Xem mẫu
- MỤC LỤC
Lời nói đầu
I.
Nội dung trình bày
II.
1. Quan niệm của Đảng ta về đói nghèo
2. Chủ trương và quá trình lãnh đạo thực hiện xoá đói giảm nghèo giai
đoạn 1996 – 2006
3. Ý nghĩa và bài học
Kết luận
III.
Tài liệu tham khảo
IV.
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006 1
- LỜI MỞ ĐẦU
Nghèo đói hiện đang là vấn đề xã hội bức xúc, là sự thách thức, cản trở
lớn đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia, khu vực và toàn bộ nền
văn minh nhân loại. Chính vì vậy, trong những năm gần đây nhiều quốc gia và
các tổ chức quốc tế đã quan tâm tìm các giải pháp nhằm hạn chế nghèo đói và
giảm dần khoảng cách phân hoá giàu, nghèo trên phạm vi toàn thế giới.
Ở Việt Nam, xoá đói giảm nghèo được coi là mục tiêu xuyên suốt trong
quá trình phát triển KT-XH của đất nước. Xoá đói giảm nghèo đã được đưa vào
mục tiêu, chương trình, kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm (1996-2000). Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) đã khẳng định:"Thực hiện tốt chương
trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số". Đại hội IX (năm 2001) tiếp tục khẳng định hướng đi đó
và nhấn mạnh: "Việc tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xoá đói giảm nghèo
ngay trong từng bước đi và trong suốt quá trình CNH - HĐH đất nước. Phấn
đấu đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo".
Chính vì tính cấp thiết của vấn đề đã nêu trên nên trong tiểu luận của
mình em đã chọn đề tài :
“Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo giai đoạn 1996 -
2006”
Qua đó tìm hiểu thực trạng đói nghèo, nhu cầu xóa đói giảm nghèo của
người dân và chủ trương; quá trình lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện xoá
đói giảm nghèo giai đoạn 1996 - 2006. Trên cơ sở đó đánh giá thành t ựu, hạn
chế, rút ra bài học kinh nghiệm và đề ra mục tiêu trong vi ệc xoá đói gi ảm
nghèo ở nước ta.
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006 2
- I - QUAN NIỆM CỦA ĐẢNG TA VỀ ĐÓI NGHÈO
1. Đói nghèo là gì?
Nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân, nghèo
không chỉ đơn giản là mức thu nhập thấp mà còn thiếu thốn trong việc tiếp cận
dịch vụ, như giáo dục, văn hóa, thuốc men, không chỉ thiếu tiền mặt, thiếu
những điều kiện tốt hơn cho cuộc sống mà còn thiếu thể chế kinh tế thị trường
hiệu quả, trong đó có các thị trường đất đai, vốn và lao động cũng như các thể
chế nhà nước được cải thiện có trách nhiệm giải trình và vận hành trong khuôn
khổ pháp lý minh bạch cũng như một môi trường kinh doanh thuận lợi. Mức
nghèo còn là tình trạng đe dọa bị mất những phẩm chất quý giá, đó là lòng tin và
lòng tự trọng.
Việt Nam đã thừa nhận định nghĩa chung về đói nghèo do Hội nghị chống
đói nghèo khu vực Châu á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc,
Thái Lan tháng 9/1993: nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006 3
- đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong
tục tập quán của địa phương.
2. Vấn đề đói nghèo tại Việt Nam.
Năm 1989, Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường trong sản xuất nông
nghiệp thực hiện giao khoán đến hộ đã nhảy vọt từ nước đang thiếu lương thực
vươn lên thành nước xuất khẩu gạo, và giữa vị trí trong ba nước xuất khẩu gạo
lớn nhất thế giới từ đó đến nay, an ninh lương thực đã vững vàng. Tuy nhiên,
đến nay vẫn còn tỷ lệ đói nghèo (bao gồm cả thiếu lương thực) mà đa số phân
bố ở các xã thuộc chương trình 135 (xã nghèo).
