Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC -----------***----------- BÀI TẬP NHÓM MÔN : PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH KINH TẾ Đề bài : Câu 1: Chính sách tiền tệ: Mục tiêu, nội dung, giải pháp hoàn thiện Câu 2: Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay NHÓM 9 – CH21D 1. Lê Thị Thanh 2. Nguyễn Phương Thanh 3. Chu Diệp Thu 4. Đỗ Thị Thu Thủy 5. Đặng Thùy Trang 6. Hồ Quỳnh Trang Hà Nội, 06/2013
  2. Câu I – Chính sách tiền tệ: Mục tiêu, nội dung, giải pháp hoàn thiện Câu I: Chính sách tiền tệ: Mục tiêu, nội dung, giải pháp hoàn thiện I. Mục tiêu của Chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ (CSTT) là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Chính sách tiền tệ có thể được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa thông thường. Theo nghĩa rộng thì chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến 4 mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt được mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hoá. Theo nghĩa thông thường là chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kỳ tới (thường là một năm) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, tất nhiên cũng nhằm ổn định tiền tệ và ổn định giá cả hàng hoá. Là một chính sách kinh tế, chính sách tiền tệ theo đuổi những mục tiêu chung là:  Tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế xảy ra khi tỉ lệ gia tăng tổng sản phẩm quốc dân GDP lớn hơn nhịp độ gia tăng dân số. Khi khối lượng tiền tệ tăng lên, lãi suất tín dụng thường giảm xuống, đồng tiền “rẻ” đi sẽ kích thích đầu tư, phát triển tổng sản phẩm quốc dân, tăng tổng cầu, phát triển sức mua thị trường, giảm hàng hóa tồn đọng, kích thích gia tăng sản xuất. Ngược lại khi khối lượng tiền tệ giảm, lãi suất sẽ tăng, làm giảm đầu tư, dẫn đến làm giảm tổng sản phẩm quốc dân. Chính sách có thể đặc biệt nhằm vào việc khuyến khích tăng trưởng kinh tế bằng cách mở rộng hoặc thắt chặt khối lượng tiền tệ cung ứng; trực tiếp khuyến khích các nhà đầu tư hoặc khuyến khích nhân dân tiết kiệm tạo thêm nguồn vốn giúp cho các doanh nghiệp tiếp tục đầu tư và mở rộng sản xuất.  Kiềm chế lạm phát Kiềm chế lạm phát, ổn định giá ở thị trường đối nội và đối ngoại của đồng tiền là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. Kiểm soát lạm phát nhằm ổn định giá cả hàng hóa là tiền đề để phát triển kinh tế và cải thiện đời sống.  Tạo công ăn việc làm Thất nghiệp là căn bệnh kinh niên của nền kinh tế thị trường. Chính sách tiền tệ hướng vào việc tạo công ăn việc làm nhiều hơn thông qua mở rộng đầu tư, mở rộng sản CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 2
  3. Câu I – Chính sách tiền tệ: Mục tiêu, nội dung, giải pháp hoàn thiện xuất – kinh doanh. Muốn thực hiện mục tiêu này phải chống suy thoái kinh tế, kéo dài chu kì của các cuộc khủng hoảng thông qua việc điều tiết khối lượng tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế quốc dân.  Ổn định thị trường tài chính Tạo một nền tảng tài chính ổn định để hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng có thể hoạt động hiệu quả và hỗ trợ tốt honư cho tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát thấp cũng như hạn chế những khuyết tật của hệ thống tài chính là mục tiêu chủ đạo của chính sách tiền tệ ngoài những mục tiêu nói trên. Nền tảng của hệ thống tài chính ổn định thông qua chính sách tiền tệ là Ngân hàng Trung ương phải ổn định hoạt động tài chính của hệ thống tài chính trong nước một cách gián tiếp kể cả thu thập thông tin, hướng dẫn, ngăn ngừa rủi ro của nó phù hợp với các mục tiêu của nền kinh tế.  Điều tiết sản xuất kinh doanh mở rộng sản lượng tiềm năng nền kinh tế Trong mỗi quốc gia sản lượng tiềm năng phụ thuộc vào các biến số như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người, tiềm năng khoa học - kỹ thuật và vốn. Nền kinh tế có giới hạn tối đa và khả năng sản xuất nên mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là phải góp phần khai thác và phát triển các nguồn lực nói trên một cách có hiệu quả nhất. Để làm được điều đó chính sách cung ứng tiền ngày càng phải linh động, chính xác, hiệu quả trong quản lý và điều tiết lưu lượng tiền tệ trong nền kinh tế. II. Nội dung của chính sách tiền tệ 2.1. Những thành phần cơ bản của chính sách tiền tệ 2.1.1. Chính sách điều tiết khối lượng tiền cung ứng Ngân hàng Nhà nước duy trì mối tương quan hợp lý giữa tổng cung và tổng cầu về tiền tệ, giữa hàng và tiền bằng cách giữ nguyên hoặc tăng, giảm khối lượng tiền tệ cung ứng. Nếu nền kinh tế hàng năm vẫn tăng trưởng thì khối lượng tiền tệ cung ứng phải bằng mức tăng trưởng kinh tế. Nếu có lạm phát mà chưa kiềm chế được thì khối lượng tiền tệ cung ứng phải tăng thêm bằng tỉ lệ lạm phát đã được kiểm chế. Trong điều kiện có số lướng tương đối lớn ngoại tệ nằm trong tay những người cư trú cần được tính vào khối lượng tiền tệ có sẵn và sẽ tăng thêm. Khi kiểm soát khối lượng tiền tệ cung ứng còn phải xem xét đến tốc độ luân chuyển của tiền tệ. Thành phần khối lượng tiền tệ cung ứng gồm có: tiền lưu thông ngoài ngân hàng và tiền gửi có kì hạn tại ngân hàng, các loại tiền gửi ở các định chế tài chính khác. Khối lượng tiền tệ cung ứng thêm hàng năm, về một phía gồm tiền mặt và các loại tiền gửi ở CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 3
