Xem mẫu

  1. HỌC VIỆN TƢ PHÁP KHOA ĐÀO TẠO CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ CÁC CHỨC DANH KHÁC ------------------- BÁO CÁO KẾT THÚC HỌC PHẦN CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ NGHỀ CÔNG CHỨNG Chuyên đề: Văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng Họ và tên:Nguyễn Văn Trung. Sinh ngày: 22 tháng 9 năm 1991. Số báo danh: 254. Lớp: Công chứng, khóa 23A (Buổi tối). Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 7 năm 2020.
  2. MỤC LỤC I. Phần mở đầu 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 3. Đối tượng nghiên cứu. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cưu và phương pháp nghiên cứu. 5. Bố cục của bài báo cáo. II. Phần nội dung Chương 1. Lý luận chung về công chứng và văn bản công chứng. 1.1. Khái quát về công chứng. 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển. 1.1.2. Khái niệm về công chứng. 1.1.3. Đặc điểm của công chứng. 1.2. Khái quát về văn bản công chứng. 1.2.1. Khái niệm văn bản công chứng. 1.2.2. Đặc điểm của văn bản công chứng . 1.2.3. Một số loại văn bản công chứng. Chƣơng 2. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng 2.1. Giá trị thi hành của văn bản công chứng.
  3. 2.2. Giá trị chứng cứ của văn bản công chứng. 2.3. Một số nội dung ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của văn bản công chứng. 2.4. Một số hạn chế, bất cập và giải pháp nâng cao tính pháp lý văn bản công chứng. 2.4.1. Hạn chế, bất cập và giải pháp liên quan đến cơ chế quản lý và phối hợp về công chứng. 2.4.2. Hạn chế, bất cập và giải pháp liên quan đến hệ thống pháp luật về công chứng. III. Phần kết luận IV. Danh mục tài liệu tham khảo
  4. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xã hội loài người, từ khi con người bắt đầu sở hữu tư liệu sản xuất họ dần bắt đầu hình thành mối quan hệ thông thương, trao đổi hàng hóa lẫn nhau. Các giao dịch mỗi ngày mỗi phát triển về số lượng lẫn chất lượng, đòi hỏi phải có một người trung gian đứng ra đảm bảo các giao dịch được thực hiện một cách thống nhất. Nghề công chứng cũng vì thế mà bắt đầu được manh nha, thoạt đầu công chứng viên chỉ đơn thuần là những người có uy tín, có học thức, được xã hội tin tưởng và giao phó cho nhiệm vụ làm trung gian cho các giao dịch trong xã hội được đảm bảo. Trên thế giới có rất nhiều trường phái công chứng khác nhau nhưng tựu trung lại không thể không nhắc đến hai trường phái công chứng điển hình là trường phái La-tinh và trường phái Anglo-Sacxon. Nếu như trường phái công chứng La-tinh chú trọng và nội dung của văn bản công chứng thì trường phái công chứng Anglo-Sacxon chỉ quan tâm đến hình thức công chứng mà không quan tâm đến các nội dung các bên tham gia giao dịch. Mặc dù mỗi trường phái có những quan điểm khác nhau về công chứng tuy nhiên chúng lại mang những ưu điểm và hạn chế nhất định. Tại Việt Nam, nghề công chứng xuất hiện cũng khá sớm nhưng thể hiện rõ nét nhất là từ thời kỳ Pháp thuộc. Do hoàn cảnh lịch sử, nên công chứng tại Việt Nam bị ảnh hưởng khá nhiều của nền công chứng Pháp. Sau hàng loạt các chính sách, văn bản hướng dẩn về quy định công chứng thì mãi đến năm 2006 chế định công chứng mới thực sự được ghi nhận tại một đạo luật riêng đó chính là Luật công chứng năm 2006. Sau gần 10 năm triển khai thực hiện, Luật Công chứng 2006 đã giải quyết rất nhiều những tồn tại trong lĩnh vực công chứng, tuy nhiên trước sự phát triển không ngừng của xã hội, Luật công chứng 2006 đã bộc lộ khá nhiều những hạn chế, bất cập và đó cũng là lý do mà Luật Công chứng năm 2014 được ban hành. Bản thân nhận thức được tầm quan trọng của văn bản công chứng trong xã hội hiện tại cũng như làm sáng tỏ các giá trị pháp lý của văn bản này, tôi quyết định bắt tay nghiên cứu và viết báo cáo với nội dung chuyên đề “Văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng”.
