Xem mẫu
- BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU DI SẢN VĂN HÓA QUAN HỌ BẮC NINH
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN : ĐẶNG THỊ KIỀU OANH
LỚP : 20DLH3
SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ THẢO
- TP. HỒ CHÍ MINH, Tháng 6 năm 2021
MỤC LỤC
- 1. Đặt vấn đề
Trong dòng văn hoá và nghệ thuật âm nhạc dân gian chảy từ ngàn xưa, giữa sự
đa dạng và đa diện của các dòng dân ca: chèo của Thái Bình, Nam Ðịnh, chèo tàu
của Hà Tây, hát dặm Nghệ An, Hà Tĩnh, ca trù ca Huế, dân ca Nam bộ...vẫn lấp
lánh một dòng dân ca riêng biệt, đặc sắc và độc đáo, tựa như:
"Cây trúc xinh tang tình là cây trúc mọc...
Chị Hai xinh chị Hai đứng một mình vẫn xinh"
Ðó là dân ca Quan họ vùng Kinh Bắc Bắc Ninh. Quan họ vừa như một làn điệu
hội tụ "khí chất" của rất nhiều làn điệu dân ca. Cái trong sáng, rộn ràng của chèo.
Cái thổn thức, mặn mà của hát dặm. Cái khoan nhịp, sâu lắng của ca trù. Cái
khoẻ khoắn, hồn nhiên của dân ca Nam bộ. Nhưng trên hết, Quan họ mang "khí
chất" của chính Quan họ, là hồn của xứ sở Quan họ, là "đặc sản" tinh thần của
Kinh Bắc Bắc Ninh. Dân ca Quan họ quả là một tài sản vô giá của dân tộc Việt
Nam, nó cần được tiếp tục nuôi dưỡng, trân trọng gìn giữ và lưu truyền lại cho
các thế hệ mai sau, ở trong nước và cả cho cộng đồng Việt Nam hải ngoại.
Trong suy nghĩ đó tôi xin trân trọng giới thiệu những nét đặc sắc nhất của dân ca
Quan họ. Từ khái quát về quê hương Quan họ với những truyền thống xứ Kinh
Bắc, về các làng Quan họ, các lề lối ca hát và phong tục giao du. Ðến lời ca Quan
họ với sự phân tích về nội dung lời ca và nghệ thuật thơ ca. Âm nhạc trong dân
ca Quan họ cũng được điểm với những thể dạng, hình thức cấu trúc điển hình,
mối quan hệ giữa âm nhạc với hình thức lời ca...Và không thể thiếu được là một
số làn điệu Quan họ, vừa có kinh điển, vừa có cả cải biên, được trình bày bởi
tiếng hát dung dị, trữ tình của chính những liền anh, liền chị trên quê hương Quan
họ Kinh Bắc. Vì vậy tôi đã chọn đề tài: “Tìm hiểu dân ca quan họ Bắc Ninh” để
hiểu rõ hơn về môn nghệ thuật dân gian vùng Kinh Bắc này.
3
- 2. Nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển của dân ca quan họ Bắc
Ninh
Có rất nhiều khái niệm được đưa ra nhưng theo nghĩa thông thường "Dân ca" là
câu ca, điệu hát, bài hát được lưu truyền trong dân gian mà không rõ nguồn gốc,
tác giả. Người này nghe người kia hát thì nhớ và hát lại hay họ tự hát. Người
khác thấy hay và học theo nên thành bài rồi lan truyền dần dần rộng ra. Còn
“Quan họ” chính là một loại hình dân ca phong phú về giai điệu. Và được lưu
truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác qua phương thức truyền khẩu.
Hiểu theo nghĩa bao quát thì “Dân ca quan họ “(còn được gọi là dân ca quan họ
Bắc Ninh hay dân ca quan họ Kinh Bắc) là một hình thức hát giao duyên giữa các
liền anh liền chị. Đây là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng châu
thổ sông Hồng. Về mặt sáng tạo nghệ thuật, dân ca Quan họ được coi là đỉnh cao
của nghệ thuật thi ca.