  4. Câu I – Chính sách tiền tệ: Mục tiêu, nội dung, giải pháp hoàn thiện ngân hàng, và phía khác nhằm dành cho các nhu cầu đầu tư tín dụng nền kinh tế, tăng dự trữ ngọai hối và tạm ứng cho ngân sách nhà nước nếu cần. Khối lượng tiền cung ứng thêm chỉ là một chỉ tiêu định hướng. Điều quan trọng là cần theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, biến động giá cả và tỉ giá hối đoái để điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền tệ, tăng thêm hoặc giảm đi không dẫn đến tình trạng làm tăng giá cả và gây ách tắc lưu thông. Việc điều chỉnh khối lượng tiền tệ cung ứng cần được thực hiện từ gốc, từ các kênh tạo ra tiền thông qua các chính sách tín dụng và ngoại hối. 2.1.2. Chính sách tín dụng cho nền kinh tế Khối lượng tín dụng ngân hàng cung ứng cho các doanh nghiệp là từ 2 nguồn: huy động tiền đã có sẵn trong lưu thông để cho vay và sử dụng tiền trung ương trong quá trình tái cấp vốn. Ở các nước có hệ thống ngân hàng phát triển, thị trường nhạy cảm, người ta nặng về sử dụng lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở để điều tiết tín dụng và mức tăng giảm khối lượng tiền tệ cung ứng. Còn ở nước ta hiện nay bên cạnh những biện pháp kể trên vẫn còn sử dụng công cụ để khống chế hạn mức tín dụng. Từ khối lượng tiền tệ có thể cung ứng thêm Ngân hàng Nhà nước sẽ dành chủ yếu cho hoạt động tín dụng phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế, có tính đến tỉ lệ lạm phát được kiềm chế trong một thời kì nhất định. Khối lượng tiền tệ tăng thêm qua tín dụng ngân hàng trước hết được hình thành từ nhu cầu thực sự của thị trường tiền tệ, quan hệ vay vốn giữa các doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại. Ở đây Ngân hàng Nhà nước luôn là người cho vay cuối cùng đóng vai trò chủ nợ nhằm kiểm soát được tín dụng các nguồn tiền gửi của ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng theo các định hướng cụ thể sau: Thực hiện chính sách đa dạng hóa các thành phần của khối lượng tiền tệ cung ứng nhằm tăng thêm tần kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước, tích cực kiềm chế lạm phát và tăng nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế; Thay lãi suất thực âm bằng lãi suất thực dương, để thay chính sách tiền tệ làm xói mòn nguồn vốn bằng chính sách tiền tệ mở rộng nguồn vốn; Thay chính sách tiền tệ ngân hàng thụ động phục vụ khách hàng bằng chính sách tiền tệ ngân hàng chủ động điều khiển khách hàng. 2.1.3. Chính sách ngoại hối CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 4
  5. Câu I – Chính sách tiền tệ: Mục tiêu, nội dung, giải pháp hoàn thiện Để ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia, Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ giao dịch về tài chính và tiền tệ đối ngoại nhằm kiểm soát những yếu tố tác động mạnh tới khối lượng tiền tệ cung ứng và giá trị đồng tiền trong nước. Cụ thể gồm chính sách hối đoái, dự trữ ngoại hối, tỉ giá hối đoái, thị trường hối đoái. 2.1.4. Chính sách tạm ứng cho Ngân sách Nhà nước Chính sách tiền tệ muốn có tác dụng mong muốn phải giải quyết tốt mối quan hệ với chính sách tài chính. Tình hình ngân sách cân bằng hoặc không cân bằng sẽ ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến lưu thông tiền tệ, do vậy mà cách xử lý của chính sách tiền tệ cũng khác nhau. Trường hợp ngân sách cân bằng, chính phủ có thể sử dụng thuế để thay đổi cơ cấu tiêu dùng và tiết kiệm. Nếu chính phủ dùng số thuế thu được để trợ cấp cho những người có thu nhập thấp, thì số tiêu dùng tăng lên, số đầu tư giảm, có thể làm tăng vật giá. Nếu chính phủ dùng số chi ngân sách để đầu tư thì đầu tư tư nhân giảm, đầu tư nhà nước tăng, đầu tư chung không đổi. Trường hợp ngân sách thâm hụt, chính phủ có thể đi vay. Vay của Ngân hàng Trung ương và vay của nước ngoài sẽ làm tăng mạnh khối lượng tiền tệ, gây sức ép lạm phát tiềm tàng về sau. Vay dân cư và vay ngân hàng thương mại trong nước làm tăng khối lượng tiền tệ nhưng nguy cơ dẫn đến lạm phát nhẹ hơn. 2.2. Các công cụ cơ bản của chính sách tiền tệ 2.2.1. Tái cấp vốn để cung ứng tiền tệ trung ương thông qua tái chiết khấu Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng có bảo đảm của NHNN nhằm cung ứng vốn ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho các ngân hàng. Như vậy, tái cấp vốn là biện pháp để NHNN đưa tiền tệ ra lưu thông, đồng thời khống chế số lượng và chất lượng tín dụng của các ngân hàng trung gian. Thông qua việc cung cấp tín dụng NHNN tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy toàn bộ hệ thống cho các ngân hàng trung gian tạo ra tiền và khai thông khả năng thanh toán của họ. Tái chiết khấu có nghĩa là một phần các khoản vay của các NHTM có thể được đổi trực tiếp lấy dự trữ trong ngân hàng trung ương. Tái tài trợ và tái chiết khấu tạo ra những khuyến khích cho NHTM đưa tín dụng vào trong lĩnh vực được lựa chọn theo hai cách: một là những khoản tiền cho vay với lãi suất thấp hơn mức lãi suất tiền gửi mà Ngân hàng phải trả, hai là khả năng tiếp cận được với nguồn dự trữ cho phép ngân hàng tăng thêm các khoản cho vay của mình.Cái khó của các hình thức này là chúng không có điểm kết và cũng có nghĩa là sự kiểm soát đối với lượng tiền dự trữ đã bị nới lỏng. Nếu không CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 5