Đầu thập niên 1990, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ đói nghèo đã được nhận rõ, mà trước hết là số
liệu trẻ em suy dinh dưỡng đã ở mức báo động (gần 50%). Ngay đầu năm 1991,
vấn đề xoá đói giảm nghèo đã đề ra trong các diễn đàn, các nghiên cứu, và triển
khai thành phong trào xoá đói giảm nghèo. Tổng bí thư Đỗ Mười khi đó rất quan
tâm đến chương trình này, ông lo lắng thế hệ con cháu mai sau bị ảnh hưởng do
đói nghèo hôm nay.
Nghị quyết Quốc hội Việt Nam về nhiệm vụ năm 1993 đã đánh giá cao
tinh thần cộng đồng, tương thân tương ái "trong nhân dân đã phát triển nhiều
hoạt động từ thiện giúp đỡ nhau và phong trào xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp
nghĩa..." Sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ được Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam lấy ngày 17 tháng 10 là "Ngày vì người nghèo", đó cũng là ngày Liên hợp
quốc chọn là ngày "Thế giới chống đói nghèo".
Ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến lược
toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo". Đây là chiến lược đầy đủ, chi
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006 4
- tiết phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp Quốc
công bố. Trong quá trình xây dựng chiến lược có sự tham gia của chuyên gia các
tổ chức quốc tế tại Việt Nam như IMF, UNDP, WB,.. tổng hợp thành các mục
tiêu phát triển Việt Nam. Vấn đề là cụ thể hoá chiến lược bằng các chương
trình, dự án được triển khai, được giám sát và đánh giá thường xuyên. Các
nghiên cứu đã lập được bản đồ phân bố đói nghèo đến từng xã, từng hộ. Việt
Nam đã ký vào Tuyên bố Thiên niên kỷ với 8 mục tiêu:
1. Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói.
2. Đạt phổ cập giáo dục tiểu học.
3. Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ.
4. Giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh.
5. Tăng cường sức khỏe bà mẹ.
6. Phòng chống bệnh HIV/AISD, sốt rét và các bệnh khác.
7. Đảm bảo bền vững môi trường.
8. Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển.
Những mục tiêu này mang kết quả trực tiếp và gián tiếp xóa đói giảm
nghèo một cách bền vững bởi nguy cơ đói nghèo, tái đói nghèo đều có thể xảy ra
trong những biến cố của môi trường thiên nhiên, của quá trình hội nhập và phát
triển. Một quốc gia khi không giải quyết dứt điểm xóa đói giảm nghèo thì luôn
ẩn chứa nguy cơ phát triển không bền vững dẫn đến những hậu quả bất ổn
định kinh tế - xã hội. Những mục tiêu đó cũng gợi mở những phương thức tác
động trực tiếp hay gián tiếp đến việc xóa đói giảm nghèo.
Hiện nay, chuẩn nghèo của thế giới quy định quốc gia có thu nhập bình
quân người hàng năm là 735 USD. Thu nhập bình quân của Việt Nam khoảng
400 USD, dù có quy đổi về giá trị so sánh tương đương (PPP) vẫn chưa qua
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006 5
- chuẩn nghèo. Ngày 29 tháng 3 năm 2005, tại Hội thảo "Hợp tác giữa các nhà tài
trợ và các Tổ chức phi Chính phủ trong xóa đói giảm nghèo" theo định hướng
giảm nghèo toàn diện hơn, bền vững hơn, công bằng hơn và hội nhập hơn, Việt
Nam sẽ nâng chuẩn đói nghèo lên gấp hai lần. (Chuẩn đói nghèo trước đây theo
mức thu nhập bình quân người /tháng theo khu vực miền núi, nông thôn, thành
thị: trước năm 2000 là 45.000 đồng, 70 000 đồng và 100 000 đồng; sau năm 2000
là 80000 - 100 000 – 150 000 đồng). Theo chuẩn đói nghèo mới có hai mức: thu
nhập bình quân tháng 200 000 đồng ở nông thôn và 260 000 đồng ở thành thị.
