhiên, với một vấn đề vĩ mô và còn nhiều bất
cập, chắc chắn tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, nhóm rất mong nhận
được sự góp ý của cô giáo để có thể hoàn thiện đề tài của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
I - CƠ SỞ NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lý luận:
Mọi hoạt động đầu tư trên toàn thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng suy cho
cùng là để thu lợi nhuận, vì vậy các nhà đầu tư luôn tìm kiếm những môi trường đầu tư
hấp dẫn với các hoạt dộng đầu tư có hiệu quả cao nhất, hạn chế thấp nhất mức độ rủi
ro. Trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay, đầu tư ra nước ngoài là xu hướng tất yếu của
các nước trên thế giới.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) bao gồm 2 dòng:
(1) Thu hút FDI từ nước ngoài vào trong nước;
(2) Tiến hành đầu tư trực tiếp (ĐTTT) ra nước ngoài.
Thực tế đã cho thấy, FDI có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế toàn cầu nói chung và nền kinh tế từng quốc gia nói riêng. Một số nước
đang phát triển dường như chỉ chú trọng thu hút FDI để phát triển nền kinh tế trong nước.
Nhưng thực tế đã chứng minh rằng, khi một quốc gia tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài càng nhiều,quốc gia đó sẽ càng mở rộng cơ hội vượt qua các rào cản của các nước
nhập khẩu nhằm mở rộng thị trường, tạo thêm việc làm, đa dạng hoá hoạt động kinh
doanh, phân tán rủi ro và tăng động lực phát triển kinh tế đất nước.
Các nhà đầu tư trên toàn thế giới sau khi đã có chỗ đứng nhất định ở thị trường
trong nước sẽ luôn có tham vọng tìm kiếm những thị trường ngoài nước rộng lớn và có
nhiều tiềm năng để mở rộng thị trường hoạt động.Đối với các doanh nghiệp Việt Nam,
đặc biệt là doanh nghiệp Viễn thông, điều này cũng không phải là ngoại lệ.Môi trường
đầu tư trong nước tarất rộng lớn nhưng vô cùng cạnh tranh, đòi hỏi sự bứt phá liên tục để
duy trì sự phát triển và trường tồn của doanh nghiệp.Các nhà đầu tư viễn thông đều đồng
quan điểm rằng, nếu chỉ tập trung phát triển trong nước thì doanh nghiệp sẽ không thể lớn
mạnh được. Bởi vậy, chiến lược đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp viễn thông
Việt Nam là một bước đi đúng đắn, tất yếu, khi các nhà đầu tư đã nghiên cứu kĩ càng môi
trường đầu tư tại từng quốc gia và có một chiến lược cụ thể, rõ ràng cho từng bước đi
của mình. Việc nghiên cứu tình hình đầu tư của những doanh nghiệp này giúp ta hiểu rõ
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
hơn về chiến lược hoạt động, những thuận lợi và khó khăn cũng như dự đoán những xu
thế mới của mảng đầu tư đang phát triển mạnh mẽ này.
2. Cơ sở thực tiễn:
Trong những năm gần đầy, làn sóng đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam phát triển mạnh mẽ.Đặc biệt, các doanh nghiệp Việt Nam đã khẳng định được
vị thế của mình khi đầu tư ở cac nước lang giêng hay đối tác quen thuôc như Lao,
́ ́ ̀ ̣ ̀
Campuchia hay Nga.Theo Bộ Công Thương, điều đáng mừng là giờ đây các doanh nghiệp
Việt Nam cũng đã vươn ra những khu vực xa hơn như cac nước khu vực châu Phi, Châu
́
My, thâm chí cả những nước kinh tế phat triên như Australia, My, Singapore, Nhât Ban…
̃ ̣ ́ ̉ ̃ ̣ ̉
với tông số là 59 quôc gia và vung lanh thô.
̉ ́ ̀ ̃ ̉
Đặc biệt, trong ngành viễn thông Việt Nam, rất nhiều doanh nghiệp đã đẩy mạnh
đầu tư ra nước ngoài.Xu hướng này thể hiện quanhững bước tiến dài của các tập đoàn
nổi tiếng FPT, VNPT, Viettel; đồng thời cũng thể hiện qua kế hoạch đầu tư đầy tham
vọng trong thời gian tới MobiFone.Việc hiện thực hóa giấc mơ “ra biển lớn” của các
doanh nghiệp Việt Nam đã không còn là chuyện xa vời mà trở thành một chiến lược phát
triển quan trọng của tất cả các doanh nghiệp lớn.Ví dụ điển hình nhất là FPT trong 3 năm
qua đã đạt mục tiêu đầu tư ra ngoài lãnh thổ Việt Nam, và sau 15 năm đi ra quốc tế, tập
đoàn này đã hiện diện ở 17 quốc gia trên toàn cầu. Còn với Viettel, con số này là 6 quốc gia
ở 3 châu lục.MobiFone thì cho biết, mạng di động này có tham vọng vươn ra thị trường
nước ngoài để trở thành 1 trong 10 mạng di động hàng đầu châu Á. MobiFone dự kiến đầu
tư ra nước ngoài và phục vụ cho thị trường khoảng 200 triệu dân. Những dự định của các
nhà đầu tư Việt Nam ở thị trường quốc tế hẳn sẽ không chỉ dừng lại ở những con số này
mà sẽ còn vươn xa hơn nữa.