  6. Câu I – Chính sách tiền tệ: Mục tiêu, nội dung, giải pháp hoàn thiện có một cơ cấu thị trường mở trung hòa hiệu ứng của tái tài trợ thì có thể mất đi sự kiểm soát đối với khối lượng tiền tệ. Các Ngân hàng trung gian tìm đến NHNN xin tái cấp vốn(vay) bằng cách xin tái chiết khấu, thương phiếu và các giấy tờ có giá khác nhau mà mình đã chiết khấu(cho vay) trước đó. Tùy theo yêu cầu mở rộng hay thắt chặt tín dụng, tái cấp vốn bình thường hoặc mang tính chất hình phạt mà lãi suất chiết khấu có thể bằng, thấp hoặc cao hơn mức lãi suất khoản tín dụng mà NHTM đã cho khách hàng của mình vay. Lãi suất cho vay chiết khấu có cả hai tác dụng: gián tiếp và trực tiếp. Tác dụng gián tiếp là nó làm tăng, giảm lãi suất cho vay của ngân hàng trung gian và do đó tác động đến cung ứng tiền và tín dụng. Tác động trực tiếp là nó làm tăng hoặc giảm dự trữ của ngân hàng trung gian và do vậy tác động đến lượng cho vay tiêu dùng và đầu tư trong nền kinh tế. Bằng công cụ tái cấp vốn, NHNN là người cho vay sau cùng, kiểm tra chất lượng hoạt động tín dụng của các NHTM, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã được khống chế để kiềm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Tái cấp vốn là hình thức phát hành tiền tệ lành mạnh vì nó dựa trên những thương phiếu dặc trưng cho những món nợ về thương mại mà đằng sau đó có vật tư, hàng hóa bảo đảm. NHNN với tư cách người cho vay sau cùng, là chỗ dựa, là cứu tinh cho của các NHTM vì có tiền tệ vừa được NHNN cung ứng họ có thể điều tiết được vốn khả dụng và phục hồi khả năng thanh toán. 2.2.2. Tỉ lệ dự trữ bắt buộc Tỉ lệ dự trữ bắt buộc là hệ số giữa lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các NHTM. Nếu khả năng thanh toán quá lớn thì tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm quy mô tín dụng của họ. Ngược lại, nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng quy mô tín dụng của họ. Tiền dự trữ bắt buộc = Tỉ lệ dự trữ bắt buộc x Tổng số tiền gửi nhận được Dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại NHNN để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Khi một tỉ lệ dự trữ bắt buộc đang có hiệu lực các NHTM có thể giữ khối lượng tiền mặt cao hơn mức dự trữ tiền mặt bắt buộc nhưng không được giữ ít hơn. Nếu khối lượng tiền mặt của họ giảm xuống thấp hơn mức bắt buộc họ phải vay tiền mặt ngay, thường là vay của NH trung ương để khôi phục lại tỉ lệ dự trữ bắt buộc của họ. CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 6
  7. Câu I – Chính sách tiền tệ: Mục tiêu, nội dung, giải pháp hoàn thiện Với công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc NHNN có thể kiểm soát được khối lượng tiền tệ cung ứng thêm và khối lượng tiền tệ đã có từ tước trong lưu thông, tác động đến khối lượng và giá cả tín dụng của NHTM. Nhược điểm của yêu cầu dự trữ bắt buộc để tác động vào cung ứng tiền tệ là nhu cầu dự trữ bắt buộc làm giảm tiềm năng cho vay của các NHTM và một khi hệ thống Ngân hàng vẫn có những quyết định phân bổ thì biện pháp này còn để chết một phần tài sản của ngân hàng dưới dạng dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, trong một hệ thống ngân hàng tư nhân, nếu NH trung ương không làm cho phần dự trữ bắt buộc mà mình lưu giữ sinh lời thì những thay đổi về yêu cầu dự trữ bắt buộc có thể làm ảnh hưởng đến khả năng lợi nhuận của các NHTM. 2.2.3. Lãi suất tín dụng Hạn mức tín dụng và dữ trữ tối thiểu bắt buộc là các công cụ điều chỉnh nặng về số lượng và trực tiếp, chúng không phải bao giờ cũng kiểm soát được các biến động liên tục về giá cả, hiệu quả sản xuất và hiệu lực kinh doanh trên thị trường vốn. Trong trường hợp các hoạt động kinh tế đã tinh vi và nhạy cảm người ta thường tăng cường sử dụng lãi suất tín dụng làm công cụ chủ yếu để điều chỉnh gián tiếp cung cầu tín dụng. Nói chung lãi suất tiền gửi và tiền vay biến động cùng chiều. Chính sách lãi suất vận hành theo nguyên tắc: lãi suất thực phải bằng lợi nhuận bình quân hoặc xấp xỉ bằng mức tăng tổng sản phẩm quốc nội; lãi suất danh nghĩa phải bằng lãi suất thực cộng với tỉ lệ lạm phát; lãi suất huy động vốn danh nghĩa phải cao hơn tỉ lệ lạm phát; lãi suất cho vay trung bình phải cao hơn lãi suất huy động trung bình; lãi suất ngắn hạn phải thấp hơn lãi suất dài hạn. Chính sách lãi suất được vận hành theo cách ấn định lãi suất hoặc thả nổi lãi suất. Để tránh rủi ro của các NHTM, NHNN thường ấn định mức lãi suất “sàn” tối đa cho tiền gửi và lãi suất “trần” tối thiểu cho tiền vay. Khi đứng về phía bảo vệ lợi ích của NHTM, NHNN thường quy định ngược lại. Để tăng tính linh hoạt của tiền tệ, nhiều nước từ bỏ biện pháp ấn định khung lãi suất cứng nhắc, chuyển sang thả nổi lãi suất trên thị trường tiền tệ. Như vậy bằng việc theo dõi các hạng mục tài sản khác nhau của hệ thống NH trung gian, NH trung ương gián tiếp thay đổi lưu thông lượng cấp phát tín dụng tiêu dùng, đầu tư từ ngắn hạn sang trung hạn hoặc ngược lại. Từ đó gián tiếp điều tiết cung ứng tiền và nền kinh tế. CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 7