Tuy nhiên một số thành phố chuẩn đó có thay đổi do yếu tố giá sinh hoạt. Ví dụ,
Sở Lao động Thương binh và xã hội Hà Nội đã đệ trình UBND thành phố mức
chuẩn nghèo mới: 350.000 và 270.000 đồng/người/tháng tương ứng với khu vực
thành thị và nông thôn.
Kết quả dưới đây đây được Tổng Cục Thống Kê tính toán dựa vào số
liệu thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình và chỉ số giá tiêu dùng của
từng khu vực thành thị/nông thôn qua các năm để loại trừ yếu tố biến động giá.
Số liệu căn cứ kết quả chính thức Điều tra mức sống hộ gia đình Việt Nam
2002 và kết quả sơ bộ Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2004,
Tổng cục Thống kê tính toán tỷ lệ (%) hộ nghèo cho năm 2002 và 2004 theo
chuẩn nghèo được Thủ tướng Chính phủ ban hành áp dụng cho giai đoạn 2006 -
2010 (200 nghìn đồng/người/tháng cho khu vực nông thôn, 260 nghìn
đồng/người/tháng cho khu vực thành thị) như sau:
Năm 2002 Năm 2004
Cả nước
23,0 18,1
• Chia theo khu vực
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006 6
- Khu vực Năm 2002 Năm 2004
Thành thị 10,6 8,6
Nông thôn 26,9 21,2
• Chia theo vùng
Khu vực Năm 2002 Năm 2004
ĐBSH 18,2 12,9
Đông Bắc 28,5 23,2
Tây Bắc 54,5 46,1
Bắc Trung Bộ 37,1 29,4
Duyên hải NTB 23,3 21,3
Tây Nguyên 43,7 29,2
Đông Nam Bộ 8,9 6,1
ĐBSCL 17,5 15,3
Nguồn: Tổng cục Thống kê tháng 7 năm 2005 “Thông cáo báo chí về tỷ lệ
hộ nghèo 2002 và 2004 theo chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010”
3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc xóa đói giảm nghèo
Thứ nhất, xoá đói giảm nghèo phải dựa trên cơ sở tăng trưởng kinh tế
nhanh, hiệu quả và bền vững, đồng thời chủ động tạo các nguồn lực cho các
hoạt động trợ giúp người nghèo đói.
Quan điểm này dựa trên lô-gic biện chứng là muốn giúp đỡ, hỗ trợ có
hiệu quả người nghèo đói thì Nhà nước phải có đủ nguồn lực vật chất trong tay,
bởi vì chính bản thân nhà nước là chủ thể có đầy đủ các khả năng điều hoà thu
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006 7
- nhập giữa các nhóm dân cư. Hơn nữa, các nguồn lực vật chất để thực hiện sự
điều hoà thu nhập ấy lại chỉ có thể có được khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh,
hiệu quả và bền vững. Thực tế cho thấy, nhờ kinh tế phát triển mà Nhà nước đã
có đủ tài chính để mở rộng các dự án, các chương trình xoá đói giảm nghèo, hỗ
trợ cho hàng ngàn xã khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, trên cơ
sở đó những người nghèo ở những vùng sâu, vùng xa có thêm cơ hội để vươn
lên thoát nghèo đói. Nhìn chung, ở đâu kinh tế phát triển, ngành nghề và hoạt
động kinh tế đa dạng, việc làm đầy đủ, thì ở đó số hộ nghèo đói giảm nhanh, số
hộ giầu tăng lên và bộ mặt xã hội của cộng đồng thay đổi nhanh chóng.
Thứ hai, xoá đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, của
toàn xã hội, mà trước hết là bổn phận của chính người nghèo, phụ thuộc vào sự
vận động tự giác của bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo.
Xóa đói giảm nghèo phải được coi là sự nghiệp của bản thân người
nghèo, cộng đồng nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thoát nghèo chính là
động lực, là điều kiện cần cho sự thành công của mục tiêu chống đói nghèo ở
các nước.
Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái
nghèo khi gặp rủi ro. Bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất trực tiếp thì việc tạo việc
làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản xuất, kinh doanh
phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều kiện xoá đói giảm
nghèo thành công nhanh và bền vững.
Thứ ba, triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xoá đói giảm
nghèo bằng các nguồn tài chính trợ giúp của Nhà nước và các tổ chức trong và
ngoài nước.
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006 8
- Trong những năm qua, Nhà nước đã giành nhiều kinh phí cho các chương
trình xoá đói giảm nghèo. Bên cạnh những thành tựu đáng kể của xoá đói giảm
nghèo còn có vấn đề nổi cộm đó là tình trạng tham nhũng, cắt bớt phần tài chính
từ các dự án, chương trình mà lẽ ra người nghèo được hỗ trợ để giúp họ thoát
nghèo đói. Quan điểm này có tác dụng hạn chế tình trạng tiêu cực đang diễn ra
trong triển khai hiện nay, tạo cơ sở để đưa ra các biện pháp phòng ngừa và xử
lý nghiêm theo pháp luật các trường hợp tiêu cực.
Thứ tư, việc hỗ trợ và cho vay vốn hộ nghèo phải đi liền với công tác tư
vấn, hướng dẫn sử dụng vốn vay có hiệu quả căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của
từng hộ gia đình.
Thời gian qua, việc cho vay vốn hộ nghèo đói chưa thật hiệu quả, phần
nhiều còn thiên về số lượng lượt hộ vay vốn nên khoản vay còn nhỏ bé, chưa
thực sự giúp các hộ nghèo tạo được đà bứt phá, việc sử dụng vốn không đúng
mục đích vấn còn khá phổ biến. Nhìn chung, hiệu quả thực sự của các nguồn tài
chính cung cấp cho mục tiêu xoá đói giảm nghèo còn bị hạn chế. Thực tế cho
thấy nguồn vốn cho người nghèo vay sẽ phát huy tác dụng nếu có sự hướng
dẫn sản xuất, tư vấn sử dụng vốn vay.
Với các quan điểm về xoá đói giảm nghèo như trên, đã có nhiều cách tiếp
cận về xoá đói giảm nghèo như cách tiếp cận từ trên xuống là phương pháp giao
chỉ tiêu kế hoạch, giao nguồn lực và quy định các nhiệm vụ phải thực hiện của
cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới; Cách tiếp cận từ dưới lên là cách
tiếp cận từ người nghèo- xoá đói giảm nghèo bắt đầu từ người nghèo; hoặc
cách tiếp cận từ các nguồn lực đó là cách tìm ra các nguồn hạn chế nhất để tìm
cách tác động vào chúng nhằm đạt mục tiêu về xoá đói giảm nghèo. Nhưng hiện
nay các cách tiếp cận này đang bộc lộ những điểm không phù hợp và kém hiệu
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006 9
- quả. Để đạt được thành tựu lớn trong công tác xoá đói giảm nghèo, đảm bảo
mục tiêu giảm nghèo bền vững cần phải có phương pháp tiếp cận mới.
II – CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XOÁ
ĐÓI, GIẢM NGHÈO GIAI ĐOẠN 1996 – 2006
Đảng ta đã đưa ra những chương trình rộng lớn để tập trung giải quyết là
“Chương trình về xóa đói, giảm nghèo”. Trên cơ sở đó, Nhà nước cũng đã có
hàng chục chương trình cấp quốc gia và dự án đang được thực thi có nội dung
gắn với xóa đói, giảm nghèo.