  5. 2 2. Mục đích nghiên cứu Bài cáo cáo sẽ được tác giả phân tích với mục đích vạch ra một bức tranh toàn cảnh về lịch sử hình thành và phát triển nghề công chứng tại Việt Nam. Mục tiêu tiếp theo mà bài báo cáo hướng đến chính là phân tích các quy định về văn bản công chứng và những giá trị pháp lý của văn bản công chứng theo quy định pháp luật của Việt Nam. 3. Đối tƣợng nghiên cứu Đề tài báo cáo sẽ tập trung phân tích đối tượng là văn bản công chứng đồng thời phân tích sâu về những giá trị pháp lý của văn bản công chứng theo quy định pháp luật về công chứng tại Việt Nam. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài Đề tài báo cáo về văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng được tác giả phân tích giới hạn bởi những quy định của pháp luật Việt Nam quy định về công chứng. Đề tài báo cáo trước hết sẽ được tác giả sử dụng biện pháp phân tích quy định pháp luật Việt Nam. Sau đó bằng các phương pháp như tổng hợp, so sánh, đối chiếu tác giả sẽ làm rõ những nội dung pháp luật Việt Nam có quy định liên quan đến lĩnh vực công chứng. 5. Bố cục của bài báo cáo Bài báo cáo học phần công chứng một với đề tài: “Văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ” bao gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung được bố cục thành hai chương và có kết luận của từng chương.  Chương 1. Lý luận chung về công chứng và văn bản công chứng.  Chương 2. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng.
  6. 3 CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG VÀ VĂN BẢN CÔNG CHỨNG 1.1. Lý luận về công chứng 1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển công chứng  Trường phái công chứng trên thế giới Từ thời điểm sơ khai, công chứng trên thế giới được phân chia thành nhiều trường phái khác nhau như: trường phái công chứng La tinh, trường phái công chứng Anglo-Sacxon. Trong đó, trường phái công chứng La tinh là trường phái quan tâm đến nội dung văn bản công chứng, “văn bản công chứng với giá trị là chứng cứ và giá trị thi hành hơ thế nữa nó là văn bản liên quan đến vận mệnh nghề nghiệp của công chứng viên”1. Trong khi đó, trường phái công chứng Anglo-Sacxon thì ngược lại, họ không chú trọng đến nội dung của giao dịch mà chỉ chú trọn đến hình thức của văn bản công chứng.  Quá trình hình thành và phát triển nghề công chứng tại Việt Nam Thời kì Pháp thuộc đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Hoạt động công chứng của nước ta ở giai đoạn này đều áp dụng theo mô hình của Pháp chủ yếu phục vụ cho chính sách cai trị của Pháp tại Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Tiêu biểu là Sắc lệnh ngày 24 tháng 8 năm 1931 của Tổng thống Cộng hòa Pháp về tổ chức công chứng ( được áp dụng ở Đông Dương theo quyết định ngày 7 tháng 10 năm 1931 của Toàn quyền Đông Dương theo quyết định ngày 7 tháng 10năm 1931 của Toàn quyền Đông Dương P. Pasquies). Thời kì sau cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1991. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, ngày 01 tháng 10 năm 1945 Bộ trưởng Bộ Tư Pháp ông Vũ Trọng Khánh đã ký quyết định về một số vấn đề liên quan đến hoạt động công chứng như: bãi chức công chứng viên người Pháp tên Deroche tại văn phòng công chứng, bổ nhiệm một công chứng viên người Việt Nam là ông Vũ Quý Vỹ đang là luật sư tập sự tại Tòa thượng thẩm Hà Nội thay thế cho công chứng viên người Pháp tại Hà Nội. Ngày 15 tháng11 1 Giáo trình kỹ năng hành nghề công chứng, NXB Tư pháp, Tr. 18.