  8. Câu I – Chính sách tiền tệ: Mục tiêu, nội dung, giải pháp hoàn thiện 2.2.4. Nghiệp vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua, bán các giấy tờ có giá ngắn hạn do NHNN thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất bởi vì những nghiệp vụ này là yếu tố quyết định quan trọng đối với những thay đổi trong cơ số tiền tệ và là nguồn chính gây nên những biến động trong cung ứng tiền tệ. Thông qua nghiệp vụ thị trường mở, NHNN mua hoặc bán tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu ngân hàng nhà nước và các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác trên thị trường tiền tệ nhằm tác động vào mức dự trữ trong hệ thống ngân hàng. Điều đó làm thay đổi lượng tiền gửi vào ngân hàng và vì thế ảnh hưởng đến lượng tiền tệ. 2.2.5. Cung ứng cơ số tiền hoặc tiền mặt pháp định NHNN có thể trực tiếp làm tăng, giảm cơ số tiền tệ, tức là làm tăng giảm dự trữ và cung ứng tiền bằng các nghiệp vụ trên thị trường ngoại tệ và nghiệp vụ cho vay với chính phủ. Toàn bộ lượng tiền mặt mà NHNN đã phát hành vào thời điểm nhất định nào đó trong nền kinh tế được gọi là tiền ngoài lưu thông hay cơ số tiền tệ. Cơ số tiền tệ là hạt nhân của hệ thống tiền tệ. Thông qua việc điều tiết cơ số tiền tệ và vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, NHNN trong khuôn khổ chính sách tiền tệ của mình sẽ thực hiện chức năng quản lý khối lượng tiền tác động đến sản lượng và tăng trưởng kinh tế, mức giá, môi trường kinh doanh và các quá trình kinh tế khác. Khả năng tín dụng (tạo tiền) của các tổ chức tín dụng phụ thuộc nhiều vào hành vi của NHNN thông qua việc mua bán chứng khoán Chính phủ và ngoại hối, tạm ứng cho ngân hàng nhà nước, thay đổi mức lãi suất tái cấp vốn và dự trữ bắt buộc mà NHNN có thể mở rộng hoặc thu hẹp cơ số tiền. III. Các giải pháp để hoàn thiện nội dung của Chính sách tiền tệ Trong quá trình vận hành và ứng dụng CSTT để đáp ứng mục tiêu của từng giai đoạn kinh tế cụ thể, CSTT đã có nhiều đóng góp tích cực, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được với nhịp độ đổi mới chung của nền kinh tế và còn tồn tại nhiều hạn chế. Vì vậy, để hoàn thiện nội dung của CSTT, nhóm 9 đưa ra một số các giải pháp như sau: 3.1. Giải pháp chung 3.1.1. Tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để thực thi chính sách tiền tệ CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 8
  9. Câu I – Chính sách tiền tệ: Mục tiêu, nội dung, giải pháp hoàn thiện - Thị trường liên ngân hàng và thị trường tiền tệ cần phải được củng cố và phát triển theo hướng cơ cấu lại hệ thống NH, minh bạch hóa các thông tin, tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh sôi động để có thể phát huy có hiệu quả ở mức tối đa của CSTT. - Hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng, tài chính để có cơ chế thực thi CSTT nói chung và các công cụ CSTT được minh bạch và có hiệu quả. Theo đó cần khẩn trương hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống các văn bản pháp quy để có đủ khuôn khổ pháp lý cần thiết cho việc thực hiện tốt luật NHNN và luật các TCTD, bảo đảm cho hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu lực, hiệu quả, năng động, an toàn. 3.1.2. Nâng cao vai trò và trách nhiệm của NHNN - NHNN là đơn vị chủ quản cũng như điều hành vận hành CSTT vì vậy bản thân NHNN cũng phải không ngừng nâng cao năng lực, chuyên môn để có thể có những quyết định và vận hành CSTT một cách hiệu quả. - Ngoài ra cần phải nâng cao tính độc lập, trách nhiệm cho NHNN sao cho phù hợp với mức độ hội nhập tài chính thế giới và phù hợp với thể chế chính trị tại Việt Nam. Hiện nay CSTT do NHNN thực hiện tuy nhiên để có thể vận hành CS có sự tham gia của rất nhiều bộ ban ngành vì vậy CSTT còn gặp nhiều khó khăn trong quá trình đi vào thực tiễn. Theo đó cần sửa đổi, bổ sung luật NHNN theo hướng trao thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho NHNN trong việc xây dựng CSTT, chủ động trong việc xắp xếp cơ cấu tổ chức nhân sự; hiện đại hóa công nghệ trong việc quản lý tổng hợp, thống kê, phân tích, dự báo… trong việc phục vụ điều hành CSTT. Và NHNN phải chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện trước Quốc Hội hoặc Chính Phủ. 3.1.3. Việc hoạch định CSTT và các công cụ của chính sách cần đặt trong một chỉnh thể thống nhất có sự linh hoạt của thị trường. Để CSTT thực sự có hiệu quả cần phải đặt nó trong tổng thể với các chính sách kinh tế khác, đặc biệt là chính sách tài khoá. Đây là 2 chính sách cơ bản trong CSTC, bổ sung và hỗ trợ cho nhau. Một ví dụ điển hình là từ năm 2006 – 2008 khi mà dòng vốn nước ngoài ồ ạt chảy vào Việt Nam (năm 2006 VN thực hiện gia nhập WTO). Nếu không kiểm soát tốt dòng vốn chảy vào này sẽ gây ra lạm phát cao. Do đó CSTT thời kỳ này là CSTT với mục tiêu cụ thể là chống lạm phát. CP đã đưa ra các quy định trong việc kiểm soát lượng vốn chảy CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 9
  10. Câu I – Chính sách tiền tệ: Mục tiêu, nội dung, giải pháp hoàn thiện vào Việt Nam: đánh thuế hoặc kỹ quỹ đối vơi dòng vốn ngắn hạn. Tất nhiên chính sách này sẽ chỉ có hiệu lực trong một thời gian ngắn, phù hợp với tình hình nguồn vốn. Hiện nay, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam và thế giới sụt giảm thì việc điều hành CSTT trong quan hệ với chính sách tài chính… nhằm mục tiêu góp phần ngăn chặn nguy cơ sụt giảm nền kinh tế trong nước nhưng đồng thời kiểm soát được lạm phát. 3.2. Giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ Để CSTT thực sự phát huy tác dụng trong việc điều tiết nền kinh tế vĩ mô, một trong những giải pháp quan trọng đó chính là hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của các công cụ CSTT làm sao cho các công cụ này có thể hỗ trợ, phối hợp thúc đẩy lẫn nhau, tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả cụ thể của nhau. Cụ thể:  Đối với công cụ hạn mức tín dụng: Đây không phải là công cụ thường xuyên được sử dụng trong CSTT tuy nhiên NHNN cũng luôn phải theo dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở từng giai đoạn cụ thể. Tránh để trường hợp mức dư nợ quá lớn so với quy mô hoạt động của ngân hàng, giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu.  