Nằm ở bên bờ Bắc sông Hồng, vùng đất Kinh Bắc được bồi đắp lên và tưới tắm
bởi phù sa sông Hồng cùng rất nhiều con sông khác trong vùng. Địa hình chủ yếu
là đồng bằng. Cũng có núi có rừng nhưng không nhiều . Nên hầu như không cao
sâu vực thẳm, hiểm địa nguy đèo. Khí hậu vùng này khá ôn hòa, ít khi bão lũ hay
nắng hạn kéo dài. Ruộng đồng bằng phẳng, phù sa tươi tốt rất thuận lợi cho
canh tác nên đời sống nhân dân được nhẹ nhàng hơn các vùng khác trong nước.Vì
có đời sống kinh tế khá nên sinh ra nhiều hội hè đình đám mỗi dịp xuân về. Bắc
Ninh Kinh Bắc được mệnh danh là miền lễ hội. Đặc biệt, dân ca quan họ có
xuất xứ từ nơi đây là một làn điệu dân ca trữ tình, đã được UNESCO vinh danh là
“Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại”.
Ý nghĩa từ "Quan họ" thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen về mặt
từ nguyên của "quan" và của "họ". Điều này dẫn đến những kiến giải về Quan
họ xuất phát từ "âm nhạc cung đình", hay gắn với sự tích một ông quan khi đi qua
vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đã dừng
4
- bước để thưởng thức ("họ"). Một số quan điểm khác lại cho rằng Quan họ bắt
nguồn từ những nghi lễ tôn giáo dân mang yếu tố phồn thực chứ không phải
Quan họ có nguồn gốc từ âm nhạc cung đình, hoặc có quan điểm nhận định diễn
tiến của hình thức sinh hoạt văn hóa "chơi Quan họ" bắt nguồn từ nghi lễ tôn
giáo dân gian qua cung đình rồi trở lại với dân gian. Nhận định khác dựa trên
phân tích ngữ nghĩa từ ngữ trong các làn điệu và không gian diễn xướng lại cho
rằng Quan họ là "quan hệ" của một nhóm những người yêu quan họ ở vùng Kinh
Bắc. Tuy vậy vẫn chưa có quan điểm nào được đa số các học giả chấp nhận.
Quan họ là những sản phẩm sáng tạo nhất từ những thế kỉ của thời kì phong
kiến độc lập. Vào thời Lý Trần ( thế kỉ XI –XIV) khi các thành tựu văn hóa, nghệ
thuật dân gian nở rộ, cùng với sự am hiểu, quý trọng của các triều vua đã ảnh
hưởng đến quan họ từ giao duyên cổ sơ sang lối ca hát có lề lối, quy củ rõ ràng.
Tiếp đến thời Lê ( thế kỉ XV), đội ngũ trí thức đông đảo làm việc sáng tác quan
họ ngày càng được bổ sung. Thế kỉ XVIII dân ca quan họ đã có những hình tượng
đẹp, tế nhị, nội dung trữ tình sâu sắc, về làn điệu thì có sự giao lưu rộng rãi Bắc
Nam. Những năm đầu thế kỉ XX, các nghệ thuật khác của cả nước đã gia nhập
vào quan họ làm nó được cải biến và phát triển đến sau này.
Quan họ ngày nay không chỉ là lối hát giao duyên (hát đối) giữa "liền anh" (bên
nam, người nam giới hát quan họ) và "liền chị" (bên nữ, người phụ nữ hát quan
họ) mà 3 còn là hình thức trao đổi tình cảm giữa liền anh, liền chị với khán giả.
Một trong những hình thức biểu diễn hát quan họ mới là kiểu hát đối đáp giữa
liền anh và liền chị. Kịch bản có thể diễn ra theo nội dung các câu hát đã được
chuẩn bị từ trước hoặc tùy theo khả năng ứng biến của hai bên hát.. Họ hát
những bài ca mà lời là thơ, ca dao (phần lớn là thể lục bát, lục bát biến thể,...) từ
ngữ được trau chuốt, trong sáng, mẫu mực thể hiện các trạng thái tình cảm của
con người: nhớ nhung, buồn bã khi chia xa, tình yêu lứa đôi,...bằng một
ngôn ngữ giàu tính ẩn dụ.