  7. 4 năm 1945 Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 59/SL quy định về thể lệ thị thực các giấy tờ. Ngày 29 tháng 02 năm 1952 Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 85 quy định về thể lệ trước bạ về các việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất. Đến năm 1981 có Nghị định 143 của Hội Đồng Bộ trưởng quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp. Trên cơ sở của Nghị định 143, năm 1987 có thông tư số 574/QLTP quy định về công tác công chứng nhà nước được ban hành với cùng với nó là sự ra đời của phòng công chứng TP. Hồ Chí Minh, phòng công chứng Hà Nội và một số phòng công chứng ở các địa bàn khác. Thời kì từ năm 1991 đến trước khi Luật Công chứng năm 2006 có hiệu lực Giai đoạn này, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước. Tiếp đó, Chính phủ ban hành Nghị định 31/CP về tổ chức và hoạt động của công chứng Nhà nước vào ngày 18/5/1996 thay thế cho nghị định số 45/HĐBT. Ngày 08/02/2000 Chính phủ ban hành Nghị định 75/NĐ –CP về công chứng, chứng thực. Nghị định này quy định về phạm vi của công chứng, chứng thực; Từ thời kỳ Luật Công chứng 2006 đến Luật Công chứng năm 2014, nhằm khắc phục những hạn chế tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, Luật Công chứng 2006 ra đời xác định công chứng là một nghề và công chứng viên là người hành nghề công chứng. Đến ngày 20 tháng 6 năm 2014, Luật Công chứng năm 2014 được thông qua và thay thế Luật Công chứng năm 2006 và có giá trị thi hành cho đến nay. 1.1.2. Khái niệm về công chứng Căn cứ Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014, quy định: “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực và tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác và hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyên yêu cầu công chứng”. Theo như quy định trên thì công chứng trước hết là “việc”, tức một hành động thuộc về chủ thể được nhà nước và pháp luật trao quyền thực hiện
  8. 5 nhiệm vụ chứng nhận để xác định tính xác thực và tính hợp pháp của các họp đồng giao dịch cũng như tính chính xác và họp pháp của các bản dịch phát sinh trong đời sống xã hội tại Việt Nam. Từ quy định định nghĩa về công chứng, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, công chứng tại Việt Nam quan tâm và chú trọng vào nội dung của của các hợp đồng, giao dịch, bản dịch, cụ thể chính là việc đảm bảo các tính có thật và tính phù hợp quy định pháp luật, đạo đức xã hội của các giao dịch, điều này lại một lần nữa minh chứng công chứng Việt Nam có sự kế thừa và tiếp thu những giá trị tinh túy của quan điểm công chứng từ Pháp. 1.1.2. Đặc điểm của công chứng Ngay từ khái niệm công chứng quy định tại Khoản 1 Điều 2 của Luật Công chứng đã thể hiện rõ các đặc điểm cơ bản của công chứng, theo tác giả thì công chứng có những đặc điểm nhận biết cơ bản sau đây: Thứ nhất, Công chứng mang chức năng xã hội. Xuất phát điểm của công chứng là một lĩnh vực công thuộc trách nhiệm quản lý của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, trước sự phát triển của xã hội với nhu cầu ngày càng tăng về hoạt động công chứng cũng như hòa nhập vào xu hướng chung của thế giới, nhà nước dần chuyển giao cho các tổ chức tư nhân để thúc đẩy xã hội hóa nghề công chứng trong xã hội. Điều này được thể hiện cụ thể tại Điều 3 Luật Công chứng 2014, cụ thể như sau: “Công chứng viên cung cấp dịch vụ công do nhà nước ủy nhiệm thực hiện nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch; phòng ngừa tranh chấp; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; ổn định sự phát triển kinh tế - xã hội”2. Thứ hai, Công chứng trước hết là việc của công chứng viên, câu hỏi đặt tại sao phải là công chứng viên mà không phải là ai khác? Theo quy định Luật Công chứng 2014, quy định: “Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật này, được Bộ trưởng bộ Tư pháp bổ nhiệm để hành nghề công chứng”3. Công chứng viên là người đã được kiểm duyệt về trình độ, năng lực, kỹ năng hành nghề và được cơ quan có thẩm quyền công nhận đủ khả năng đảm đương trọng trách thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực công 2 Điều 3 Luật Công chứng năm 2014. 3 Khoản 2 Điều 1 Luật Công chứng năm 2014.
  9. 6 chứng. Thế nên, việc công chứng việc ủy thác cho chủ thể này mà không phải là bất kỳ một ai khác là phù hợp nhất. Thứ ba, Công chứng viên phải chứng nhận tính xác thực, chính xác, hợp pháp cũng như không trái đạo đức xã hội của hợp đồng, giao dịch và bản dịch. Theo đó, tính xác thực có nghĩa là công chứng viên phải xác định và đảm bảo được tính có thật từ giao dịch, chủ thể tham gia vào các giao dịch, hợp đồng đến đối tượng của hợp đồng, giao dịch, các giấy tờ có liên quan. Đối với tính hợp pháp và không trái đạo đức xã hội, công chứng viên cũng giữ vai trò để đảm bảo các giao dịch mà các bên đề nghị xác lập không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội, các chủ thể tham gia vào giao dịch cũng phải đảm bảo tính pháp lý của chính cá nhâ, tổ chức tham gia vào giao dịch, các đối tượng giao dịch phải được pháp luật cho phép giao dịch. Đây là đặc điểm rất quan trọng, đòi hỏi trách nhiệm cao của các công chứng viên nhằm đảm bảo tính an toàn pháp lý cho các bên tham gia giao dịch, đồng thời là đảm bảo tính an toàn cho công chứng viên thực hiện chứng nhận các giao dịch hợp đồng, bản dịch. 1.2. Khái quát về văn bản công chứng 1.2.1. Khái niệm về văn bản công chứng Căn cứ tại khoản 4 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014, quy định: “Văn bản công chứng là hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã được công chứng viên chứng nhận theo quy định của Luật này”. So với quy định tại Luật Công chứng 2006, thì Luật Công chứng 2014 ghi nhận thêm hình thức bản dịch cũng được thừa nhận là một trong các văn bản công chứng. Như vậy, theo quy định kể trên văn bản công chứng được hiểu là những tài liệu đã được công chứng viên chứng nhận về tính xác thực, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội hoặc tính chính xác của một bản dịch từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt. Các nhà soạn thảo Luật đã vận dụng cách thức liệt kê nhằm giới hạn rõ đâu được xem là văn bản công chứng, cụ thể bao gồm: Hợp đồng, văn bản giao dịch và các bản dịch. Và điều quan trọng là các văn bản công chứng phải được công chứng viên chứng nhận theo quy định. 1.2.2. Đặc điểm của văn bản công chứng Văn bản công chứng không đơn thuần là các loại giấy tờ, tài liệu được ghi chép các nội dung thông thường mà văn bản công chứng chứa đựng những ý chí của các bên tham gia vào hợp đồng, giao dịch mà quan trọng hơn
  10. 7 là ý chí, nguyện vọng đó được công chứng viên kiểm duyệt và chứng nhận. Thế nên, ngoài những đặc điểm thông thường của một văn bản, văn bản công chứng còn mang những đặc điểm riêng biệt như sau: Thứ nhất, văn bản công chứng phải mang tính chính xác, xét về bản chất công chứng là việc chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng giao dịch và tính chính xác hợp pháp của bản dịch. Do vậy, yếu tố đầu tiên làm điểm nhấn của văn bản công chứng phải là tính chính xác. Văn bản công chứng đòi hỏi sự chính xác đến từ nhiều khía cạnh như: phải chính xác về thời điểm, địa điểm công chứng, chính xác về chủ thể tham gia giao dịch, chính xác về các đối tượng tượng giao dịch… Thứ hai, văn bản công chứng phải đảm bảo về mặt hình thức. Hình thức cũng là một trong những yếu tố quyết định tính hiệu lực của một hợp đồng, giao dịch. Nếu một giao dịch dân sự đòi hỏi phải tuân thủ về mặt hình thức mà các bên tham gia giao dịch không đáp ứng thì rất có thể Tòa án sẽ tuyên giao dịch vô hiệu. Thứ ba, tính hợp pháp và không trái đạo đức xã hội. Văn bản công chứng không chỉ là văn bản ghi nhận lại ý chí các bên tham gia giao dịch, chúng còn là tài liệu, chứng cứ để phục vụ cho quá trình tố tụng tại các cơ quan tố tụng. Thế nên, nội dung của văn bản công chứng không được trái luật, các giao dịch mà các bên thỏa thuận trái pháp luật, công chứng viên phải có nghĩa vụ giải thích để các bên tự điều chỉnh ý chí, còn không công chứng viên có trách quyền từ chối chứng nhận các giao dịch bất hợp pháp mà các bên đề nghị. Đối với việc trái đạo đức xã hội, đây là một phạm trù khá rộng, còn tùy thuộc vào từng phong tục, tập quán tại mỗi địa phương, đòi hỏi công chứng viên ngoài kiến thức chuyên môn còn phải am hiểu kiến thức xã hội, đồng thời tự đưa ra các nhận định cho bản thân để xem xét liệu giao dịch đó có được xã hội thừa nhận để tránh những rủi ro pháp lý sau này công chứng viên phải tự gánh chịu. Thứ tư, văn bản công chứng phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục công chứng. Một văn bản công chứng có hiệu lực thi hành khi chúng phải được thực hiện theo đúng các nguyên tắc và trình tự, thủ tục theo quy định tại Luật Công chứng. Điển hình như từ giai đoạn thu thập các hồ sơ giấy tờ, soạn thảo văn bản công chứng đến ký tên, đóng dấu, phát hành và lưu trữ phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định mà Luật Công chứng 2014 quy định.
  11. 8 1.2.3. Một số văn bản công chứng - Hợp đồng, giao dịch: Theo quy định của Bộ Luật dân sự 2015 thì: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”4. Như vậy, theo khái niệm thì giao dịch dân sự là một phạm trù rộng, bao hàm cả hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương. Theo đó, Hợp đồng được hiểu là “sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”5. Như vậy, thật chất của Hợp đồng hay giao dịch dân sự là những nội dung làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên. Bộ Luật dân sự 2015 cũng tổng hợp và đưa ra một số loại hợp đồng thông dụng, thường xuất hiện trong xã hội để các bên căn cứ vào mục đích giao kết của mình mà lựa chọn hình thức phù hợp để xác lập quyền, nghĩa vụ của mình. Còn hành vi pháp lý đơn phương có thể hiểu là hành động, hoặc không hành động của chủ thể tham gia giao dịch dân sự làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ pháp lý của các bên, ví dụ như hành vi yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận tài sản riêng của vợ chồng, hoặc văn bản từ chối nhận di sản thừa kế… Trên các ý chí, nguyện vọng của các bên tham gia giao dịch, Công chứng viên có trách nhiệm xem xét, kiểm tra tính xác thực và hợp pháp của: chủ thể, đối tượng tham gia giao dịch… - Bản dịch: Bản dịch có thể được hiểu là là các văn bản, giấy tờ được phiên từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt. Căn cứ Luật Công chứng năm 2014 có quy định: “Việc dịch giấy tờ, văn bản tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sáng tiếng Việt để công chứng phải do người phiên dịch là công tác viên của tổ chức hành nghề công chứng thực hiện. Công tác viên phải là người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ hoặc đại học khác mà thong thạo thứ tiếng nước ngoài đó. Công tác viên phải chịu trách nhiệm đối với tổ chức hành nghề công chứng về tính chính xác, phù hợp của nội dung bản dịch do mình thực hiện” 6. Như 4 Điều 116 Bộ Luật dân sự năm 2015. 5 Điều 385 Bộ Luật dân sự năm 2015. 6 Điều 61 Luật Công chứng năm 2014.