Đối với công cụ lãi suất: Việc điều chỉnh lãi suất (tiền vay, tiền gửi) cần phải linh hoạt, theo sát thị trường trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích người gửi tiền, tổ chức tín dụng và người vay tiền; tạo điều kiện tập trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế. Việc căn cứ điều chỉnh lãi suất một cách phù hợp phải căn cứ vào các nhân tố cơ bản như: sự biến động của quan hệ cung cầu; vốn đầu tư; mức độ lạm phát; diễn biến lãi suất trên thị trường; kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp….  Đối với công cụ dự trữ bắt buộc: Điều hành công cụ dự trữ bắt buộc cần phải chủ động, linh hoạt theo diễn biến của thị trường nhằm kiểm soát tiền tệ. Mặt khác tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng sử dụng vốn khả dụng linh hoạt và hiệu quả. Trong điều kiện kiềm chế lạm phát (sử dụng CSTT thắt chặt) như trong năm 2007 – 2008 NHNN tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng từ 5% lên 10% và lên 11% là phù hợp. Tuy nhiên nếu tỷ lệ dữ trự trên tiếp tục tăng cao sẽ tạo hiệu ứng ngược, các tổ chức tín dụng sẽ gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh do chủ yếu tích trữ vốn để đáp ứng theo yêu cầu tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNH. Thêm vào đó, khi thực hiện tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc => nên tăng từ từ để các tổ chức tín dụng có tư tưởng, kế CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 10
  11. Câu I – Chính sách tiền tệ: Mục tiêu, nội dung, giải pháp hoàn thiện hoạch cho việc chuẩn bị nguồn vốn đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định. Không nên thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá nhanh => Gây ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của các TCTD.  Đối với nghiệp vụ trên thị trường mở: Để các công cụ trên thị trường mở sự có hiệu quả thì cần phải xây dựng một thị trường giao dịch đồng bộ về cách thức hoạt động, thống nhất về các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Đặc biệt, cùng với xu thế phát triển kinh tế như hiện nay cần mở rộng quy mô hoạt động của thị trường mở bằng cách: kết nạp thêm thành viên tham gia trên thị trường mở; đa dạng hóa hàng hóa giao dịch trên thị trường mở nhằm đáp ứng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng; nâng cao vai trò điều tiết hướng dẫn của NHNN trên thị trường. Tạo các điều kiện và thúc đẩy sự phát triển của thị trường liên ngân hàng; thị trường đầu thaùa tín phiếu kho bạc và thúc đẩy sự phát triển của thị trường mua bán lại giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng. Sự phát triển của thị trường sẽ là kênh dẫn có hiệu quả trong cơ chế truyền tải các tác động của chính sách tiền tệ trong nền kinh tế.  Đối với chính sách tỷ giá hối đoái: Điều hành chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt trên thị trường; phù hợp với lãi suất có sự kiểm soát của Nhà nước nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô. Một số các biện pháp như: kiểm soát xuất nhập khẩu (tăng hoặc giảm thuế xuất nhập khẩu); khuyến khích đầu tư nước ngoài vào VN (có các chính sách ưu đãi với nhà đầu tư nước ngoài; nới lỏng luật đầu tư….); tạo điều kiện quản lý và thu hút nguồn ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng; Nâng cao quỹ trữ ngoại tệ của Nhà nước. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp áp dụng các công cụ phòng ngừa, bảo hiểm rủi ro tỷ giá. CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 11
  12. Câu II – Đánh giá tác động của CSTT đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay Câu II: Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay Việt Nam bước vào giai đoạn 2011-2013 trong bối cảnh nền kinh tế trong nước đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Lạm phát của thế giới có xu hướng tăng lên, trong đó giá dầu thô, giá nguyên vật liệu cơ bản (đầu vào của sản xuất), giá lương thực, và thực phẩm trên thế giới tăng cao. Trong khi đó, vào năm 2011, giá cả trong nước tăng cao, áp lực lạm phát ngày càng tăng lên do nhiều nguyên nhân nội tại của nền kinh tế tích lũy từ trước đến nay và chính sách nới lỏng tiền tệ để ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng trong thời gian 2008-2010, làm tăng nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta. Nghị quyết Hội nghị T.Ư 3 (khóa XI) tháng 10-2011 đã xác định giai đoạn 2011- 2015, ưu tiên hàng đầu của kinh tế Việt Nam là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội đi đôi với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Cùng với sự điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã đổi mới quan điểm, điều chỉnh mục tiêu chính sách tiền tệ thực hiện các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội về phát triển kinh tế xã hội, tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, thể hiện rõ trong các nghị quyết của Chính phủ 2011-2012. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ban hành các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện CSTT, điều hành nhất quán, kiên định theo các định hướng mục tiêu của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và nhiệm vụ đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD). Thời kỳ 1997-2010, theo quy định của Luật NHNN 1997, quy định rõ quan điểm CSTT đa mục tiêu: ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống xã hội. Thời kỳ 2011-2012, Luật NHNN 2010, có hiệu lực từ 1/1/2011, chỉ quy định một mục tiêu của CSTT, đó là: ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát. Theo luật NHNN 2010, thì mục tiêu cao nhất, mục tiêu cuối cùng của CSTT của Việt Nam hiện nay là: Ổn định giá trị đồng tiền. Đây là sự đổi mới, hoàn thiện đúng hướng của CSTT ở Việt Nam, theo hướng CSTT đơn mục tiêu, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 12