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
II - TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
VIỄN THÔNG VIỆT NAM:
1. Những thành tựu và cơ hội
Theo số liệu báo cáo của Cục đầu tư nước ngoài, tính lũy kế đến ngày 31/12/2012,
đã có 719 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đ ạt 12,87 t ỷ
USD tại 60 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trong năm 2012, có 84 dự án đầu tư mới được cấp
giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 1,41 tỷ USD tại 25 quốc gia và vũng lãnh
thổ, vốn thực hiện đạt khoảng 1,2 tỷ USD, tăng 28% so với năm 2011.
Cũng theo số liệu của Cục đầu tư nước ngoài, trong năm 2012, một số dự án ở
lĩnh vực dầu khí, viễn thông và cao su của doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ở các n ước đã
bước đầu gặt hái kết quả và mức lợi nhuận chuyển về nước lên tới 430 triệu USD. Trong
đó, các dự án thuộc nhóm ngành viễn thông đóng góp lớn vào số lãi trên như: Tập đoàn
viễn thông quân đội Viettel đạt tổng doanh thu từ đầu tư nước ngoài là 734 triệu USD, tăng
trưởng 41% so với năm 2011 và lợi nhuận chuyển về Việt Nam đạt 77 triệu USD, gấp 4
lần so với năm 2011; doanh thu từ thị trường nước ngoài của FPT trong năm 2012 đạt trên
90 triệu USD, tăng trưởng 30% so với năm 2011.
Chúng ta có thể quan sát bảng số liệu sau để thấy rõ hơn vai trò của đầu t ư tr ực
tiếp ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông đối với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
Việt Nam trong những năm qua.
TỔNG HỢP ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀI THEO NGÀNH
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
Các dự án còn hiệu lực lũy kế đến 20/3/20131
Đại diện cho hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông c ủa Vi ệt
Nam hiện nay có 2 tập đoàn lớn: FPT và Viettel. Dưới đây là 1 số thành tựu cụ thể của 2
tập đoàn này thu được trong những năm qua từ hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài:
Tập đoàn FPT
Hiện FPT đã có mặt tại 13 quốc gia khác nhau trên thế giới, bao gồm: Mỹ, Anh, Đức,
Pháp, Úc, Nhật Bản, Philippines, Thái Lan, Campuchia, Myanmar, Malaysia, Lào,
Singapore. Trong giai đoạn 2014-2016, tập đoàn FPT đặt ra mục tiêu đạt doanh thu 400
triệu USD tại thị trường toàn cầu, hướng tới doanh thu 1 tỷ USD trong thời gian tiếp
theo.
Theo đánh giá của ông Nguyễn Thế Phương- Phó Tổng giám đốc FPT: “Hoạt
động đầu tư ra nước ngoài của FPT đã đạt được kết quả khả quan. Doanh thu từ hoạt
động kinh doanh tại nước ngoài của FPT năm 2012 đạt 90 triệu USD, tăng trưởng trên
30% so với năm 2011”.
1 Số liệu cập nhật nhất ngày 19/02/2014 từ trang tin chính thức của Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
Nhằm xúc tiến đầu tư vào châu Phi, tập đoàn FPT và Công ty 21st Century của
Nigeria đã ký biên bản ghi nhớ (MOU) hợp tác chiến lược trong lĩnh vực viễn thông, giáo
dục và sản xuất thiết bị.
Tại Campuchia, FPT đã xây dựng kết nối mạng đường trục đến đường biên giới,
từ đó cung cấp dung lượng cho các nhà khai thác tại Campuchia và hiện cung cấp gần 50%
băng thông quốc tế đến thị trường này.
Tập đoàn viễn thông quân đội Viettel
Năm 2012, Viettel trở thành 1 trong 30 doanh nghiệp viễn thông lớn nhất toàn cầu
và có thị trường quốc tế hơn 110 triệu dân (gồm Lào, Campuchia, Đông Timor,
Mozambique, Cameroon, Haiti và Peru), kinh doanh có lãi ở 4 nước với gần 10 triệu thuê
bao.
Tại Lào, Viettel là nhà đầu tư nước ngoài thành công nhất trong lĩnh vực viễn
thông. Chỉ sau chưa đầy 2 năm đầu tư vào mạng di động Unitel (liên doanh của Viettel và
Lao Asia Telecom), nhà mạng này đã trở thành công ty số 1 của Lào cả về thị phần thuê
bao cũng như hạ tầng mạng.
Nước láng giềng Campuchia cũng là một địa chỉ đầu tư rất thành công của Viettel.
Cũng rót vốn vào đây vào lúc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang thời kỳ khốc liệt nhất,
Metfone (thương hiệu của Viettel) đã trở thành nhà cung cấp có hạ tầng mạng lớn nhất và
chỉ 2 năm sau đã chiếm vị trí số 1 về thị phần thuê bao.
Bên cạnh đó, bất chấp trận động đất làm hơn 300.000 người chết ở Haiti, Viettel
đã khai trương mạng di động chỉ trong vòng hơn 1 năm xây dựng. Vào ngày khai trương
7/9, Natcom (liên doanh mà Viettel chiếm 60% vốn) đã trở thành hãng di động có hạ tầng
mạng lớn nhất, với số trạm thu phát sóng lên tới gần 1.000 trạm - nhiều hơn 30% so với
nhà cung cấp lớn nhất trước đó là Digicel thực hiện trong 6 năm.
Đặc biệt, một trong những thị trường thành công nhất của Viettel tại nước ngoài là
Mozambique với thương hiệu Movitel.Viettel xúc tiến đầu tư vào Mozabique từ năm 2008,
đến tháng 11/2012 được cấp giấy phép và đi vào hoạt động từ tháng 5/2012. Sau nửa năm,
vào tháng 11/2012, Movitel đã được trao giải “ Doanh nghiệp có giải pháp tốt nhất giúp cải
thiện viễn thông cho khu vực nông thôn châu Phi ”. Chỉ sau một năm, vào tháng 5/2013
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
doanh thu của Movitel đạt 113,5 triệu USD với 2 triệu thuê bao. Movitel được đánh giá là
dự án đầu tư hiệu quả nhất của Việt Nam vào châu Phi.
