Xem mẫu

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH KHOA LUẬT DÂN SỰ TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA CỬ NHÂN LUẬT QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM PHÁI SINH THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
  2. MỤC LỤC 2
  3. MỞ ĐẦU Sở hữu trí tuệ (SHTT) đã và đang đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động thương mại  quốc tế, hoạt động phát triển kinh tế ­ xã hội, nhất là trong xu thế hội nhập toàn cầu như hiện nay.   Xã hội ngày càng phát triển các sản phẩm trí tuệ cũng ngày càng được phát triển và thể hiện được   giá trị cũng như vai trò của nó. Đặc biệt là các sản phẩm sáng tạo trí tuệ trong các lĩnh vực văn học,   nghệ thuật và khoa học có một vị thế quan trọng trong việc góp phần tạo dựng nên những giá trị to   lớn trong xuyên suốt quá trình phát triển và hình thành của lịch sử xã hội loài người. Thực tế  này  cũng đặt ra yêu cầu phải gia tăng mối quan tâm lớn tới việc đảm bảo quyền lợi của người sáng tạo   ra các sản phẩm ấy ­ một vấn đề được quan tâm xuyên suốt trong lĩnh vực SHTT. Việc kế thừa phát triển các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học đã tồn tại là một trong   những yếu tố thúc đẩy sự phát triển và đổi mới của tài sản trí tuệ. Hơn hai mươi thế kỷ qua, chúng  ta đã không ngừng kế thừa các nghiên cứu có trước trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học   và phát triển tạo ra các sản phẩm mới. Những cái mới được sáng tạo dựa trên tham khảo cái cũ  được gọi là các tác phẩm phái sinh và là đối tượng được pháp luật bảo hộ quyền tác giả. Thông qua   các tác phẩm phái sinh như tác phẩm được dịch độc giả có thể hiểu thêm về văn hóa, xã hội, chính  trị  và thành tựu khoa học công nghệ  của nhiều đất nước, vùng miền khác nhau. Nhờ  đó mà các   thành tựu văn hóa, nghệ thuật và khoa học được nhiều người biết đến hơn. Bên cạnh đó, sự chuyển   đổi các hình thức diễn đạt, thể loại tác phẩm mà tác phẩm cải biên hay tác phẩm chuyển thể cũng   góp phần làm phong phú thêm loại hình biểu diễn và phù hợp với thị hiếu của khán giả. Trong bối  cảnh gia nhập quốc tế hiện nay, quyền SHTT nói chung và quyền tác giả nói riêng ngày càng được   quan tâm và phát triển hơn tại Việt Nam. Mặc dù vậy, hiểu biết của con người về quyền của mình  đối với các tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc do mình là chủ sở hữu còn rất hạn chế, dẫn đến rất  nhiều vụ việc xâm phạm quyền tác giả vì những lý do vô tình hoặc hữu ý. Các quy định về SHTT   cũng liên tục được đổi mới, tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, bất cập. Chính vì thế, trong phạm vi   bài viết em xin chọn đề  bài: “Quyền tác giả  đối với tác phẩm phái sinh theo pháp luật sở  hữu trí   tuệ Việt Nam” NỘI DUNG 1. Một số vấn đề lí luận chung 1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tác phẩm phái sinh Khái niệm: Thay vì định nghĩa thế nào là một tác phẩm phái sinh theo ý nghĩa của luật quyền  tác giả thì Công ước Berne chỉ qui định các loại hình tác phẩm thuộc các lĩnh vực này sẽ được bảo   3
  4. hộ  quyền tác giả, cụ thể: “Các tác phẩm dịch mô phỏng chuyển thể nhạc và các chuyển thể  khác   từ một tác phẩm văn học nghệ thuật đều được bảo hộ như các tác phẩm gốc mà không phương hại   đến quyền tác giả của tác phẩm gốc1” và Điều 2.5 Công ước Berne quy định “các tuyển tập các tác   phẩm văn học nghệ thuật, chẳng hạn như các bộ bách khoa từ điển và các hợp chuyển nhà phương   pháp chọn lọc và kết cấu tư liệu mà tạo thành một sáng tạo khi thuê cũng được bảo hộ như một tác   phẩm mà không phương hại đến quyền tác giả của các tác phẩm tạo nên các hợp chuyển này”. Theo đó, Công  ước Berne không đưa ra định nghĩa tác phẩm phái sinh mà của tác phẩm phái   sinh thành hai loại dựa theo cách thức tác động của tác giả  đối với tác phẩm gốc. Việc phân chia   như  vậy hoàn toàn phù hợp với bản chất của tác phẩm phái sinh và một số  quốc gia trên thế  giới  cũng quy định tương đồng với Công ước Berne. Luật SHTT 2005 sửa đổi năm 2009 quy định như sau: “Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ   ngôn ngữ  này sang ngôn ngữ  khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải,   tuyển chọn” (Khoản 8 Điều 4). Theo đó, có thể hiểu