  13. Câu II – Đánh giá tác động của CSTT đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay Công cụ của CSTT là hệ thống các biện pháp mà NHNN có thể sử dụng để điều chỉnh, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới mức cung cầu tiền tệ, nhằm đạt được mục tiêu cao nhất của CSTT đã đề ra. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ đã được NHNN sử dụng chủ yếu trong thời gian qua bao gồm: lãi suất, tái cấp vốn, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, kiểm soát hạn mức tín dụng, … Tác động của CSTT đối với nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay được thể hiện cụ thể qua các công cụ của CSTT như sau: I. Chính sách tiền tệ năm 2011 – 2012 1.1. Công cụ lãi suất Lãi suất là một trong những công cụ gián tiếp để điều hành CSTT, NHNN thông qua công cụ này để điều khiển mức cung tiền cho nền kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền của quốc gia. Chính sách, cơ chế điều hành lãi suất của NHNN được định hướng theo nguyên tắc đảm bảo các mục tiêu của CSTT: kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Theo cơ chế điều hành lãi suất hiện nay, NHNN trực tiếp quyết định các mức lãi suất như: Lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất OMO, trần lãi suất huy động ngắn hạn và trần lãi suất cho vay ngắn hạn thuộc 4 đối tượng ưu tiên đối với nền kinh tế của các TCTD. Các TCTD được quy định lãi suất thỏa thuận đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên; lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các đối tượng khác ngoài 4 đối tượng ưu tiên; lãi suất cho vay trung dài hạn cho tất cả các đối tượng khách hàng. 1.1.1. Một số chuyển biến tích cực của cơ chế điều hành lãi suất 2011-2012:  Cơ chế điều hành các loại lãi suất năm 2012 được điều chỉnh linh hoạt, hợp lý và đồng bộ hơn so với 2011, phát huy được vai trò Ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng. Từ tháng 6/2011 đến nay, các lãi suất chủ chốt của NHNN được điều hành theo cơ chế: “trần” là lãi suất tái cấp vốn, “sàn” là lãi suất chiết khấu, biên độ giao động +/- 2% để điều tiết thị trường, lãi suất cơ bản và lãi suất thị trường mở được ấn định biến động trong biên độ giữa lãi suất tái cấp vốn (trần) và lãi suất chiết khấu (sàn). Các lãi suất điều hành của NHNN và lãi suất huy động vốn của NHTM được điều chỉnh giảm xuống theo xu hướng giảm thấp của CPI (3/2012-10/2012), đảm bảo nguyên CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 13
  14. Câu II – Đánh giá tác động của CSTT đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay tắc thực dương, nguồn vốn huy động 10 tháng tăng +14.2%, thanh khoản của hệ thống Ngân hàng được cải thiện bằng nguồn vốn hút vào từ nền kinh tế chứ không phải từ nguồn tái cấp vốn như năm 2011. Từ tháng 6/2011-10/2012: Mối quan hệ giữa các loại lãi suất được điều chỉnh hợp lý hơn thời kỳ trước đó, theo nguyên tắc: Lãi suất tái chiết khấu< lãi suất huy động vốn dưới 12 tháng < lãi suất tái cấp vốn; “sàn” là lãi suất tái chiết khấu; “Trần” là lãi suất tái cấp vốn; Biên độ 1-2%, lãi suất huy động vốn của TCTD biến động trong biên độ nói trên. Sự đổi mới cơ chế lãi suất lãi suất nói trên đã khuyến khích các TCTD huy động vốn từ nền kinh tế, hạn chế vay vốn từ NHNN, không còn cơ hội cho các TCTD lợi dụng vay tái cấp vốn của NHNN để cho vay lại trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao để hưởng chênh lệch lãi suất lớn.  Lãi suất huy động và cho vay của TCTD 2012 giảm hơn nhiều so với 2011, đặc biệt là chính sách cho vay lãi suất thấp hơn các đối tượng khác đối với 4 đối tượng sản xuất kinh doanh được ưu tiên, là quyết định đúng đắn, kịp thời; tác động tích cực đến giảm chi phí vay vốn cho doanh nghiệp, hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng. So với cuối năm 2011, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng giảm được 6%/năm (14%/năm xuống 8%/năm), lãi suất cho vay 4 đối tương ưu đãi giảm được 4%- 5%/năm (16-17%/năm xuống 12%/năm). Hiện nay, lãi suất cho vay phổ biến đối với 4 lĩnh vực ưu tiên: nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ ở mức 11-12%/năm; cho vay lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác ở mức 14-17%/năm. Đặc biệt, lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh 8-9%/năm so với đầu năm 2012, thị trường tiền tệ đã có sự cải thiện tích cực hơn nhiều so với năm 2011.  Cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với lãi suất huy động vốn trên 12 tháng và lãi suất cho vay trung dài hạn là bước đi phù hợp, tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc thương mại và thị trường. Cơ chế lãi suất huy động lãi suất thỏa thuận được thực hiện theo Thông tư 19/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012: “Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng trở lên do TCTD ấn định trên cơ sở cung cầu vốn thị trường”. CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 14