  12. 9 vậy, về nguyên tắc công tác viên là người chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính phù hợp của nội dung văn bản mà mình đã dịch trước tổ chức hành nghề công chứng mà mình là công chứng viên. Tuy nhiên, người phải chịu trách nhiệm chứng nhận tính chính xác, tính hợp pháp trước các bên có liên quan đến bản dịch, trước cơ quan nhà nước và trước pháp luật lại chính là Công chứng viên. Do đó, đòi hỏi công chứng viên trước hết phải tuân thủ các nguyên tắc, quy trình, thủ tục công chứng về bản dịch để giảm thiếu đến mức tối đa các rủi ro pháp lý mà mình có thể gánh chịu trong việc chứng nhận bản dịch.
  13. 10 CHƢƠNG 2. GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG Văn bản công chứng không chỉ đơn thuần là ghi nhận ý chí của các bên tham gia vào các giao dịch dân sự, thương mại, đất đai, hôn nhân gia đình… mà chúng còn đảm nhận vai trò hết sức quan trọng, là cơ sở để các bên tham gia thực thi giao dịch, đồng thời cũng là cơ sở để các bên khởi kiện khi có phát sinh tranh chấp. 2.1. Giá trị thi hành của văn bản công chứng Các bên khi tham gia vào một giao dịch điều mà họ mong muốn nhất chính là các bên thực thi các nội dung đã được thỏa thuận. Do đó, giá trị đầu tiên của văn bản công chứng chính là cơ sở để các bên thực thi các thỏa thuận mà mình giao kết. Nội dung này được ghi nhận ngay tại Khoản 2 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014, cụ thể như sau: “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác.” Nghĩa là những gì đã thoả thuận trong văn bản công chứng thì có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên hợp đồng, giao dịch thậm chí đối với cả bên thứ ba. Trước hết, xét trong mối quan hệ giữa các bên tham gia hợp đồng, giao dịch thì điều tất yếu là những gì họ đã cam kết theo ý chí của họ phải được thực thi. Đây cũng là nguyên tắc bình đẳng, tự thỏa thuận được ghi nhận trong Bộ Luật Dân sự 2015. Vì vậy, giá trị thi hành của văn bản công chứng thật chất cũng là việc các bên phải có nghĩa vụ tuân thủ những nội dung mà chính mình đã cam kết thực hiện trong văn bản công chứng. Mặt khác, xét trong mối quan hệ với người thứ ba thì văn bản công chứng cũng có hiệu lực buộc người thứ ba phải tôn trọng và thi hành. Điển hình như: một hợp đồng ủy quyền để A nhân danh và đại diện B tham gia vào quá trình giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính là ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của B, thì cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không được quyền từ chối địa vị pháp lý của B mà phải thừa nhận tư cách đại diện của B trong quá trình giải quyết khiếu nại.