rằng tác phẩm phái sinh là tác phẩm được sáng   tạo nên từ  các tác phẩm đã có từ  trước nhưng được thể  hiện bằng cách thức, hình thức mới. Tuy   nhiên, quy định này mới chỉ mang tính chất liệt kê chứ chưa chỉ ra được các dấu hiệu cơ bản của tác   phẩm phái sinh và các hình thức tạo ra tác phẩm phái sinh cùng con được giải thích rõ ràng. Đồng   thời, khái niệm tác phẩm địch tác phẩm phong tác, tác phẩm cải biên, tác phẩm chuyên thì cũng   chưa được pháp luật quy định cụ thể và rõ ràng. Tóm lại, tác phẩm phải sinh tồn tại  ở nhiều dạng khác nhau và được tạo ra da nên cơ  sở  nội   dung từ tác phẩm gốc bằng các cách sáng tạo trong việc thay đổi hình thức diễn đạt loại hình biểu  diễn hoặc ngôn ngữ trình bày nội dung tác phẩm. Tác phẩm phái sinh có những đặc điểm sau: Thứ  nhất, tác phẩm phái sinh chỉ được hình thành trên cơ  sở  một/những tác phẩm đã tồn tại.  Tác phẩm đã tồn tại có thể  còn thời hạn hoặc hết thời hạn bảo hộ  quyền công bố  tác phẩm và   quyền tài sản. Quyền cho làm tác phẩm phái sinh thuộc nhóm quyền tài sản đối với tác phẩm,  quyền này được quy định tại điểm a khoản 1 điều 20 Luật SHTT. Thứ hai, về hình thức thể hiện của tác phẩm phái sinh, pháp luật quyền tác giả  không bảo hộ  nội dung ý tưởng mà chỉ  bảo hộ  hình thức thể  hiện của ý tưởng. Mặt khác, tác phẩm phái sinh  không phải là bản sao của tác phẩm gốc. Do đó, trong nhiều trường hợp hình thức thể hiện của tác  phẩm phái sinh phải khác biệt hoàn toàn hoặc khác biệt từng phần với hình thức thể  hiện của tác  phẩm gốc. Thứ ba, về tính nguyên gốc, tác phẩm phái sinh phải do tác giả tự mình sáng tạo nên mà không   sao chép từ  tác phẩm/những tác phẩm khác. Thuật ngữ  “tác phẩm khác” được hiểu là kể  cả  tác   1 Khoản 3 điều 2 Công ước Berne 4
  5. phẩm của chính tác giả đó. Để một tác phẩm phái sinh được bảo hộ thì nó phải mang dấu ấn sáng   tạo của tác giả. Tuy nhiên, nếu ranh giới giữa sáng tạo từng phần và sáng tạo hoàn toàn là dễ nhận   biết, ranh giới giữa sáng tạo tác phẩm phái sinh và xâm phạm quyền tác giả  của tác phẩm gốc là  khó nhận biết. Sự  xâm phạm này thường thể  hiện  ở  việc xâm phạm quyền nhân thân không thể  chuyển giao trong quyền tác giả. Thứ tư, về dấu ấn của tác phẩm gốc trong tác phẩm phái sinh, mặc dù tác phẩm phái sinh phải   đảm bảo tính nguyên gốc như vừa phân tích, nhưng dấu ấn của tác phẩm gốc phải được thể  hiện  trong tác phẩm phái sinh, có nghĩa là khi nhận biết tác phẩm phái sinh thì công chúng phải liên tưởng   đến tác phẩm gốc, sự liên tưởng này được thể hiện qua nội dung của tác phẩm gốc. Phân loại tác phẩm phái sinh Tác phẩm dịch thuật : Dựa trên tác phẩm nguyên gốc, tác giả  sử  dụng ngôn ngữ  khác  một cách sáng tạo để thể hiện về nội dung của tác phẩm đã có.  Tác phẩm phóng tác: Là tác phẩm được tạo ra dựa theo nội dung, tư  tưởng của tác  phẩm đã có, tác giả thể hiện tác phẩm mới theo một cách hoàn toàn riêng và độc đáo Tác phẩm cải biên : Là tác phẩm được sáng tạo ra trên cơ  sở  của tác phẩm gốc bằng  cách thay đổi hình thức diễn đạt. Tác phẩm chuyển thể: Là tác phẩm được sáng tạo trên cơ  sở  tác phẩm gốc bằng cách   thay đổi từ loại hình này sang loại hình khác. Tác phẩm tuyển tập: Là tác phẩm trong đó tập hợp những tác phẩm riêng rẽ  một cách  chọn lọc của một hoặc nhiều tác giả Tác phẩm hợp tuyển: Là tác phẩm tập hợp các tác phẩm được tuyển chọn từ nhiều tác   phẩm của nhiều tác giả khác nhau theo một yêu cầu, chủ đề nhất định. 1.2. Khái niệm và đặc điểm của quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh Theo quy định tại Luật SHTT năm 2005: “Tác phẩm phái sinh chi được bảo hộ nếu không gây   phương hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm được dùng để  làm tác phẩm phái sinh”2. Theo đó,  cũng như  quyền tác giả  đối với tác phẩm gốc, chủ  sở hữu quyền tác giả  tác phẩm phái sinh cũng  được hưởng quyền tài sản và quyền nhân thân nhưng tùy thuộc vào mức độ và phạm vi. Tuy nhiên  quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh cũng có những đặc thù khi đặt trong mối quan hệ với tác  phẩm gốc đó là quyền tác giả  của tác phẩm phái sinh sẽ hoàn toàn độc lập với quyền tác giả  của   các tác phẩm gốc ngay kể từ khi tác phẩm phái sinh được định hình dưới một dạng vật chất nhất  định. Tác phẩm phái sinh được bảo hộ  quyền tác giả  như  một tác phẩm gốc nhưng không được   phương hại đến quyền tác giả của tác phẩm gốc. 2 Khoản 3 Điều 14 Luật SHTT 2005 5