Ở Việt Nam, nghèo đói là vấn đề được nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Ngay từ những ngày đầu thành lập nước ( 2 / 9 / 1945 ), chủ tịch nước Hồ Chí
Minh đã quan niệm nghèo đói như một thứ giặc đó là “giặc đói”, “giặc dốt”,
“giặc ngoại xâm”. Chính vì thế Người đã xác định nhiệm vụ trước mắt là phải
diệt giặc đói để đồng bào ta “ ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học
hành”
Mục tiêu xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã
hội và tăng trưởng bền vững, ngược lại chỉ có tăng trưởng cao, bền vững mới
có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thoát
khỏi đói nghèo. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã phân tích sâu sắc những
nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế – xã hội của nước ta từ nhiều
năm trước, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, vạch ra những định hướng đúng
đắn để từng bước đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng đó, mở ra
bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta. Kể từ đây
nền kinh tế của Việt Nam có những bước phát triển mới, “Đặc biệt là từ năm
1991 đến 1995 nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước( GDP) đạt 8,2%”. Với
tốc độ tăng trưởng như vậy nên “ đời sống vật chất của phần lớn nhân dân
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006
10
- được cải thiện. Số hộ có thu nhập bình quân và số hộ giầu tăng lên, số hộ
nghèo giảm”
Tuy nhiên do nền kinh tế nước ta chưa phát triển do bởi, xuất phát điểm
thấp, hậu quả của chiến tranh còn nặng nề, cơ chế quản lí cũ không còn phù
hợp với xu thế phát triển chung. Ngoài ra điều kiện tự nhiên cũng có những tác
động không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế : Như khí hậu thời tiết khắc
nghiệt, thiên tai, dịch bệnh vẫn thường xuyên xảy ra… Thêm vào đó trình độ tay
nghề, kinh nghiệm sản xuất của người lao động còn rất thấp… Cho nên một bộ
phận không nhỏ dân cư gặp không ít khó khăn trong sản xuất và đời sống, đã trở
nên nghèo đói. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường sự phân hóa giầu nghèo
ngày càng tăng lên một cách rõ rệt với quy mô ngày càng lớn
Với một tỷ lệ không nhỏ số dân đang sồng trong cảnh cùng cực, Việt
Nam sẽ khó thực hiện được tiến trình CNH-HĐH đất nước. Vấn đề đặt ra là
phải làm sao đẩy lùi được tình trạng đói nghèo xuống. Nhưng muốn có những
chính sách, biện pháp xoá đói giảm nghèo hiệu quả thì nhất thiết phải hiểu
được những nguyên nhân nào dẫn tới tình trạng nghèo đói của Việt Nam. Nhận
thức được yêu cầu bức thiết đó, nghiên cứu này sẽ tập trung đi sâu vào thực
trạng nghèo đói ở Việt Nam, các nguyên nhân làm cho một số người rời vào
cảnh khối cùng, các mối quan hệ giữa nghèo đói với công bằng xa hội, sự phân
hoá giàu nghèo giữa các vùng khác nhau. Nghiên cứu này còn giúp ta hiểu thêm
mức độ, tầm ảnh hưởng của nghèo đói ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên
thế giới. Nó ảnh hưởng như thế nào, tác động ra sao đến chất lượng cuộc sống
của người dân, cũng như sự cải thiện vị thế của quốc gia. Cuối cùng, sẽ đưa ra
một số giải pháp mang tính định hướng để giúp xoá đói giảm nghèo hiệu quả
hơn.
Trong những năm qua, nền kinh tế - xã hội của nước ta đạt được những
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006
11
- thành tựu quan trọng, GDP hằng năm tăng cao từ 7,5% - 8,5%, tuy nhiên ta vẫn
là một nước nghèo. Công cuộc xóa đói, giảm nghèo là một trong những chính
sách ưu tiên hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam,
tuy đã đạt được một số kết quả song vẫn còn những thách thức, tồn tại lớn. Bên
cạnh đó các phương pháp xoá đói, giảm nghèo hiện nay đã bộc lộ tính không
phù hợp và kém hiệu quả. Để thành công trong công cuộc xoá đói giảm nghèo
phải có phương pháp tiếp cận mới. Vậy, phương pháp xoá đói giảm nghèo hiện
nay là gì? Tại sao cần có cách tiếp cận mới cho xoá đói giảm nghèo?