Thời gian: từ mồng 4 Tết âm lịch, trong gần 3 tháng mùa xuân đầu năm, hội làng
ở các làng quan họ và các làng kề cận liên tiếp diễn ra. Suốt tháng 8 âm lịch lại là
5
- các hội lệ vào đám của các làng. Trong số các lễ hội làng quan họ, hội Lim (thị
trấn Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) mở vào 13 tháng giêng âm lịch, là hội
lớn nhất. Cho nên mùa xuân và mùa thu là mùa hội và mùa ca hát quan họ nhộn
nhịp, tưng bừng làng trên, thôn dưới.
3. Đặc trưng di sản quan họ Bắc Ninh
Trang phục Quan họ bao gồm trang phục của liền anh và liền chị.: Trang phục
của liền anh là áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá đầu
gối, thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài.Áo dài
bên ngoài thường màu đen,chất liệu là lương, the. Quần của liền anh là quần dài
trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới mắt cá chân, chất liệu bằng phin,
trúc bâu, màu mỡ gà, có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. Đầu liền anh đội
nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Ngoài ra còn có các phụ kiện như: ô đen, khăn tay,
lược, thắt lưng…Trang phục của liền chị thường được gọi là “áo mớ ba mớ
bảy”, có nghĩa là liền chị có thể mặc ba áo dài lồng vào nhau (mớ ba) hoặc là
bảy áo dài lồng vào nhau ( mớ bảy). Thành phần cơ bản gồm có: trong cùng là
một chiếc yếm có màu rực rỡ, thường làm bằng lụa truội nhuộm (có hai
loại yếm là yếm cổ xẻ dùng cho trung niên và yếm cổ viền dùng cho thanh nữ).
Bên ngoài yếm là một chiếc áo cánh màu trắng, vàng , ngà. Ngoài cùng là những
lượt áo dài năm thân. Chất liệu để may áo hầu hết là the và lụa. Liền chị mặc
váy sồi, váy lụa đôi khi có người mặc váy kép với váy trong bằng lụa, vải màu
lương, the.Trang phục của liền chị còn có nón quai thao, khăn mỏ quạ, thắt lưng
đeo dây xà tích. Khi hát ở ngoài trời, nam thường che ô còn nữ che nón thúng quai
thao để tăng thêm vẻ lịch sự duyên dáng.
Làn điệu Quan họ: Quan họ rất phong phú về làn điệu: la rằng, đường bạn kim
loan, cây gạo, giã bạn, hừ la, la hới, tình tang, cái ả, lên núi, xuống song,... Quan
6
- họ có 8 hình thức hát chủ yếu: hát thờ, hát hội, hát cầu đảo, hát đối đáp, hát
mừng, hát kết chạ và hát canh. Một cuộc hát quan họ hay một canh hát bao giờ
cũng có ba chặng: giọng Lề lối, giọng Vặt, giọng Giã bạn.
Giọng Lề lối: đây là giọng hát mở đầu, được diễn xướng với tốc độ chậm,
nhiều luyến láy, nhiều tiếng đệm. Đôi lúc nhịp phách không rõ ràng, âm điệu
thường ở âm khu tầm thấp, cữ hẹp.
Giọng Vặt: là các giọng thuộc phần chính của buổi hát. Có thể nói tính chất
nghệ thuật của Quan họ được thể hiện rõ ở giọng này. Âm nhạc ngắn gọn,
bố cục chặt chẽ, tiết tấu linh hoạt. Nội dung lời ca khá phong phú, số lượng
bài bản tương đối nhiều. Ví dụ như: Trống cơm, Qua cầu gió bay, Ngồi tựa mạn
thuyền,..