Viettel đang đặt mục tiêu đến năm 2015 sẽ có thị trường quy mô 300 - 500 triệu
dân. Nếu đạt được con số này, Viettel sẽ đạt doanh thu từ thị trường nước ngoài lớn gấp 3
- 5 lần thị trường trong nước và trở thành một trong 10 doanh nghiệp viễn thông đầu tư ra
nước ngoài lớn nhất thế giới. Hiện Viettel đã đầu tư tại 6 nước thuộc 3 châu lục: Châu Á
(Việt Nam, Campuchia, Lào), Châu Mỹ (Haiti, Peru) và Châu Phi (Mozambique) với doanh
thu năm 2011 gần 6 tỉ USD và 60 triệu thuê bao đang hoạt động. Tại những nước đã kinh
doanh, Viettel là doanh nghiệp viễn thông có hạ tầng lớn nhất ngay tại thời điểm khai
trương.
2. Những khó khăn và hạn chế
a. Khó khăn chung
Tuy nhiên, một thực tế là dù tất cả các nhà đầu tư đều có tham vọng nhưng không
phải ai cũng có thể khai thác tốt và thu được lợi nhuận từ những thị trường ngoài nước.
Nguyên nhân là do việc đầu tưra nước ngoài không hề đơn giản nếu các nhà đầu tư không
nghiên cứu kĩ lưỡng môi trường đầu tư và những thuận lợi, khó khăn của doanh nghiệp
khi quyết định dốc vốn vào đầu tư.
Một doanh nghiệp khi quyết định đầu tư ra nước ngoài phải xem xét, nghiên cứu
không chỉ các vấn đề liên quan tới vốn, tình hình cung - cầu và giá cả thị trường mà sự
khác biệt về tự nhiên, văn hóa, xã hôi, thủ tục pháp lí, rào cản ngôn ngữ, phong tục tập
quán, thói quen tiêu dùng, thói quen làm việc…cũng là những khó khăn mà mọi nhà đầu tư
phải vượt qua khi quyết định đầu tư vào một thị trường quốc tế.
Đối với các nhà đầu tư Viễn thông của Việt Nam, khi hiện thực hóa giấc mơ mang
tên tuổi của mình đến với thế giới, họ phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, cụ thể là:
i. Đối với trong nước:
* Về luật pháp, chính sách:
- Thủ tục hành chính phức tạp,không rõ ràng: Thể chế chính sách đối với
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chưa thực sự hoàn chỉnh, thường đi chậm so với
thực tế, do đó chưa có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của hoạt động đ ầu t ư tr ực
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
tiếp ra nước ngoài. Quản lý hoạt động này còn nhiều bất cập, từ khâu quản lý tiền đầu tư
đến khâu hậu kiểm. Doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam đầu tư được cố gắng cấp
phép trong vòng 30-45 ngày, còn doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài thường
gặp các thủ tục rườm rà, kéo dài đôi khi làm lỡ cơ hội đầu tư.
- Các cơ quan đại diện của Nhà nước ở nước ngoài như Đại sứ quán,
Tổng Lãnh sự quán, cơ quan Thương vụ chưa thực sự tham gia có hiệu quả trong
việc hỗ trợ xúc tiến các dự án đầu tư trực tiếp ra nước ngoài . Một số cơ quan đại
diện ở nhiều nước không nắm rõ được số lượng các dự án, các khó khăn thuận lợi của
nhà đầu tư, trong khi đó các nhà đầu tư cũng không chủ động gặp gỡ, báo cáo tình hình
hoạt động của dự án. Đây là nguyên nhân căn bản làm cho các nhà đầu tư lâm vào tình
cảnh lạc lõng, đơn lẻ hoặc xung đột với nhau khi giải quyết những khó khăn trong việc
triển khai dự án tại nước sở tại.
- Bất hợp lý trong việc quy định mức vốn đầu tư: Nghị định 22/CP quy
định doanh nghiệp thành lập theo Luật Doanh nghiệp chỉ được phép đầu tư ra nước ngoài
dưới 1 triệu USD bao gồm cả máy móc, nhà xưởng, thiết bị công nghệ, còn DNNN nếu
đầu tư ra nước ngoài từ trên 1 triệu USD phải được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ
là không hợp lý, vì thực tế năng lực tài chính, công nghệ ... của một số doanh nghiệp Việt
Nam đã lớn hơn thế rất nhiều. Hiện có nhiều nước nghèo hơn Việt Nam đang cần vốn,
cần công nghệ của các nước giàu và có những chính sách ưu tiên, ưu đãi rất hấp dẫn đ ối
với đầu tư nước ngoài nhưng các nước giàu lại không chú ý đến họ.