Do vậy, từ năm 1993 đến cuối năm 2005, Chính phủ Việt Nam đã bốn lần
nâng mức chuẩn nghèo. Ngày 27/9/2001 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số
143/2001/QĐ-TTg trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói
và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005", những hộ gia đình có thu nhập bình quân
đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000
đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực
nông thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ
100.000 đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo,
ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000
đồng/người/tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8
tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-
2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm)trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực
thành thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới
3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006
12
- Đói nghèo là một vấn đề kinh tế-xã hội có tính toàn cầu, là sự thể hiện
tính công bằng trong phân phối và chuyển tải các thành quả về phát triển kinh tế
đến việc cải thiện chất lượng cuộc sống cho mọi người dân. Vì vậy, để đảm
bảo công bằng xã hội, để nâng cao tiếng nói trên trường quốc tế thì không riêng
Việt Nam mà tất cả các nước đều phải chú ý thực hiện công cuộc xoá đói giảm
nghèo. Ngày nay giải quyết vấn đề đói nghèo đã được đặt thành nhiệm vụ trọng
tâm, quan trọng của đất nước Việt Nam, thể hiện ở chỗ chúng ta đã có Chương
trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo.
Các chỉ tiêu chủ yếu hướng đến trong giai đoạn 2006-2010
Thu nhập của nhóm nghèo tăng 1,45 lần so với 2005
•
Các xã đặc biệt khó khăn, xã nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu
•
6 triệu lượt hộ nghèo được vay tín dụng ưu đãi
•
4,2 triệu lượt hộ nghèo tập huấn về khuyến nông lâm ngư
•
1,5 triệu người được miễn giảm phí học nghề
•
15 triệu người được khám chữa bệnh miễn phí khi đau ốm
•
19 triệu lượt học sinh nghèo được miễn, giảm học phí, tiền xây dựng
•
trường
500 nghìn hộ nghèo được hỗ trợ xóa nhà tạm
•
(Nguồn: Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội, tháng 9-2005 : Chương
trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo 2006–2010)
III – Ý NGHĨA VÀ BÀI HỌC
Một là, xóa đói giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là
nhiệm vụ trọng tâm trước mắt.
* Tính lâu dài của xóa đói giảm nghèo là do:
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006
13
- Thứ nhất, xóa đói giảm nghèo là nội dung, và nhiệm vụ cần thực hiện để bảo
đảm công bằng xã hội. Thực tiễn cho thấy, có những nguyên nhân nảy sinh
nghèo đói không phải do môi trường xã hội, không do điều kiện kinh tế - địa lý,
mà do hoàn cảnh và đặc điểm của từng cá nhân, từng hộ gia đình. Những trường
hợp này luôn có khả năng xuất hiện và việc xóa đói giảm nghèo mang tính
thường trực.
Thứ hai, chủ trương của Đảng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần là một
định hướng chiến lược. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn có xu
hướng phân hóa hai cực giàu nghèo. Vì vậy, cùng với việc tăng cường sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thường xuyên và liên tục, lâu
dài, thì nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, nhất là giảm nghèo, cũng là vấn đề liên
tục và lâu dài mới giải quyết được.
Thứ ba, dân giàu nước mạnh là mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Thực
hiện mục tiêu này là một quá trình phấn đấu gian khổ, lâu dài.
Xóa đói giảm nghèo vừa có tính cơ bản và cần thực hiện liên tục, lâu dài,
lại là một công việc cần kíp, trước mắt, bởi vì sự nghiệp cách mạng và công
cuộc đổi mới luôn đặt ra nhiệm vụ: mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một
bước cải thiện đời sống của nhân dân; bởi vì đây không chỉ là việc thực hiện
truyền thống, đạo lý của dân tộc “thương người như thể thương thân”, mà còn
là nhiệm vụ để bảo đảm ổn định xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Hai là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện giúp cho việc xóa đói giảm
nghèo, nhưng đây là hai nhiệm vụ có tính độc lập tương đối và không phải
là một.