  15. Câu II – Đánh giá tác động của CSTT đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay Lãi suất cho vay thỏa thuận được thực hiện từ 14/4/2010 theo Thông tư số 12/2010/TT-NHNN vàthông tư 14/2012/TT-NHNN từ ngày 4/5/2012. Đối với các khoản cho vay ngoài 4 lĩnh vực ưu tiên TCTD cho vay theo lãi suất thỏa thuận. Đồ thị 1: CPI và các loại lãi suất 1.1.2. Một số vấn đề cần nghiên cứu hoàn thiện trong cơ chế điều hành lãi suất 2011- 2012 :  Duy trì quá lâu cơ chế điều hành trực tiếp lãi suất lãi suất huy động vốn và cho vay của các TCTD, làm cho các mức lãi suất kinh doanh của TCTD không phù hợp với cung cầu vốn tín dụng trên thị trường và giảm tác dụng của các công cụ lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất OMO, công cụ dự trữ bắt buộc. NHNN có nhiều giải pháp và công cụ gián tiếp để tác động điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các TCTD. Cụ thể, khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các TCTD đối với nền kinh tế, NHNN sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh các mức lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu đối với TCTD. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường liên ngân hàng. Cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của các TCTD đối với khách hàng. Nếu NHNN trực tiếp quyết định cả mức lãi suất cho vay và huy động vốn của các TCTD thì công cụ lãi suất điều hành của NHNN sẽ không phát huy hết tác dụng. Trên thực tế, trong suốt thời kỳ 2011-2012, NHNN quyết định trực tiếp các mức lãi lãi suất huy động cho vay của TCTD đối với khách hang đối với từng kỳ hạn và đối CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 15
  16. Câu II – Đánh giá tác động của CSTT đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay tượng khách hàng (trừ lãi suất huy động trên 12 tháng theo Thông tư 19/2012/TT-NHNN ngày 8/6/2012 và lãi suất cho vay thỏa thuận theo Thông tư số 12/2010/TT-NHNN và Thông tư 14/2012/TT-NHNN ngày 4/5/2012); Cơ chế điều hành trực tiếp quyết các mức lãi suất kinh doanh của các TCTD đã làm vô hiệu hóa các mức lãi suất điều hành chủ chốt của NHNN (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu).  Lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam theo quy định pháp luật hiện hành là lãi suất thực hiện vai trò định hướng thị trường tiền tệ, nhưng hiện nay chỉ mang tính hình thức, chưa trở thành lãi suất cơ sở, chuẩn mực để định hướng cho các loại lãi suất khác trên thị trường. Vì thế làm tăng rủi ro pháp lý trong hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng và các quan hệ dân sự khi có phát sinh tố tụng. Luật dân sự 2005 quy định các TCTD không được phép huy động và cho vay với lãi suất cao hơn 150% mức lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Luật NHNN số 46/2010/QH12 “Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi”. Trên thực tế, lãi suất cơ bản hiện nay là lãi suất mang tính hình thức, không có cơ sở kinh tế và không liên quan đến bất kỳ quan hệ cung cầu vốn trên các thị trường.  Vai trò định hướng và tác động của các loại lãi suất điều hành của NHNN (lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu, OMO) đến lãi suất thị trường rất hạn chế. Một trong những nguyên nhân chủ yều là phương pháp xác định các loại lãi suất trên còn bất cập, không dựa trên cơ sở lãi suất cơ bản là lãi suất chuẩn; cơ chế điều hành cụ thể các loại lãi suất chưa được ban hành rõ ràng. Thực tế trong thời gian qua, NHNN chưa ban hành được cơ chế điều hành và phương pháp xác định cụ thể từng loại lãi suất trên. Khi quyết định các loạilãi suất chủ yếu dựa vào diễn biến số liệu báo cáo thực hiện chỉ số CPI, các chỉ số kinh tế vĩ mô tháng trước và quan điểm chỉ đạo điều hành mục tiêu CSTTcủa Chính phủ, thiếu các thông tin, phân tích dự báo thị trường về cung cầu, số lượng giao dịch, lãi suất, ..; Do đó các lãi suất được điều hành không sát với cung cầu tiền tệ và lãi suất thực trên thị trường, hạn chế tác dụng điều tiết của các công cụ lãi suất.  Sự điều chỉnh các mức lãi suất chưa theo sát kịp với diễn biến hàng tháng của chỉ số CPI cả về biên độ và xu hướng, làm giảm hiệu quả và tác dụng của công cụ lãi suất. CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 16
  17. Câu II – Đánh giá tác động của CSTT đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay Phân tích diễn biến CPI và các mức lãi suất thời kỳ 2011-2012 có thể thấy: đường biến thiên của các loại lãi suất và chỉ số CPI chỉ có 4 tháng là cùng xu hướng (2/2012- 6/2012) còn lại là lệch pha với biên độ chênh lệch quá lớn, nên hiệu quả tác động đến dự trữ R của các TCTD và M2 không đáng kể. - Phân tích biến động lãi suất tái cấp vốn với CPI (2011-2012): Trong giai đoạn 2011-2012, NHNN có 6 lần điều chỉnh lãi suất (%/năm) theo xu hướng tăng liên tục(1/2011-2/2012): 9%, 11%, 12%, 13%, 14%, 15%; có 4 lần điều chỉnh giảm liên tục (3/2012-10/2012): 14%, 13%, 12%, 11%, 10% nhằm thực hiện mục tiêu… Nhưng do các biên độ mỗi lần điều chỉnh quá hẹp, xu hướng điều chỉnh rất hiếm khi phù hợp với xu hướng biến động của CPI nên tác động lên cung tiền và lãi suất thị trường tiền tệ rất kém hiệu lực. Đồ thị 2: CPI và lãi suất tái cấp vốn - Phân tích sự biến động của lãi suât tái chiết khấu và CPI. Đồ thị 3: CPI và lãi suất tái chiết khấu CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 17