  6. Tóm lại, quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm phái sinh được tạo ra, là quyền của tác giả  đối với tác phẩm phái sinh do mình sáng tạo nên. Giống như tác phẩm gốc, quyền tác giả  của tác   phẩm phái sinh là quyền tự  động phát sinh ngay khi tạo ra tác phẩm, được pháp luật bảo hộ  mà   không cần phải đăng ký. Tác phẩm phái sinh là tác phẩm được hình thành dựa trên tác phẩm đã gốc  và được sáng tạo, thay đổi qua quá trình làm việc của tác giả. Tác phẩm phái sinh cũng có đủ  điều   kiện để hưởng sự bảo hộ quyền tác giả riêng biệt, nhưng quyền tác giả  chỉ được áp đụng đối với   những nội dung có tính nguyên gốc của tác phẩm phái sinh. Việc bảo hộ tác phẩm phái sinh có liên  quan đến việc bảo hộ  tác phẩm gốc, để  một tác phẩm phải sinh được bảo hộ  quyền tác giả  thì  điều kiện tiên quyết là không phương hại đến quyền tác giả của tác phẩm gốc. Việc làm tác phẩm   phái sinh không được xâm phạm quyền tác giả  đối với các tác phẩm gốc. Khoản 7 Điều 28 Luật   SHTT năm 2005 cũng quy định bất cứ hành vi làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác   giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả đối với các tác phẩm gốc được củng làm tác phẩm phái sinh thì   được coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Tóm lại, có thể thấy rằng quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh cũng tương tự như quyền   tác giả nói chung. 2. Thực tiễn pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh 2.1. Chủ thể của quyền tác giả Tác giả  là người trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ  tác phẩm văn học, nghệ  thuật,  khoa học3. Chỉ những cá nhân trực tiếp thực hiện hoạt động sáng tạo để  tạo ra tác phẩm văn học,   nghệ  thuật và khoa học mới được công nhận là tác giả  của tác phẩm đó. Những người làm công   việc hỗ  trợ, góp ý kiến, hoặc cung cấp tư  liệu, thông tin... cho người khác sáng tạo ra tác phẩm  không được công nhận là tác giả. Theo nguyên tắc chung, phạm vi tác giả  được bảo hộ  theo Luật   Sở hữu trí tuệ Việt Nam được xác định theo 3 tiêu chí: Tiêu chí quốc tịch: Cá nhân Việt Nam sáng tạo ra tác phẩm ở Việt Nam hay ở nước ngoài đều   được bảo hộ quyền tác giả;  Tiêu chí nơi thực hiện hành vi: Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được sáng tạo và thể  hiện   dưới hình thức vật chất nhất định tại Việt Nam hoặc có tác phẩm được công bố  lần đầu tiên tại   Việt Nam được bảo hộ quyền tác giả;  Tiêu chí Điều ước quốc tế: Cá nhân nước ngoài có tác phẩm được bảo hộ tại Việt Nam theo   Điều ước quốc tế về quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên. Tác giả tác phẩm phái sinh là tác giả tạo ra các tác phẩm trên cơ sở một hoặc một số tác phẩm   khác nhưng có sự sáng tạo về hình thức thể hiện, cách thức trình bày tác phẩm so với tác phẩm ban   3 Khoản 2 Điều 14 Luật SHTT 2005 6
  7. đầu. Tác giả của tác phẩm phái sinh bao gồm tác giả của tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển  thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn. Phân loại tác giả:  Để  phân loại tác giả, dựa vào số  lượng người sáng tạo ra tác phẩm, có thể  phân loại tác và   thành hai loại là tác giả  đơn nhất và đồng tác giả. Tác giả  đơn nhất là chỉ  có một người duy nhất   sáng tạo ra tác phẩm và tác giả được hưởng toàn bộ quyền tác giả đối với tác phẩm. Nếu như trước  đây,   pháp   luật   SHTT   không   có   định   nghĩa   về   đồng   tác   giả,   tuy   nhiên   theo   Điều   6   Nghị   định  22/2018/NĐ­CP đã quy định rằng “Đồng tác giả  là những tác giả  cùng trực tiếp sáng tạo ra một   phần hoặc toàn bộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học”. Như vậy, đồng tác giả là khi có từ  hai chủ thể trở lên có sự  thoả  thuận, thống nhất về nội dung hình thức thể  hiện và tham gia đóng   góp công sức đề  củng tạo ra một tác phẩm. Ví dụ  như các tác giả  cùng nhau viết chung một cuốn   sách truyện thì được gọi là đồng tác giả. Nếu mỗi  người sáng tạo từng phần riêng không có sự  thống nhất ý chí khi sáng tạo thì họ không phải là đồng tác giả như nhà văn