* Về quản lý nhà nước
- Hạn chế trong nhận thức: Việt Nam cũng như các nước mới hội nhập
thường chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài hơn là đầu tư ra nước ngoài. Hiện còn nhiều
ý kiến cho rằng khi trong nước còn thiếu vốn thì đầu tư ra nước ngoài s ẽ làm gi ảm sút
vốn đầu tư trong nước, từ đó Nhà nước chưa có chính sách, biện pháp cụ thể khuyến
khích, hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài;
- Khó khăn về vay vốn, chuyển tiền, chuyển lợi nhuận: Hiện rất hiếm
ngân hàng thương mại chấp nhận cho các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài vay vốn, vì
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
thứ nhất, họ không có cơ chế quản lý nguồn tiền vay khi không có văn phòng đ ại di ện ở
quốc gia mà doanh nghiệp đầu tư; thứ hai, cơ chế quản lý ngoại hối của ngân hàng Nhà
nước hiện chưa quy định về quản lý đồng tiền đầu tư ra nước ngoài. Theo quy đ ịnh, các
doanh nghiệp khi đầu tư ra nước ngoài chỉ được huy động vốn tự có để đầu tư, chỉ được
sử dụng vốn vay đầu tư ra nước ngoài nếu được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận. Các
thủ tục chuyển tiền ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận từ nước ngoài về hiện cũng là
những vấn đề bức xúc của nhiều doanh nghiệp.
- Mối liên hệ giữa cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ ta ở nước
ngoài với các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài còn lỏng lẻo nên khi có vụ việc tranh
chấp xảy ra sẽ không tranh thủ được tối đa sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Ở một số dự án thời gian thẩm tra cấp Giấy chứng nhận ĐTRNN cho
dự án vẫn còn kéo dài so với thời hạn theo luật định, ảnh hưởng tới tiến độ triển khai dự
án ở nước ngoài. Điều này cho thấy ở một số bộ phận, một số cá nhân chưa thực sự nêu
cao tinh thần trách nhiệm trong xử lý công việc.
* Về doanh nghiệp nước ta:
- So với các tập đoàn quốc tế khác thì các nhà đầu tư của Việt Nam đã
muộn hơn từ 10- 20 năm, và còn rất non trẻ về cả tiềm lực kinh tế lẫn kinh nghiệm; khó
khăn về rào cản về ngôn ngữ, văn hoá; khó khăn trong việc xin được giấy phép viễn thông,
cạnh tranh mạnh tại thị trường đầu tư, xu hướng doanh thu đang giảm nhanh...
- Số lượng dự án và quy mô vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam
đầu tư ra nước ngoài còn nhỏ, do năng lực tài chính và kinh nghiệm đầu tư của các
doanh nghiệp Việt Nam còn bị hạn chế.
- Các doanh nghiệp hoạt động riêng lẻ, manh mún tại các nước, thậm chí
còn cạnh tranh với nhau, không có cơ chế liên kết để tăng tiếng nói đối với các cơ quan có
thẩm quyền của nước sở tại. Một vài doanh nghiệp vi phạm pháp luật của nước sở tại,
dẫn tới làm mất uy tín của các nhà đầu tư Việt Nam.
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
- Nhiều doanh nghiệp không cập nhật các chính sách đầu tư ra nước
ngoài của Việt Nam, không thực hiện chế độ báo cáo định kỳ, không thực hiện việc đăng
ký thay đổi nội dung hoạt động ở nước ngoài, hình thức đầu tư ở nước ngoài, quy mô đầu
tư ra nước ngoài.
ii. Đối với nước tiếp nhận đầu tư:
- Hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư của một số nền kinh tế đang
trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện nên có nhiều thay đ ổi, không thống nh ất, thi ếu minh
bạch và khó tiếp cận. Tại một số nền kinh tế có sự thiếu nhất quán trong áp d ụng chính
sách, đặc biệt là các quy định do địa phương đặt ra và áp dụng ngoài các chính sách c ủa
nhà nước (Ví dụ: chính sách ưu đãi miễn thuế thu nhập doanh nghiệp của Lào đ ược áp
dụng trên toàn quốc nhưng địa phương vẫn thu thêm thuế thu nhập).
- Thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp tại một số nền kinh tế cũng như
các thủ tục triển khai thực hiện dự án đầu tư (đất đai, phê duyệt thiết kế.v.v.) khá phức
tạp, kéo dài thời gian, tốn kém về chi phí cho doanh nghiệp, thủ tục thông quan phức t ạp
(Ví dụ tại LB Nga, Lào).
- Lực lượng lao động tại chỗ rất hạn chế, trình độ chuyên môn thấp, tính kỷ
luật và tính chuyên cần không cao, rất khó đáp ứng được nhu cầu về lao động của nhà đầu
tư cả về số lượng lẫn chất lượng (Ví dụ tại Lào).
- Sự khác biệt về văn hóa và thói quen sinh hoạt, cách thức làm việc tại các
quốc gia khác cũng là một thách thức mà các nhà đầu tư gặp phải. Đ ối với các công ty
viễn thông, ngoài sự khác biệt về ngôn ngữ, việc làm cho các nhân viên nước ngoài thích
ứng với văn hóa làm việc của công ty cũng không phải chuyện dễ dàng và cũng th ường
mất nhiều thời gian. (Ví dụ : Tại Lào, thói quen không làm việc ngoài giờ và nghỉ toàn bộ
các ngày cuối tuần của nhân viên bản xứ khiến cho Viettel đã gặp nhiều khó khăn trong
việc đảm bảo việc phục vụ khách hàng 24/7 như các công ty viễn thông cần phải làm.
Trong giao tiếp và làm việc, nhân viên người Lào thích được nói chuyện nhẹ nhàng, chứ
không quen với tác phong quân đội, chấp hành mệnh lệnh. Chính vì vậy, bộ máy nhân viên
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
Viettel đã quyết định vừa phải thay đổi bản thân, vừa phải thay đổi chính cách nhìn và làm
việc của nhân viên bản xứ).
b. Khó khăn riêng
Đầu tư vào viễn thông, về cơ bản là sự đầu tư vào hạ tầng cơ sở. Bên cạnh
những khó khăn chung mà mọi công ty hay tập đoàn đều gặp phải khi "đem chuông đi đánh
xứ người" thì các tập đoàn và công ty viễn thông Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn
đặc thù. Đây là rào cản không hề nhỏ, ảnh hưởng tới quá trình phát triển và tăng trưởng
bền vững của đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực Viễn thông.