  14. 11 2.2. Giá trị chứng cứ của văn bản công chứng Giá trị chứng cứ được quy định cụ thể tại Khoản 3 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014: “Hợp đồng, giao dịch được công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu”7. Vậy như thế nào được hiểu là chứng cứ? Trong các quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Luật Tố tụng hành chính năm 2015 điều quy định về thuật ngữ chứng cứ. Cụ thể, theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, quy định: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”8 . Nhìn chung, tuy được quy định ở văn bản luật khác nhau nhưng chứng cứ suy cho cùng cũng chỉ là những gì có thật và được cung cấp theo trình tự tố tụng nhầm làm căn cứ đưa ra kết luận đối vụ việc có liên quan. Đồng thời, căn cứ tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, cụ thể: “Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng, chứng thực hợp pháp…”. Quay trở lại với văn bản công chứng, theo định nghĩa được quy định tại Điều 2 Luật Công chứng năm 2014 thì rõ ràng văn bản công chứng hội tụ đủ các yếu tố trở thành một chứng cứ và thậm chí chúng cũng thỏa mãn luôn cả yếu tố là chứng cứ không cần phải chứng minh. Văn bản công chứng trước hết nó phải là văn bản đảm bảo tính xác thực, tính xác thực này đã được công chứng viên kiểm định trước khi được hình thành. Các chủ thể tham gia, giao dịch xác lập, đối tượng giao dịch và đến những tài liệu, giấy tờ có liên quan đểu phải có thật. Luật Công chứng năm 2014 quy định các bên tham gia giao dịch cũng phải có trách nhiệm trong việc đảm bảo tính tính xác thực liên quan 7 Khoản 3 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014. 8 Điều 93 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
  15. 12 đến các giấy tờ, tài liệu trong quá trình công chứng9, mặc khác cũng không loại bỏ trách nhiệm kiểm tra, yêu cầu xác minh của công chứng viên để đảm bảo tính xác thực của giao dịch10. Bên cạnh tính có thật, văn bản công chứng còn được công chứng viên thẩm định cả về tính hợp pháp, không trái đạo đức xã hội. Nghĩa là công chứng viên cũng giống như một vị thẩm phán phòng ngừa, “vai trò phòng ngừa của Công chứng viên thể hiện ở chỗ: ngay khi lập hợp đồng, các bên giao kết hợp đồng đã củng cố chứng cứ về việc ký kết hợp đồng đó để đề phòng các tranh chấp về sau”11 họ là một chốt chặn quan trọng kiểm tra, đánh giá tính hợp pháp, không trí đạo đức đạo đức của giao dịch. “Tính xác thực do Công chứng viên chứng nhận biến các tình tiết, sự kiện có trong hợp đồng, giao dịch trở thành chứng cứ hiển nhiên trước Tòa”12. 2.3. Một số nội dung ảnh hƣởng đến giá trị pháp lý của văn bản công chứng Để đảm bảo một văn bản có giá trị pháp lý, làm căn cứ để các bên thực thi các nội dung đã thỏa thuận, cũng như đảm đương vai trò chứng cứ nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của các bên tham gia giao dịch và kể cả việc phân định trách nhiệm của công chứng viên, văn bản công chứng cần đảm bảo những nội dung cơ bản sau: Thứ nhất là về chủ thể, yếu tố đầu tiên cũng là yếu tố quan trọng để trả lời câu hỏi ai là người tham gia vào các giao dịch. Nhiệm vụ đầu tiên của một công chứng viên “…khi tiếp nhận yêu cầu công chứng trước tiên phải kiểm tra chủ thể tham gia trong văn bản công chứng, nếu xác định không đúng chủ thể thì văn bản công chứng sẽ bị vô hiệu theo quy định của pháp luật”13. Theo quy định của Luật Công chứng năm 2014 thì “Người yêu cầu công chứng phải xuất trình đầy đủ giấy tờ cần thiết liên quan đến việc công chứng và chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính hợp pháp của các giấy tờ đó”14. Như vậy, người yêu cầu công chứng vẫn phải có trách nhiệm đảm bảo 9 Khoản 1 Điều 47 Luật Công chứng năm 2014. 10 Khoản 5 Điều 40 Luật Công chứng năm 2014. 11 Nguyễn Văn Tâm, Phân tích giá trị pháp lý văn bản công chứng, Tr.5. 12 Đỗ Đức Hiển, Gía trị pháp lý văn bản công chứng, Luận văn Thạc sĩ Luật học (2013), Tr. 27. 13 Giáo trình Kỹ năng hành nghề công chứng, NXB Học viện Tư pháp, Tr.168. 14 Khoản 1 Điều 47 Luật Công chứng năm 2014.