sáng tác truyện sau đó   đạo diễn thấy tác phẩm truyện hay nên đã chuyển thể  truyền thành phim điện  ảnh. Tuy nhiên  trường hợp các cá nhân, tổ chức, hay các chủ thể khác làm công việc hỗ trợ, đóng góp ý kiến hoặc   cung cấp phương tiện kỹ thuật, tư liệu tài chính đưa ra ý tưởng để người khác sáng tạo không phải   là tác giả, cũng như người hỗ trợ về mặt tài chính cho người khác sáng tạo tác phẩm không phải là  tác giả, người (hoặc tổ chức) đưa ra ý tưởng đặt hàng để  người khác sáng tác cũng không phải là   tác giả  của tác phẩm đó. Cũng như  tác giả  đơn nhất, đồng tác giả  cũng có các quyền của người   sáng tạo đối với tác phẩm của mình. Các đồng tác giả  cùng sáng tạo ra tác phẩm có chung các  quyền nhân thân và quyền tải sản như  Luật SHTT năm 2005 quy định đối với tác phẩm đó. Tuy   nhiên, giữa quyền đối với tác giả đồng thời là chủ sở hữu của tác phẩm và tác giả không đồng thời   là chủ sở hữu của tác phẩm có sự khác biệt nhất định. Chủ sở hữu quyền tác giả: Theo Điều 36 Luật SHTT năm 2005: “chủ sở hữu quyền tác giả  là tổ  chức, cá nhân nắm giữ  một, một số  hoặc toàn bộ  các quyền tài sản thuộc quyền tác giả” .  Theo quy định này, chủ sở hữu quyền tác giả có thể đồng thời là tác giả hoặc không đồng thời là tác  giả. Thứ nhất, chủ sở hữu quyền tác giả đồng thời là tác giả của tác phẩm Theo quy định của Luật SHTT năm 2005: “Chủ sở hữu quyền tác giả đồng thời là tác giả khi   họ sử dụng thời gian tài chính, cơ sở vật chất ­ kỹ thuật để tạo ra tác phẩm"  Như vậy, họ vừa sáng  tạo tác phẩm vừa đầu tư tài chính, cơ sở vật chất để tạo ra tác phẩm. Trong trường hợp này, tác giả  đồng thời là chủ  sở  hữu quyền tác giả  có toàn bộ  các quyền nhân thân và quyền tài sản theo quy   định của pháp luật SHTT. Thứ hai, chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả của tác phẩm 7
  8. Theo quy định của pháp luật SHTT, chủ  sở  hữu quyền tác giả  có thể  là một trong những tổ  chức, cá nhân sau đây ­ Chủ  thể  là cá nhân, tổ  chức giao kết hợp đồng hoặc giao nhiệm vụ  cho tác giả  tác phẩm.   Trên cơ  sở  sự  đầu tư  về  tài chính, các điều kiện cơ  sở  vật chất khác cho hoạt động sáng tạo tác   phẩm, các chủ  thể này là người “đặt hàng” để  tác giả  sáng tạo ra tác phẩm. Do vậy, pháp luật sở  hữu trí tuệ Việt Nam đã cho phép các chủ thể này nắm giữ các quyền khai thác sử dụng về mặt tài  sản đối với tác phẩm sau khi tác phẩm được hoàn thành. Các quyền nhân thân của tác giả vẫn thuộc   về tác giả đã sáng tạo ra tác phẩm theo quy định tại Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ. ­ Chủ  thể là cá nhân, tổ  chức được thừa kế  về  tài sản theo pháp luật về  thừa kế. Căn cứ  để  phát sinh quyền sở  hữu quyền tác giả  đối với tác phẩm là các chủ  thể  này thuộc đối tượng được   hưởng thừa kế  theo quy định của Bộ  luật Dân sự  2015 về  đối tượng hưởng thừa kế. Theo đó tổ  chức cá nhân được thừa kế quyền tác giả là chủ  sở hữu các quyền tài sản được quy định tại Điều  20 Luật Sở hữu trí tuệ và quyền nhân thân được quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật Sở hữu trí tuệ. ­ Chủ thể là cá nhân, tổ chức được chuyển giao quyền tác giả. Căn cứ  để  phát sinh quyền sở  hữu quyền tác giả đối với tác phẩm được xác định theo quy định của pháp luật về chuyển nhượng  quyền sở hữu quyền tác giả. ­ Chủ thể là Nhà nước. Nhà nước sẽ là chủ thể được hưởng quyền sở hữu quyền tác giả đối  với tác phẩm khi đó là tác phẩm khuyết danh; Tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà chủ sở hữu   quyền tác giả  chết không có người thừa kế, người thừa kế từ chối nhận di sản hoặc không được   quyền hưởng di sản; Tác phẩm được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao quyền sở hữu cho Nhà   nước. 2.2. Quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh Theo quy định của pháp luật, quyền tác giả gồm hai nhóm quyền quyền tải sản và quyền nhân   thân. Quyền nhân thân và quyền tài sản là hai quyền cơ  bản mà tổ  chức, cá nhân được pháp luật   SHTT trao cho đối với tác phẩm do mình sáng tác, là chủ sở hữu theo quy định của pháp luật SHTT,  cả tác phẩm gốc và tác phẩm phái sinh 2.2.1. Quyền nhân thân Quyền nhân thân của tác giả  là quyền bảo vệ sự toàn vẹn về  sáng tạo và danh tiếng của tác   giả  sáng tạo được thể  hiện thông qua tác phẩm như  đặt tên cho tác phẩm, đóng tên thật hoặc bút   danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố sử dụng công bố  tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố  tác phẩm, bảo vệ  sự  toàn vẹn của tác phẩm, không   cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm đưới bất kỳ hình thức nào gây phương  hại đến danh dự và uy tín của tác giả. 8