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006
14
- Có người cho rằng, muốn xóa đói giảm nghèo trước hết phải đầu tư phát
triển sản xuất để tăng trưởng kinh tế. Chỉ đến khi kinh tế đã phát triển đến giai
đoạn nhất định sẽ hết đói nghèo, vì thế không nên đặt vấn đề xóa đói giảm
nghèo là nhiệm vụ lâu dài và trọng yếu. Thực ra tăng trưởng kinh tế có ảnh
hưởng đến việc giải quyết vấn đề nghèo đói, bởi vì nguyên nhân chính yếu của
đói nghèo nói chung là do kinh tế chưa phát triển. Tuy nhiên, đói nghèo lại do
nhiều nguyên nhân khác mang tính đặc thù. Vả lại trong điều kiện kinh tế nước
ta hiện nay, chúng ta chấp nhận kinh tế nhiều thành phần cùng vận động, phát
triển cũng là phải chấp nhận tình trạng phân hóa giàu nghèo tương đối. Vì vậy,
xóa đói giảm nghèo không những là công việc cần thiết mà là nhiệm vụ cấp
bách và quan trọng. Chúng ta xác định sự phân hóa giàu nghèo không thể tránh
khỏi, nên cũng quyết tâm không để xảy ra tình trạng làm giàu vô tội vạ trên lưng
người khác, cũng như tình trạng “kẻ ăn không hết, người lần không ra”, không
thể để người nghèo bị bỏ rơi trước con mắt của cộng đồng.
Ba là, xóa đói giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội không có
nghĩa là kìm hãm sự phát triển kinh tế, không có nghĩa là cào bằng.
Kinh nghiệm của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu trước
đây đã cho thấy, nếu đặt công bằng xã hội lên trên hết và tách rời với phát triển
kinh tế thì trước hết dẫn tới sự triệt tiêu các động lực phát triển. Tuy nhiên, nếu
đặt hiệu quả kinh tế là mục tiêu duy nhất thì sẽ làm tăng tình trạng phân hóa hai
cực, làm tăng sự khốn khó đối với không ít quần chúng nhân dân. Bởi vậy, trong
khi thực hiện bài toán phát triển đất nước, làm sao phải tạo mọi điều kiện và
tăng nguồn lực cho sự phát triển, đồng thời hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặt
vấn đề xóa đói giảm nghèo thành công việc thường xuyên, liên tục.
Bốn là, xóa đói giảm nghèo là công việc của toàn xã hội.
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006
15
- Cần khẳng định một cách mạnh mẽ rằng, xóa đói giảm nghèo không
dừng lại ở việc thực hiện chính sách xã hội, không phải việc riêng của ngành
lao động - xã hội hay một số ngành khác, mà là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hóa, là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành công
việc xóa đói giảm nghèo, tất cả mọi cán bộ đảng, chính quyền đều phải quan
tâm cùng giải quyết, thực hiện các giải pháp một cách đồng bộ và phải có sự
tham gia của toàn thể cộng đồng.
IV - KẾT LUẬN
Đói nghèo là vấn đề kinh tế - xã hội; xoá đói giảm nghèo là trách nhiệm
của mọi người. Giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo gồm nhiều lĩnh vực
không chỉ là kinh tế mà cả văn hoá, y tế , giáo dục. Trong những năm từ 1996 –
2006, bắt nguồn từ thực trạng nghèo đói và ý thức muốn vươn lên nghèo đói mà
Đảng và nhà nước ta đã đề ra nhiều biện pháp có hiệu quả trong quá trình thực
hiện xoá đói giảm nghèo. Những chuyển biến tích cực của công tác này là tiền
đề có ý nghĩa quan trọng để Đảng ta từng bước khắc phục những hạn chế, yếu
kém; tiếp tục đề ra các biện pháp kịp thời đúng đắn nhằm đấy mạnh kinh tế
ngày càng phát triển trong những giai đoạn sau. Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ
không của riêng ai mà của toàn nhân loại./.
Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006
16
- Tiểu luận : Đảng lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo 1996 -2006
17
nguon tai.lieu . vn