Khi nhìn vào dòng chảy chính của ngành viễn thông hiện nay, có thể thấy nổi bật
nhất là xu hướng kết hợp và sáp nhập. Hiện thế giới có khoảng 700 nhà mạng, nhưng
được dự báo là trong vòng vài năm tới con số trên sẽ chỉ còn hai chữ số. Do vậy sẽ có
khoảng 600 nhà mạng dần biến mất vì không còn thị phần, không còn thuê bao. Bản chất
doanh thu của nhà mạng đến từ số lượng thuê bao thực. Những xu thế này trực tiếp liên
quan đến nhà đầu tư Việt Nam, vì nếu không đầu tư nước ngoài, không mở rộng thị
trường thì sẽ khó có thể tiếp tục thành công như ở thị trường trong nước. Nếu không lớn
mạnh, không có một lượng thuê bao lớn thì sẽ nằm trong số 600 nhà mạng đó.
Khi nhìn ra các nước xung quanh, các thị trường mà nhà đầu tư Việt Nam định đầu
tư thì cước gọi của các đối thủ cao nhất là 3 cent/phút và thấp nhất là 1 cent/phút.Để có
thể cạnh tranh với nhà mạng khác thì viễn thông Việt Nam sẽ phải cung cấp dịch vụ với
giá từ 1-2 cent/phút.Trong khi hiện ở Việt Nam, giá cước viễn thông trung bình đang bán
trên thị trường vào khoảng 8 cent/phút. Do vậy, nếu không đạt được một lượng khách
hàng đủ lớn thì chắc chắn đầu tư sẽ bị lỗ.
Các thị trường viễn thông trên thế giới có thể được chia thành ba loại: Thị trường
bão hoà, thị trường đang tăng trưởng và thị trường còn non trẻ. Có thể thấy là thị trường
non trẻ là nơi tiềm năng nhất, nhưng chỉ còn không nhiều nước trên thế giới như
Myanmar, Bắc Triều Tiên và Cuba. Thị trường đang tăng trưởng thì có khoảng 60 nước với
2 tỷ dân. Các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam hiện đang tập trung xúc tiến, tìm kiếm cơ
hội đầu tư tại những quốc gia này, với việc tham gia đăng ký thầu giấy phép hoặc mua lại
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
những công ty nhỏ đã có giấy phép. Mozambique là một thương vụ gần đây, với việc
Viettel thắng thầu trị giá 28,2 triệu USD, vượt qua các đối thủ còn lại nhờ công nghệ và
cam kết đầu tư phát triển xã hội dù giá bỏ thầu thấp hơn họ.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam phải cạnh tranh với nhiều
thương hiệu viễn thông nổi tiếng của thế giới như VodaFone, Orange… ở Campuchia với
doanh thu cao gấp cả chục lần…thậm chí chính các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh
với nhau. Bên cạnh đó kinh nghiệm kinh doanh trong môi trường toàn cầu của một số
doanh nghiệp viễn thông Việt Nam (ví dụ: VNPT) khi vươn ra thị trường nước ngoài vẫn
còn thiếu.
Về nhân sự, các doanh nghiệp phải đưa ra những lựa chọn rất cân nhắc, hiệu quả
để giữ thế cạnh tranh. Không những cạnh tranh về nhân sự với các DN trong nước, mà các
công ty viễn thông Việt còn phải cạnh tranh nhân sự với các DN nước ngoài tại các nước
đầu tư.
III - ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM CẢI THIỆN VÀ DUY TRÌ SỰ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ RA NƯỚC NGOÀICỦA DOANH
NGHIỆP VIỄN THÔNG VIỆT NAM
1. Về phía Nhà nước
Trước khi đề xuất các giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cần thống nhất
một số quan điểm chủ đạo sau đây:
(ĐTTTRNN: đầu tư trực tiếp ra nước ngoài)
Thứ nhất, coi ĐTTTRNN là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam về mặt
lý luận cũng như thực tiễn, hoạt động ĐTTTRNN mang lại nguồn tài nguyên, hàng hóa,
ngoại tệ cho nền kinh tế trong nước, và thông qua hoạt động ĐTTTRNN, nền kinh tế
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
trong nước sẽ thâm nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Do vậy, Chính
phủ cần thống nhất quan điểm coi ĐTTTRNN là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế.
Từ đó, Chính phủ cần phải xây dựng chiến lược phát triển ĐTTTRNN, hoàn thiện hệ
thống quản lý với các chính sách hỗ trợ có hiệu quả để chủ động kịp thời nắm bắt tình
hình đầu tư và giúp các nhà đầu tư trong việc tìm kiếm cơ hội đầu tư cũng như tháo gỡ
những khó khăn vướng mắc khi hoạt động ở nước ngoài.
Thứ hai, hoạt động ĐTTTRNN cần được đối xử bình đẳng như các thành
phần kinh tế khác trong khi hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nhận
được sự quan tâm đặc biệt của Chính phủ, với việc chú trọng xây dựng chiến lược, cơ
chế chính sách, xúc tiến đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì hoạt động ĐTTTRNN còn
chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Do vậy, Nhà nước cần quan tâm hơn đến loại
hình đầu tư này, có thể coi hoạt động ĐTTTRNN như một hình thức xuất khẩu đặc biệt
và tăng cường phân bổ ngân sách cho hoạt động xúc tiến ĐTTTRNN, hỗ trợ vốn, giảm
thuế cho hoạt động này.