  9. Theo quy định của Luật SHTT: Quyền nhân thân là những quyền chi thuộc về  riêng tác giả  không thể chuyển giao cho bất kỳ ai dưới bất kỳ hình thức nào thậm chí trong trường hợp tác giả  đã chết bao gồm quyền đặt tên đứng tên tác phẩm và bảo vệ  sự toàn vẹn của tác phẩm riêng đối  với quyền công bố  tác phẩm có thể  chuyển giao được cho người khác. Bởi lẽ  quyền đặt tên đứng  tên tác phẩm và bảo về  sự  toàn vẹn của tác phẩm gắn liền với giá trị  nhân thân của tác giả  nên   không thể chuyển giao được trong khi đó quyền công bố tác phẩm mang tính chất tài sản nên có thể  chuyển dịch được cho người khác. Theo Điều 19 Luật SHTT năm 2005, các quyền nhân thân thuộc   quyền tác giả bao gồm các quyền sau đây: – Đặt tên cho tác phẩm. Việc đặt tên cho tác phẩm không áo dụng đối với tác phẩm dịch từ  ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác; – Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm   được công bố, sử dụng. – Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; là việc phát hành tác phẩm  đến công chúng với số  lượng bản sao đủ  để đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng tùy theo bản  chất của tác phẩm, do tác giả, chủ sở  hữu quyền tác giả  thực hiện hoặc do cá nhân, tổ  chức khác   thực hiện với sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu, điện ảnh, âm nhạc;  đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học, nghệ thuật; trưng bày tác   phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc. – Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc  tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.; trừ trường   hợp có sự thỏa thuận của tác giả. – Tác giả chương trình máy tính và các nhà đầu tư sản xuất chương trình máy tính có thể thỏa   thuận về việc đặt tên và việc phát triển các chương trình máy tính. 2.2.2. Quyền tài sản Quyền tài sản bảo vệ các lợi ích về kinh tế của tác giả và cho phép tác giả thu lợi bằng cách   khai thác trực tiếp hoặc gián tiếp tác phẩm của mình làm tác phẩm phái sinh biểu diễn tác phẩm   trước công chúng sao chép tác phẩm, phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, truyền   đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến vô tuyến, mạng thông tin điện từ hoặc   bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác, cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh chương  trình máy tính Nếu như quyền nhân thân của tác giả là quyền liên quan trực tiếp đến danh dự, uy tín của tác  giả  thì quyền tài sản gắn liền với lợi ích vật chất phát sinh từ  chính các tác phẩm do tác giả  sáng  tác. Những lợi ích vật chất này là hoàn toàn xứng đáng với công sức lao động để sáng tạo cũng như  9
  10. mọi chi phí đầu tư để xây dựng nên tác phẩm. Tại Điều 20 Luật SHTT năm 2005 cũng đã quy định  cụ thể về quyền tài sản của tác giả, cụ thể: Thứ nhất, quyền làm tác phẩm phái sinh: dựa trên tác phẩm đã có, tác giả, chủ sở hữu quyền   tác giả có quyền sáng tác ra tác phẩm phát sinh mới bằng hình thức thể hiện mới, khác với tác phẩm   gốc. Điều kiện quan trọng khi làm tác phẩm phái sinh là phải được sự đồng ý của tác giả tác phẩm   gốc đồng thời phải có nghĩa vụ trả tiền nhuận bút, thủ lao. Thứ  hai, quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng là việc chủ  sở  hữu quyền tác giả  thực   hiện hoặc cho phép người khác biểu diễn tác phẩm trước công công tại bất cứ nơi nào hoặc thông   qua các chương trình ghi âm, ghi hình mà công chúng có thể tiếp cận được. Thứ ba, quyền sao chép tác phẩm là quyền của chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện   hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản sao tác phẩm bằng bất kỳ  phương tiện hay   hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra bản sao dưới hình thức điện tử. Tuy nhiên có một số trường   hợp được sao chép mà không cần phải xin phép cũng như trả thù lao như tự sao chép một bản nhằm   mục đích nghiên cứu, giảng dạy của cá nhân không nhằm mục đích thương mại hay sao chép tác   phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu không quá một bản. Thứ tư, quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm: Phân phối tác phẩm là  việc tác giả  tự  thực hiện hoặc cho người khác thực hiện bằng bất kỳ  hình thức, phương tiện kỹ  thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được để bán cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng   khác bản gốc hoặc bản sao tác phẩm.  