  16. 13 việc tham gia vào giao dịch là chính mình mà không phải là bất kỳ ai khác nhằm đảm bảo tính trung thực, tự nguyện trong nguyên tắc của Bộ Luật dân sự 2015 và Luật Công chứng năm 2014. Mặc dù Luật Công chứng năm 2014 có quy định về tính chịu trách nhiệm của người yêu cầu công chứng đối với các giấy tờ họ cung cấp tuy nhiên Luật vẫn đặt trách nhiệm này cho công chứng viên trong việc phải xác định tính pháp pháp và tính xác thực của chủ thể tham gia vào giao dịch. Đây có thể xem là trách nhiệm khá nặng nề và vô cùng rủi ro của công chứng viên khi các vấn đề cố ý giả tạo của các bên tham gia giao dịch. Tuy nhiên với vai trò của mình, công chứng viên buộc phải thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình nhằm đảm bảo tính xác thực, hợp pháp của giao dịch. Thứ hai là về đối tượng của hợp đồng, giao dịch, đối tượng tham gia vào các hợp đồng, giao dịch phải là các đối tượng có thật, được phép giao dịch tại Việt Nam, mang tính hợp pháp và không trái đạo đức của xã hội. Nếu là tài sản thì phải thuôc phạm trù tài sản được quy định tại Điều 105 Bộ Luật dân sự năm 2015. Riêng với tài sản là bất động sản, thì khi tham gia vào các giao dịch, hợp đồng thì cần hết sức lưu ý đến địa điểm nơi có bất động sản làm cơ sở xác định thẩm quyền của Tồ chức hành nghề công chứng thực hiện chứng nhận. Điều này được cụ thể hóa tại Luật Công chứng năm 2014, cụ thể như sau: “Công chứng viên tổ chức hành nghề công chứng chỉ được công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản và văn bản ủy quyền liên quan đến việc thực hiện các quyền đối với bất động sản”15. Như vậy, Công chứng viên cần hết sức lưu tâm đến địa hạt mà bất động sản tọa lạc để xác định thẩm quyền công chứng của mình, tránh trường hợp sai thẩm quyền dẫn đến văn bản công chứng bị vô hiệu. Thứ ba là về hình thức văn bản công chứng, hình thức văn bản công chứng cũng là một nội dung hết sức quan trọng, quyết định đến hiệu lực của văn bản công chứng. Văn bản công chứng trước hết và nhất thiết phải thể hiện dưới hình thức văn bản, nếu là các giao dịch Luật bắt buộc phải công chứng 15 Điều 42 Luật Công chứng năm 2014.
  17. 14 thì văn bản đó phải được công chứng viên chứng nhận. Tiếng nói và chữ viết sử dụng trong văn bản công chứng phải thể hiện bằng tiếng Việt 16 (trừ bản dịch). Chữ viết trong văn bản công chứng phải dễ đọc, rõ nghĩa, không được viết tắt, ký hiệu, sử dụng các từ đa nghĩa, từ địa phương, văn bản công chứng cũng không được phép tẩy xóa, xen dòng, chừa dòng, đè dòng17. Các yêu cầu về đánh số trang, số tờ, ký, điểm chỉ hay đóng dấu giáp lai đều phải tuân thủ theo quy định của Luật Công chứng. 2.4. Một số hạn chế, bất cập và giải pháp nâng cao tính pháp lý văn bản công chứng 2.4.1. Hạn chế, bất cập và giải pháp liên quan đến cơ chế quản lý và phối hợp về công chứng Thứ nhất, liên quan đến tư cách pháp lý của các chủ thể tham gia giao dịch. Đây là tiêu chí đầu tiên và quan trọng bật nhất trong việc xác định giá trị pháp lý của văn bản công chứng cũng như tìm ẩn nhiều rủi ro nhất cho công chứng viên khi ngày càng nhiều thủ đoạn giả mạo tinh vi và phức tạp. Công chứng viên là người chịu trách nhiệm kiểm tra tính xác thực về tư cách chủ thể tham gia giao dịch trong khi đó việc cung cấp các giấy tờ, tài liệu chứng minh chủ thể tham gia giao dịch lại thuộc về các chủ thể tham gia giao dịch. Mặc dù hiện nay đã có một số phần mềm hỗ trợ kiểm tra các giấy tờ chứng minh tư cách pháp lý của chủ thể tham gia giao dịch tuy nhiên việc triển khai áp dụng là chưa đồng bộ. Do đó, theo kiến nghị của bản thân Bộ Tư pháp cần chủ trì phối hợp với một số bộ ngành có liên quan như Bộ Công an…để xây dựng hệ thống điện tử liên thông áp dụng chung thống nhất cả nước nhằm giúp các công chứng viên có đủ cơ sở pháp lý nhanh chóng kiểm tra tính thật, giả liên quan đến các giấy tờ tài liệu chứng mình tư cách chủ thể của các bên tham gia giao dịch. Thứ hai, liên quan đến đối tượng tham gia giao dịch nhất là các đối tượng có giá trị lớn, có đăng ký quyền sở hữu và đặc biệt là tài sản là bất động sản. Trách nhiệm tiếp tục được đặt trên vai công chứng viên troing việc xác 16 Điều 6 Luật Công chứng năm 2014. 17 Điều 45 Luật Công chứng năm 2014.