Thứ ba, coi mỗi nhà đầu tư là một sứ giả đại diện cho hoạt động kinh tế
của Việt Nam ở nước ngoài dựa trên quan điểm này, Nhà nước cần xây dựng cơ chế
buộc các cơ quan đại diện ngoại giao, tham tán kinh tế của Việt Nam ở nước ngoài phải
nắm được tình hình hoạt động ĐTTTRNN của Việt Nam tại nước mình phụ trách để kịp
thời hỗ trợ giải quyết các khó khăn vướng mắc cho nhà đầu tư. Đồng thời, Nhà nước
cũng phải xây dựng các biện pháp chế tài buộc các nhà đầu tư có nghĩa vụ thông báo định
kỳ tình hình triển khai dự án với đại sứ quán hoặc đại diện kinh tế của Việt Nam tại nước
đầu tư.
Trên cơ sở thống nhất các quan điểm chủ đạo trên, Chính phủ cần tổ chức triển
khai thực hiện một số giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, khẩn trương xây dựng chiến lược phát triển đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài chiến lược đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mạnh mẽ loại hình
đầu tư này. Nó thể hiện tầm nhìn và định hướng của chính phủ đối với hoạt động
ĐTTTRNN, và qua đó các cơ quan quản lý đầu tư, các bộ ngành có thể căn cứ vào chiến
lược chung để xây dựng các cơ chế chính sách hỗ trợ cụ thể và thiết thực cho các nhà đầu
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
tư. Chính phủ cần giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng Chiến lược chung của quốc gia,
với những nội dung cơ bản của chiến lược bao gồm: mục tiêu và định hướng phát triển
ĐTRNN của Việt Nam theo kế hoạch 5 năm và cụ thể hóa từng năm; ngành, lĩnh vực
khuyến khích hoặc hạn chế ĐTTTRNN; các thị trường đầu tư trọng điểm; những chính
sách khuyến khích của Nhà nước trong hỗ trợ ĐTTTRNN. Đồng thời, mỗi ngành kinh tế
khi xây dựng kế hoạch phát triển của ngành phải có nội dung về chiến lược phát triển
ĐTTTRNN và các biện pháp hỗ trợ khuyến khích của ngành đối với hoạt động đầu tư này.
Hai là, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích ĐTTTRNN khi đã có chiến
lược ĐTTTRNN, Chính phủ cần cụ thể hóa cơ chế, chính sách ưu đãi để khuyến khích
hoạt động đầu tư này, chẳng hạn: miễn, giảm các loại thuế, kể cả thuế chuyển lợi nhuận
về nước trong 5 năm kể từ khi dự án đi vào hoạt động; lập quỹ hỗ trợ ĐTTTRNN để cho
vay vốn thực hiện những dự án có tầm ảnh hưởng lớn đối với nước tiếp nhận vốn,
những dự án có tính khả thi cao, những dự án khai thác nguồn nguyên liệu phục vụ cho
sản xuất trong nước; tăng cường ký kết các hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với các nước,
để đảm bảo các nhà ĐTRNN không bị nộp thuế trùng; tôn vinh, khuyến khích các nhà đầu
tư Việt Nam thành đạt ở nước ngoài.
Ba là, tăng cường ngân sách để đẩy mạnh hoạt động xúc tiến ĐTTTRNN
hiện tại, nguồn vốn ngân sách nhà nước dành cho công tác xúc tiến đầu tư chủ yếu được
sử dụng cho hoạt động xúc tiến đầu tư vào Việt Nam và chưa có sự phân bổ rõ ràng cho
hoạt động xúc tiến đầu tư ra. Thực tế, hoạt động xúc tiến đầu tư ra thường được lồng
ghép như một chương trình phụ trong hoạt động xúc tiến đầu tư vào. Do vậy, Chính phủ
cần tăng cường ngân sách và phân bổ riêng rẽ, đồng đều nguồn vốn ngân sách cho hoạt
động xúc tiến đầu tư ra.
Bốn là, nghiên cứu, xem xét việc thiết lập một cơ quan chuyên trách về xúc
tiến ĐTTTRNN trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư một số quốc gia như Nhật Bản và
Hàn Quốc có hoạt động ĐTTTRNN phát triển mạnh mẽ đều có các tổ chức chuyên trách
việc xúc tiến đầu tư ra, như Jetro của Nhật Bản, Kotra của Hàn Quốc. Những cơ quan
chuyên trách này thực hiện nhiệm vụ thu thập thông tin, chính sách, cơ hội đầu tư ở nước
ngoài, sau đó chuyển tải những thông tin này về nước và chủ động tổ chức các cuộc tiếp
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
xúc cho doanh nghiệp trong nước với các thị trường tiềm năng. Đây là mô hình xúc tiến
ĐTTTRNN rất hiệu quả, nó được phản ánh qua số lượng, quy mô các dự án ĐTTTRNN
của Nhật Bản vào các nước nói chung, cũng như Việt Nam nói riêng.