Thứ năm, quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến,   mạng thông tin điện từ hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác: tác giả, chủ  sở hữu quyền tác   giả thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc đưa tác phẩm hoặc bản sao tác phẩm đến  công chúng bằng các phương tiện hữu tuyến vô tuyến mang thông tin điện tử... mà công chúng có   thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian đo chính họ lựa chọn. Nhờ có sự thay đổi và phát triển   không ngừng của phương tiện truyền tải tác phẩm mà tác giả  có thể  dễ  dàng truyền tải tác phẩm   của mình đến được với công chúng một cách dễ dàng thuận lợi và tiết kiệm được nhiều chi phí. Thứ  sáu, quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính là  quyền của chủ sở hữu quyền tác gã thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc cho thuê để  khai thác, sử  dụng có thời hạn nhất định bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện  ảnh chương trình   máy tính. Tuy nhiên riêng với chương trình máy tính không được áp dụng quyền cho thuê trong  trường hợp chương trình đó không phải là đối tượng chủ  yếu để  cho thuê ví dụ  như  chương trình   máy tính đúng để điều khiển, vận hành các máy móc, thiết bị kỹ thuật khác. Qua đó, có thể  thấy rằng các quyền tài sản trên do tác giả, chủ  sở  hữu quyền tác giả  độc   quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện theo quy định của Luật SHTT năm 2005. Tuy   nhiên khi khai thác, sử dụng các quyền trên dù là một phần hoặc toàn bộ  thì đều phải xin phép và  10
  11. trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả. Đặc biệt hơn   nữa do tác giả tác phẩm gốc và tác giả tác phẩm phái sinh có mối quan hệ đặc biệt nên tác giả  tác   phẩm phải sinh khi nhận được hưởng nhuận bút, thủ  lao thì phải trích một phần lợi ích vật chất   này cho tác giả tác phẩm gốc. 2.3. Xâm phạm quyền tác giả đối với quyền tác phẩm gốc và tác phẩm phái sinh 2.3.1. Các hành vi xâm phạm quyền tác giả nói chung Theo quy định của pháp luật SHTT, tác phẩm phải sinh cũng được bảo hộ quyền tác giả  một  cách độc lập như  tác phẩm gốc. Tuy nhiên tác giả, chủ  sở  hữu quyền tác giả  tác phẩm phái sinh   được hưởng quyền tài sản và quyền nhân thân  ở  mức độ  và phạm vi khác nhau Pháp Luật SHTT   không quy định cụ thể thế nào là hành vi xâm phạm quyền tác gả mà chỉ liệt kê các hành vi bị coi là  hành vi xâm phạm quyền tác giả, cụ thể được quy định tại Điều 28 Luật SHTT năm 2005, gồm 16  hành vi xâm phạm quyền tác giả. Theo Điều 28 Luật Sở hữu trí tuệ hợp nhất năm 2019 quy định về  các hành vi xâm phạm quyền tác giả bao gồm: ­ Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. ­ Mạo danh tác giả. ­ Công bố, phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả. ­ Công bố, phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó. ­ Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến   danh dự và uy tín của tác giả. ­ Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ  sở  hữu quyền tác giả, trừ  trường   hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 của Luật này. ­ Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả  đối với   tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều   25 của Luật này. ­ Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả, không trả tiền nhuận  bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp quy định tại khoản   1 Điều 25 của Luật này. ­ Cho thuê tác phẩm mà không trả  tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật chất khác cho tác   giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả. ­ Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác phẩm đến công chúng  qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà không được phép của chủ sở hữu quyền  tác giả. ­ Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả. 11