  18. Câu II – Đánh giá tác động của CSTT đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay - Phân tích sự biến động của lãi suất OMO với CPI Đồ thị 4: CPI và lãi suất OMO - Phân tích biến động của Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ Đồ thị 5: CPI và lãi suất qua đêm  Duy trì quá lâu cơ chế cố định “trần” lãi suất huy động và “thả nổi” lãi suất cho vay thỏa thuận, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các TCTD đẩy lãi suất cho vay lên tối đa, làm tăng rủi ro tài sản có và nợ xấu của cả hệ thống NHTM và các TCTD khác. Từ tháng 1/2011-4/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố định theo xu hướng giảm dần (14%/năm, 13%/năm, 12%/năm, 11%/năm) và lãi suất cho vay thỏa thuận ở tất cả các đối tượng và kỳ hạn vay vốn của khách hàng. Tháng 5/2012, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động (11%/năm) và “trần” lãi suất cho vay ngắn hạn theo biên độ (lãi suất cho vay = lãi suất huy động + 3%/năm) với 4 CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 18
  19. Câu II – Đánh giá tác động của CSTT đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay đối tượng cho vay ưu tiên, còn các đối tượng cho vay khác và cho vay trung dài hạn đều lãi suất thỏa thuận. Từ tháng 6/2012- nay, NHNN quy định “trần” lãi suất huy động cố định (9%/năm) và “trần” lãi suất cho vay cố định(13%/năm) với 4 đối tượng sản xuất kinh doanh ưu tiên còn các đối tượng khác đều cho vay theo lãi suất thỏa thuận Trong điều kiện kinh tế khó khăn, lợi nhuận của hầu hết các doanh nghiệp rất khí có thể cao hơn lãi suất cho vay thỏa thuận của các TCTD. Với cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận các khách hàng tốt không dám vay vốn, còn các khách hàng chấp nhận được lãi suất cao là những khách hàng đang thực sự khó khăn về tài chính, hoặc có nhu cầu tài trợ cho những dự án có rủi ro rất cao. Vì vậy cơ chế lãi suất thỏa thuận chỉ mang lại lợi ích trước mắt cho TCTD, nhưng lại tăng thêm các rủi ro do lựa chọn khách hàng, rủi ro tín dụng, tăng nguy cơ tiềm ẩn nợ xấu, tạo ra một danh mục tài sản có rủi ro cao.  Cố định mức lãi suất trần huy động vốn trong thời gian quá dài (trong suốt 12 tháng từ 3/2011-2/2012) trong khi CPI đã giảm mạnh và liên tục từ tháng 6/2011-12/2011, làm tăng áp lực thanh khoản của hệ thống, tăng thêm các rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản, rủi ro đạo đức trong hệ thống Tài chính - Ngân hàng. Nhìn vào đồ thị biểu thị quan hệ giữa CPI và lãi suất huy động vốn của các TCTD dễ thấy rằng: đường lãi suất gần như đi ngang trong khi đường CPI biến động lên xuống hình sin với biên độ rất lớn và chu kỳ dài. Hậu quả của cơ chế điều hành này đã gây thiệt hại cho người gửi tiền(7 tháng liên tục lãi suất tiền gửi ở mức thực âm); các NHTM phá rào trần lãi suất huy động vốn bằng mọi cách (hoa hồng, chi tiền mặt ngoài sổ sách, nhận ủy thác đầu tư trá hình, ..) thanh khoản căng thẳng, thị trường tiền tệ, thị trường liên Ngân hàng đua nhau cạnh tranh lãi suất “ngầm”. Trong suốt 12 tháng liên tục từ tháng 3/2011-2/2012, mức lãi suất “trần” huy động vốn của các TCTD vẫn cố định 1, 17%/tháng(14%/năm). Trong khi CPI biến động liên tục hàng tháng với biên độ lớn và xu thế giảm rõ rệt lần lượt là: 2.25%; 3.53%; 2.43%; 1.22%; 1.32%; 1.07%; 0.95%; 0.42%; 0.45%; 0.63%; 1.00%; 1.37%. Kết quả là rủi ro kỳ hạn, rủi ro thanh khoản của các TCTD tăng lên do tiền gửi huy động được của các NHTM chủ yếu là không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn 1-2 tháng, tiền gửi từ 3 -12 tháng chiểm tỷ lệ rất ít; tiền gửi trung dài hạn trên 12 tháng không thể huy động được. CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 19
  20. Câu II – Đánh giá tác động của CSTT đối với sự phát triển của nền kinh tế giai đoạn hiện nay Đồ thị 6: CPI và lãi suất huy động 1.2. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc Theo quy định của Luật NHNN 2010, dự trữ bắt buộc là số tiền mà tổ chức tín dụng phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Ngân hàng Nhà nước quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi tại tổ chức tín dụng nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Cơ chế điều hành tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo Quyết định số 379/QĐ-NHNN áp dụng từ ngày 24/2/2009 (đối với VND) và Quyết định 79/QĐ-NHNN áp dụng từ 01/2/2010 (đối với ngoại tệ), thông tư 20/2010/TT-NHNN ngày 29/9/2010. Theo cơ chế nói trên, chính sách dự trữ bắt buộc được căn cứ vào tính chất kỳ hạn tiền gửi (ngắn, trung, dài hạn), loại tiền gửi (VND và ngoại tệ) và ưu tiên đối tượng cho vay nông nghiệp, nông thôn. Đối với TCTD có tỷ trọng dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn trên tổng dư nợ bình quân cuối các quý trong năm tài chính liền kề từ 40% đến dưới 70% và trên 70%: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam bằng 1/5 (một phần năm) và 1/20 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường tương ứng với từng kỳ hạn tiền gửi. Từ năm 2009 -2012, tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các TCTD đối với tiền gửi VND cố định 3% và không thay đổi. 1.2.1.Một số vấn đề hạn chế về sử dụng công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong giai đoạn 2011-2012 :  NHNN cố định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND trong suốt thời gian dài từ 2009-2012 trong cả quá trình lạm phát cao năm 2011 và xu hướng thiểu phát 6 tháng 2012. Công cụ tỷ lệ DTBB không phát huy tác dụng điều chỉnh CH21D – Nhóm 9 – Bài Kiểm tra: Phân tích chính sách kinh tế Trang 20
nguon tai.lieu . vn