Năm là, cần tăng cường hoạt động ngoại giao hỗ trợ hoạt động
ĐTTTRNNmặc dù Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ ngoại giao với nhiều nước và cử
đại diện của Chính phủ Việt Nam ở nước ngoài như Đại sứ quán, Lãnh sự quán, tham tán
thương mại và đầu tư. Tuy nhiên, các cơ quan đại diện này chưa thực sự tham gia có hiệu
quả trong việc hỗ trợ xúc tiến các dự án ĐTTTRNN. Một số cơ quan đại diện của Việt
Nam ở nhiều nước không nắm rõ được số lượng các dự án, các khó khăn thuận lợi của
nhà đầu tư, trong khi đó các nhà đầu tư cũng không chủ động gặp gỡ, báo cáo tình hình
hoạt động của dự án. Có thể nói, đây là nguyên nhân căn bản làm cho các nhà đầu tư lâm
vào tình cảnh lạc lõng, đơn lẻ hoặc xung đột với nhau khi giải quyết những khó khăn
trong việc triển khai dự án tại nước sở tại. Do vậy, các cơ quan ngoại giao của Việt Nam
ở nước ngoài cần chú trọng tăng cường hoạt động ngoại giao để hỗ trợ có hiệu quả cho
các nhà đầu tư Việt Nam ở nước ngoài.
Sáu là, hoàn thiện cơ chế và bộ máy quản lý hoạt động ĐTTTRNN nhằm
giảm thiểu sự gây trở ngại về thủ tục hành chính từ trong nước cho các nhà đầu tư ra
nước ngoài. Cần tiếp tục rà soát và chỉnh sửa bổ sung Nghị định 78/2006/NĐ- CP ngày 09
tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định về hoạt động ĐTTTRNN, Quyết định
1175/2006/QĐ-BKH ngày 10 tháng 10 năm 2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc ban
hành mẫu các văn bản liên quan đối với hoạt động ĐTTTRNN theo hướng đơn giản hóa
về thủ tục, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư tiến hành hoạt động ĐTTTRNN.
Bảy là, khuyến khích thành lập Hiệp hội đầu tư ở nước ngoài thực tế cho
thấy, các doanh nghiệp Việt Nam ĐTTTRNN chưa có sự liên kết với nhau. Các doanh
nghiệp nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam thường liên kết, hỗ trợ, chia sẻ thông tin qua
việc thành lập các hiệp hội doanh nhân, như Hiệp hội doanh nhân Ấn Độ, Nhật Bản, Đài
Loan… Trong khi đó các nhà đầu tư Việt Nam hoạt động mang tính riêng lẻ, manh mún,
không những không liên kết, hỗ trợ nhau mà còn cạnh tranh không lành mạnh, chụp giựt,
gây khó khăn cho nước sở tại. Chính bởi vậy, đã có giai đoạn chính phủ Lào đưa ra điều
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
kiện đầu tư áp dụng riêng đối với nhà đầu tư Việt Nam là, muốn đầu tư vào nước họ, nhà
đầu tư phải có Công thư giới thiệu của các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam, nhằm
mục đích tránh việc chồng chéo dự án. Do vậy, Chính phủ cần đặc biệt khuyến khích
thành lập các Hiệp hội đầu tư ở nước ngoài, thông qua hiệp hội, tiếng nói của các nhà đầu
tư Việt Nam sẽ có trọng lượng hơn với cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại khi phản
ánh tâm tư nguyện vọng về cơ chế, chính sách có liên quan đến nhà đầu tư Viêt Nam. Hơn
nữa, qua hiệp hội, các nhà đầu tư VN có thể chia sẻ thông tin, hỗ trợ lẫn nhau tìm hiểu và
tháo gỡ những khó khăn vướng mắc liên quan đến hoạt động đầu tư ở nước sở tại.
2. Về phía các doanh nghiệp Viễn thông
Các doanh nghiệp có ý định mở rộng hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh ra
nước ngoài cần có sự chuẩn bị kĩ từ khâu nghiên cứu thị trường, chính sách pháp luật, tập
quán, thói quen tiêu dùng, các tiêu chuẩn kỹ thuật; đặc biệt là tìm hiểu nghiên cứu kỹ chính
sách thuế phí; các quy định xuất nhập khẩu ở nước sở tại để lựa chọn cơ hội đầu tư phù
hợp với mình, tránh bị dây dưa, tranh chấp kiện tụng ở các thị trường nước ngoài. Nẵm
vững những quy định, điều luật của quốc gia, tổ chức kinh tế thế giới để có biện pháp đối
phó với những vụ kiện mà lúc nào cũng có thể xảy ra.
Mặt khác, trong khâu chuẩn bị, lập dự án đầu tư cần có sự chuẩn bị, tính toán 1
cách cụ thể chi tiết; đáp ứng đầy đủ các thủ tục, yêu cầu theo quy định. Đồng thời đối với
các dự án đã đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh tại nước ngoài, các doanh nghiệp cần
thực hiện chế độ báo cáo tài chính định kỳ cho cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài; xem
khâu nào vướng mắc, vướng mắc ở đâu để nhà nước xem xét có sự điều chỉnh các chính
sách, quy định cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Như vậy Nhà nước mới có thể theo sát
quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp.
Với đặc thù ngành đầu tư là viễn thông, các công ty và tập đoàn có thể có những
giải pháp hợp lý cụ thể như :
Để có thể vượt qua được những đối thủ nặng ký đên từ Thái Lan, Malaysia, Bắc
Âu... các công ty viễn thông Việt Nam cần có 1 cách làm khác biệt tại các thị trường này.
Chẳng hạn như kinh nghiệm mạng lưới đi trước, kinh doanh theo sau, kinh nghiệm hướng
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
đến người tiêu dung có thu nhập thấp… mà đã đúc kết thành triết lý 4Any (anytime: mọi
lúc, anywhere: mọi nơi, anybody: mọi người, anyprice: mọi giá).