  12. ­ Cố ý hủy bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện   để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình. ­ Cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong tác phẩm. ­ Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi   biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác  giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình. ­ Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo. ­ Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ  sở  hữu  quyền tác giả. 2.3.2. Hành vi làm tác phẩm phái sinh vi phạm quyền tác giả của tác phẩm gốc Thứ  nhất,  thực hiện tác phẩm phái sinh mà không được sự  đồng ý của tác giả, chủ  sở  hữu   quyền tác giả  đối với tác phẩm được dùng để  làm tác phẩm phái sinh Ví dụ  nếu muốn cách một   cuốn sách sang một ngôn ngữ  khác thì phải được sự  cho phép của chủ  sở  hữu cuốn tiểu thuyết.   Nếu cách một tác phẩm mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu thi đó bị  coi là hành vi xâm phạm  bản quyền tác giả. Thứ hai, mạo danh chiếm đoạt quyền tác giả như không ghi tên tác giả tác phẩm gốc. Đây là   hành vi sử  dụng tác phẩm của người khác mà không ghi tên tác giả  hay ghi tên một người không   phải là tác giả của tác phẩm đó.  Thứ ba, không trích dẫn tên tác phẩm thích, tên tác giả nguồn sử dụng tác phẩm.  Thứ tư, làm tác phẩm phái sinh với mục đích thương mại, không trả tiền thu lao cho tác giả tác  phẩm gốc. Ví dụ vụ tranh chấp tác quyền giữa ông Nguyễn Văn Ân với các bị  đơn Ông Võ Thành  Tân ­ Chủ Doanh nghiệp tư nhân Nhà sách Thanh Nghĩa, Công ty Cổ phần in Bến Tre và Nhà xuất   bản Thanh Niên Từ năm 1998, nhà sách Thành Nghĩa đã tự tiện tái bản tuyển tập “40 bài luận tiếng  Anh” do ông Ân biên soạn mà không xin phép tác giả, không trả tiền thù lao cho tác giả. Hơn nữa,   nhà sách còn thêm tên các động tác giả  đủ  đây là người không có thật. Bằng việc tự  ý gì thêm tên   đồng tác giả vào tuyển tập này khi tái bản các bên sử dụng tác phẩm đã xâm phạm đến quyền nhân  thân của tác giả . 3. Kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật. Mặc dù pháp luật SHTT của Việt Nam đã và đang được xây dựng và hoàn thiện để  phù hợp  với khung pháp lý của các Hiệp định Công ước mà Việt Nam là thành viên tuy nhiên quy định pháp   luật về bảo hộ quyền tác giả hiện nay vẫn còn nhiều vướng mắc. Nhìn chung, các quy định về tác   phẩm phái sinh quyền tác giả  đối với tác phẩm phái sinh còn vụn vặt chưa rõ ràng so với các quy   định chung khác cũng như  chưa thực sự  xuất phát từ  bản chất của đối tượng cần được bảo hộ  khiến cho việc áp dụng pháp luật còn nhiều khó khăn và vướng mắc.  12
  13. Đề hệ thống pháp luật SHTT của Việt Nam ngày càng được hoàn thiện hơn thì những hạn chế  trong quy định pháp luật về quyền SHTT nói chung và quyền tác  giả nói riêng cần phải được sửa  chữa và khắc phục. Chính vì vậy, tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau: Thứ nhất, cần ban hành một văn bản pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm phái  sinh. Việc xây dựng hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật quyền tác giả, quyền liên quan phải   được xác định là một vấn đề quan trọng và cần được quan tâm nhất hiện nay. Thực tế ở Việt Nam,   việc bảo hộ quyền tác giả nói chung cũng như quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh còn tồn tại   nhiều hạn chế  và bất cập. Do đó, cần phải xây dựng một hệ  thống văn bản pháp luật tập trung   điều chỉnh các vấn đề về quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh. Thứ hai, bổ sung khái niệm tác phẩm phái sinh và bổ sung định nghĩa từng loại tác phẩm phái  sinh. Qua quá trình tìm hiểu pháp luật SHTT có thể  thấy một số  quy định về  quyền tác giả  Việt  Nam còn cứng nhắc và khó áp dụng. Do đó, cần phải có sự thay đổi để  các quy định pháp luật trở  nên linh hoạt hơn và thể hiện được sự khái quát một cách trọn vẹn của pháp luật. Pháp luật SHTT   Việt Nam chưa có một định nghĩa hay sự khái quát về đặc điểm của các tác phẩm phái sinh mà chỉ  liệt kê các loại hình tác