  18. 15 định tính xác thực và hợp pháp của đối tượng hợp đồng, giao dịch. Hiện nay, ở Thành phố Hồ Chí Minh có thành lập Trung tâm thông tin tư vấn công chứng trực thuộc Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ rất nhiều cho các công chứng viên trong việc tra cứu thông tin liến quan đến tài sản là đối tượng trong hợp đồng, giao dịch. Tuy nhiên, nói đến mức độ toàn diện thì Trung tâm chỉ đáp ứng được phần nào nhu cầu tra cứu của Công chứng viên. Mặc khác, một thực tế tồn tại hiện nay mà nhất là trong lĩnh vực giao dịch bất động sản các thông tin liên quan đến bất động sản chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với nơi tổng hợp, cập nhật thông tin. Điển hình như đối với trường hợp thực hiện quyền chuyển đổi, chuyển nhượng…quyền sử dụng đất thì đòi hỏi phải đáp ứng các điều kiện như: “Có giấy chứng nhận…Đất không có tranh chấp; Quyền sử dụng đất không bị kê biên…; Trong thời hạn sử dụng đất”18. Tuy nhiên, việc có được các thông tin trên còn phụ thuốc rất nhiều vào sự phối hợp của cơ quan quản lý nhà nước nơi có bất động sản. Do đó, để nâng cao tính pháp lý của các đối tượng tham gia giao dịch, hạn chế tối đa những rủi ro dẫn dến giao dịch, hợp đồng vô hiệu đòi hỏi phải có sự phối hợp liên thông giữa cơ quan quản lý hành chính về công chứng và đất đai. 2.4.2. Hạn chế, bất cập và giải pháp liên quan đến hệ thống pháp luật về công chứng Thứ nhất, quy định liên quan đến nội dung ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng tại Điều 48 Luật Công chứng năm 2014, theo đó Luật chỉ quy định trường hợp “Việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch sử dụng ngón trỏ phải; nếu không điểm chỉ được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái; trường hợp không thể điểm chỉ bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào”19, “quy định này vẫn chưa bao quát hết trường hợp nếu người yêu cầu công chứng, người làm chứng, 18 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013. 19 Khoản 2 Điều 48 Luật Công chứng năm 2014.
  19. 16 người phiên dịch bị cụt cả hai bàn tay không thể ký được và cũng không thể điểm chỉ được thì công chứng viên sẽ phải giải quyết tình huống này như thế nào khi mà Luật Công chứng vẫn chưa quy định cho trường hợp này” 20. Thứ hai, quy định tại “Điều 51 Luật Công chứng quy định công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch là chưa tương thích với quy định tại Điều 422 Bộ luật Dân sự năm 2015 . BLDS 2015 chỉ quy định sửa đổi, chấm dứt hợp đồng và việc hủy bỏ hợp đồng chỉ là một trong những trường hợp thuộc chấm dứt hợp đồng. Hay nói cách khác, phạm vi và nội hàm khái niệm “chấm dứt hợp đồng” bao quát hơn so với khái niệm “hủy bỏ hợp đồng”. Cụ thể, Điều 422 BLDS 2015 quy định chấm dứt hợp đồng trong các trường hợp sau: “1. Hợp đồng đã được hoàn thành; 2. Theo thỏa thuận của các bên; 3. Cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện; 4. Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện; 5. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp đồng không còn; 6. Hợp đồng chấm dứt theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật này; 7. Trường hợp khác do luật quy định”. Mặt khác, Bộ luật Dân sự cũng không quy định “bổ sung hợp đồng”. Do đó, quy định tại Điều 51 Luật Công chứng rõ ràng chưa phù hợp với BLDS”21. Từ những bất cập liên quan đến một số nội dung quy định của Luật Công chứng năm 2014, đòi hỏi các nhà lập pháp phải có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp thực tiễn cũng như nâng cao tính pháp lý của văn bản công chứng. 20 Nguyễn Khắc Cường, Kiến nghị hoàn thiện một số quy định của Luật Công chứng, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 22 (398), tháng 11/2019. 21 Nguyễn Khắc Cường, Kiến nghị hoàn thiện một số quy định của Luật Công chứng, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 22 (398), tháng 11/2019.
  20. PHẦN KẾT LUẬN Công chứng ngày càng thể hiện vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, giúp các giao dịch dân sự, thương mại, kinh tế, hôn nhân gia đình trong xã hội được đảm bảo về tính xác thực và tính hợp pháp, là hành lang pháp lý vũng chắc để các bên tham gia giao dịch thực hiện các nội dung mà mình đã cam kết, cũng như là căn cứ xác định các tình tiết làm chứng cứ chứng minh trong quá trình giải quyết vụ việc tranh chấp. Chính vị trí và vai trò của văn bản công chứng đòi hỏi không chỉ về tính trung thực của người yêu cầu công chứng, sự tinh tường, am hiểu pháp luật, minh bạch, công bằng của công chứng viên mà để ngày một nâng cao hơn chất lượng công chứng cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các yếu tố như xây dựng thể chế, trong đó chú trọng việc hoàn thiện văn bản pháp luật liên quan đến công chứng, cải cách hệ thống quản lý nhà nước về công chứng, mạnh dạn trong việc đẩy nhanh và mạnh nội dung đề án xã hội hóa về công chứng để đảm bảo dịch vụ công chứng không chỉ đảm bảo nhu cầu về số lượng mà phải cải thiện tốt cả tố yếu chất lượng nhằm mục tiêu đưa dịch vụ công chứng tại Việt Nam tiệm cận các nền công chứng tiên tiến trên thế giới.
nguon tai.lieu . vn