Chiến lược đầu tư theo hướng “kỹ thuật đi trước, kinh doanh theo sau” được xuất
phát từ quan điểm kinh doanh viễn thông là kinh doanh hạ tầng. Sản phẩm của viễn thông
chính là hạ tầng. Để đưa sản phẩm tới tay người dùng thì phải đầu tư lớn về hạ tầng.
Chính vì vậy, trong khi các công ty nước ngoài khác muốn có lãi ngay nên tính toán đầu tư
vào những nơi dễ có lợi, thì các doanh nghiệp Việt Nam nên đầu tư lâu dài vào hạ tầng cơ
sở, đi lắp đặt trạm tới tận vùng sâu vùng xa. Quan trọng hơn, trong kinh doanh viễn thông,
khi thị trường có mật độ thâm nhập dưới 50% thì còn cơ hội để thành công. Do vậy, cần
chiến lược đầu tư mạnh ồ ạt để trở thành nhà cung cấp lớn nhất trước khi thị trường bão
hoà.
Về vấn đề nhân lực mục tiêu tại các thị trường đang đầu tư là đem lại sự phát
triển bền vững cho quốc gia đó. Điều này được thể hiện ở các chương trình như hỗ trợ
xây dựng cầu mạng truyền hình hội nghị giúp chính phủ điều hành, và miễn phí Internet
trong mạng giáo dục điện tử... hay như các chương trình từ thiện xã hội, trợ giá viễn
thông cho người có thu nhập thấp đã nhận được sự ủng hộ của mọi thành phần, từ chính
phủ đến người dân.
Các công ty, tập đoàn viễn thông nên chủ trương cách làm là cử những chuyên gia
tốt nhất sang xây dựng bộ máy, đào tạo và chuyển giao tri thức. Mục tiêu cuối cùng là sau
3 năm triển khai, bộ máy đó phải được vận hành bởi chính những người địa phương, từ
kỹ thuật đến kinh doanh.Điều này khác với những nhà đầu tư khác, tập trung thuê các
chuyên gia nước ngoài đã có chuyên môn để đảm bảo công việc, thay vì đào tạo một lớp
nhân lực cấp cao cho chính đất nước đó.Cách làm này đã được người dân đánh giá cao, vì
những giá trị thực sự và sự chân thành mà nhà đầu tư Việt Nam đang mang đến cho đất
nước họ. Có được sự tin tưởng này thì sẽ nhận được sự yêu mến, tin tưởng và thu hút
được nhiều người tài.
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
KẾT LUẬN
Với sự hội nhập, toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ hiện nay, hoạt động đầu tư ra
nước ngoài của các doanh nghiệp viễn thông nói riêng và doanh nghiệp Việt Nam nói
chung được tạo điều kiện phát triển và có bệ phóng vô cùng vững chắc. Theo Quy hoạch
phát triển viễn thông quốc gia đến năm 2020 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt,
ngoài việc đảm đảm bảo thị trường viễn thông phát triển bền vững theo hướng chất
lượng, hiệu quả, còn có quy định về khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Hơn
4,4 tỷ USD đã được các doanh nghiệp Việt Nam đăng ký đầu tư ra nước ngoài trong năm
2013. Và kế hoạch mở thị trường mới vẫn đang tiếp tục, khi nhiều nhà đầu tư Việt đã nối
dài cánh tay ở thị trường ngoại.
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam ngày càng đón nhận
nhiều tín hiệu đáng mừng, vốn đầu tư dần đi tới những con số lớn. “Đây thực sự là những
con số rất có ý nghĩa”, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đào Quang Thu nói.Ông cũng
cho rằng, việc các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài đã góp phần khẳng định vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế. Trong khi đó, theo GS-TSKH. Nguyễn Mại, thì điều này cho
thấy, các doanh nghiệp Việt Nam đã trở nên “ mạnh hơn”. Từ một quốc gia chỉ biết nhận
- Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước ngoài – Cơ hội và thách thức
đầu tư, thậm chí là nhận đầu tư bằng mọi giá, doanh nghiệp Việt Nam đã vươn ra thị
trường quốc tế.
Tuy nhiên, đầu tư ra nước ngoài không phải là “cuộc chơi” đơn giản để “theo kịp
thời đại” hay bành trướng thanh thế, nó là câu chuyện của việc phát triển, duy trì s ự
trường tồn của các doanh nghiệp, tổ chức cũng như của đất nước. Do đó, công cuộc đầu
tư này luôn cần một chiến lược rõ ràng, cụ thể và khả thi với những “nước cờ” chắc
chắn, chính xác.
Sẽ là bổ ích nếu đề tài “ Doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài – Cơ hội và thách thức” được tiếp tục nghiên cứu theo chiều sâu. Việc nghiên cứu
này sẽ góp phần làm sáng tỏ những bất cập và chỉ ra những hướng đi đúng đ ắn cho ho ạt
động đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp nước ta hiện nay, đồng thời tìm ra nh ững
giải pháp thiết thực để lĩnh vực đầu tư quốc tế của nước ta phát triển vững chắc và mạnh
mẽ hơn./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Đầu tư Quốc tế đại học Ngoại Thương - PGS.TS. Vũ Chí Lộc;
2. Trang tin Cục đầu tư nước ngoài, Bộ Kế Hoạch và Đầu tư;
(http://fia.mpi.gov.vn/)
3. Cổng thông tin điện tử Bộ Công thương;
(http://fia.mpi.gov.vn/)
4. Trang tin chính thức tập đoàn viễn thông quân đội Viettel;
(http://www.viettel.com.vn/)
5. Trang tin chính thức tập đoàn FPT;
(http://www.fpt.com.vn/vn/)
nguon tai.lieu . vn