phẩm phái sinh sẽ  dẫn đến việc không thể  liệt kê hết các loại hình tác   phẩm phái sinh Vì vậy, tác và kiến nghị bổ sung quy định giải thích các thuật ngữ như sau ­ Tác phẩm dịch là tác phẩm mà nội dung của tác phẩm được chuyển từ  ngôn ngữ  này sang  ngôn ngữ khác mà không làm thay đổi nội dung của tác phẩm gốc. ­ Tác phẩm phóng tác: là tác phẩm được làm mới, sáng tạo về  nội dung và ý tượng dựa vào   việc phòng dựa theo một tác phẩm đã có. ­ Tác phẩm cải biên là tác phẩm mà nội dung không thay đổi nhưng thay đổi về hình thức thể  hiện so với tác phẩm gốc. ­ Tác phẩm chuyển thể là tác phẩm dựa vào nội dung tác phẩm gốc để sáng tạo thêm và có sự  thay đổi về loại hình nghệ thuật. ­ Tác phẩm biên soạn là tác phẩm được thu thập, chọn lọc từ nhiều nguồn khác nhau và được  biến tập theo tiêu chí cụ thể. Thứ ba,  cần hoàn thiện pháp luật về tố tụng đối với việc giải quyết các vụ án thanh chấp về  quyền sở hữu trí tuệ. Các vụ án tranh chấp về sở hữu trí tuệ được xử lý tại Toà án chiếm số lượng   không đáng kể so với các vụ việc được giải quyết theo biện pháp hành chính do thời gian giải quyết   kéo dài, tốn nhiều công sức, tiền của và thời gian. Do đó, cần phải hoàn thiện các quy định pháp   luật về tố  tụng để  tạo ra cơ  chế giải quyết thuận lợi, nhanh chóng và bảo đảm các quyền lợi ích   hợp pháp của các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Thứ tư,  pháp luật cản quy định rõ giới hạn đối tượng SHTT bị xử lý hành chánh Hiện nay, các biện pháp hành chính được các chủ thề  SHTT lựa chọn áp dụng để  giải quyết   tranh chấp về quyền SHTT nhiều hơn so với các biện pháp khác bởi có chế tài rõ ràng và khả năng   13
  14. đảm bảo thực thi của biện pháp này là tương đối cao. Do đó, cần phải khuyến khích giải quyết các  tranh chấp về quyền SHTT bằng biện pháp dân sự  từng bước chuyển dịch sang cơ chế giải quyết   tranh chấp tại Tòa án và trọng tài thương mại. Các cơ quan hành chính chỉ nên xử lý các vụ việc vi  phạm rõ ràng, các vụ việc có tính chất phức tạp hoác có bản chất là tranh chấp KẾT LUẬN Công ước Berne, Hiệp định TRIPS cũng như pháp luật về quyền tác giả của một số các quốc  gia trên thế giới đều bảo hộ loại hình tác phẩm phái sinh. Công ước Berne, Hiệp định TRIPS và các   điều  ước quốc tế  song phương mà các quốc gia ký kết được xem là chuẩn mực tối thiểu mả  các  quốc phải tuân thủ. Pháp luật SHTT Việt Nam về  quyền tác giả  cũng không nằm ngoài phạm vi   này. Việc kế  thừa, phát triển và sáng tạo các tác phẩm văn hóa nghệ  thuật, các nghiên cứu trong   lĩnh vực khoa học đã và đang trở  thành một yếu tố  mang giá trị  kinh tế  cao và đồng thời cũng góp   phần nâng cao đời sống tinh thần của mọi người trong nhu cầu thưởng thức các tác phẩm văn hóa,  nghệ thuật. Tuy vấn đề quyền tác giả đối với tác phẩm nói chung và đối với tác phẩm phái sinh nói   riêng không còn xa lạ ở Việt Nam những năm gần đây nhưng đây vẫn là một vấn đề vô cùng phức   tạp và được dư luận quan tâm. Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội và công nghệ thông tin vấn nạn xâm phạm quyền   tác giả  đối với tác phẩm phái sinh vẫn diễn ra khô biến và ngày càng tinh vi hơn. Pháp luật về  SHTT ngày càng được hoàn thiện và khắc phục được những khó khăn vướng mắc trước đây tuy  nhiên vẫn còn một số hạn chế và lỗ hổng cần khắc phục. Do vậy, việc nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam cũng như  thực trạng hiện nay về  vấn đề quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng và hoàn  thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hoạt động thực thi quyền tác giả. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung 2009 2. Hứa Hải Linh (2020), Quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh ở Việt Nam – Thực trạng và   giải pháp, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội. 3. Nguyễn Thị Lệ  Thu (2012), Quyền tác giả  đối với tác phẩm phái sinh ở  Việt Nam – Thực   trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội. 4. https://luatminhkhue.vn/tac­pham­phai­sinh­la­gi­.aspx 5. https://luatvietan.vn/tac­gia­va­chu­so­huu­quyen­tac­gia­co­la­mot.html 14
  15. 6.   https://luatminhkhue.vn/quyen­nhan­than­cua­tac­gia­duoc­phap­luat­quy­dinh­nhu­the­ nao­.aspx 15
nguon tai.lieu . vn