.Giọng Giã bạn: là giọng hát trước lúc chia tay. Số lượng bài bản ở giọng giã
bạn không nhiều nhưng chất lượng nghệ thuật của các bài ở giọng này khá
cao. Chủ đề chính của giọng này là tiễn biệt vì vậy giai điệu thường buồn,
nhưng rất mặn nồng, say đắm. Ví dụ như: Người ở đừng về, Kẻ bắc người
nam, Chia rẽ đôi nơi,...
Hát Quan họ là hình thức hát đôi đồng giọng: người hát dẫn, người hát
luồn, hát đối đáp dẫn giọng, luồn giọng một cách điêu luyện. Giọng của hai
người hát cặp với nhau phải tương hợp đến mức hai giọng trở thành một để
tạo ra một âm thanh thống nhất. Có 4 kỹ thuật hát Quan họ là: nền, rền,
vang, nảy.
Nền : Trước khi bàn đến yếu tố nền, không thể không nhắc đến đặc điểm sử
dụng tiếng đệm trong hát Quan họ. Tiếng đệm là những âm thanh không thuộc
phần lời thơ, như i, a, ơ, ư, hự, rằng, là, ru hời, tính tình tang.... Trong bài Quan
họ, tiếng đệm vừa làm nền như một dàn nhạc đệm, vừa là chất kết dính các âm
điệu của lời thơ, thông qua các nốt luyến, lướt, hoa mỹ, thêu tạo thành tuyến giai
điệu đặc trưng của Quan họ và chi phối nhiều đến kỹ thuật hát Quan họ. Tiếng
đệm thường thấy nhiều trong dân ca Việt Nam và mỗi thể loại có mức độ và
7
- cách thức sử dụng tiếng đệm khác nhau.. Trong Quan họ, tiếng đệm được sử
dụng nhiều, chúng cũng có chức năng đệm hơi, đệm nhịp hoặc cả đệm nghĩa,
làm cho giai điệu bài hát phát triển, tuy nhiên đặc thù của tiếng đệm trong hát
Quan họ là chúng có vai trò thay cho dàn nhạc đệm, làm nền cho lời thơ và hỗ trợ
cho các yếu tố vang, rền, nẩy.
Rền: Rền là đặc điểm âm thanh trong câu hát hay trổ hát có độ rung đều đều, liên
tục không dứt. Rền trong Quan họ có được nhờ cách hát luyến láy và rung giọng,
giai điệu phát triển liên tục. Rền tạo nên sắc thái âm thanh đặc trưng của phong
cách hát Quan họ.
Nẩy: Nẩy hay còn gọi là nẩy hạt là đặc điểm âm thanh bị tắc lại ở họng, sau đó
được bật ra ngoài tạo thành độ nẩy của âm thanh. Nẩy hạt thường rơi vào những
âm ở họng hoặc tắc họng như ư, hự, í ợ, ạ. Có 2 kiểu nẩy hạt:
Kiểu 1:Sau khi tắc lại ở họng, âm được bật ra, tiếp tục kéo dài và có độ rung
giọng như trường hợp âm ơ, hự, ạ trong câu Bỉ của bài Gọi đò...
Kiểu 2:Sau khi tắc họng, âm bật ra và dừng lại đột ngột như trong câu la hự, ối
hự của bài Tìm người, hoặc câu mía í ơ trong bài Cái ả..
Nẩy hạt có thể xem như những điểm nhấn trong chuỗi âm thanh rền, làm cho
câu hát, trổ hát thêm ấn tượng và độc đáo. Kỹ thuật nẩy hạt không chỉ có trong
Quan họ mà còn thấy ở một số thể loại khác như: Chèo, Ca trù. Tuy nhiên, mỗi
thể loại lại có cách nẩy hạt khác nhau. Kỹ thuật hát nẩy hạt trong hát Quan họ
rất khác biệt làm cho phong cách hát Quan họ không giống với các thể loại dân
ca khác
Vang: Vang là đặc điểm âm thanh truyền đi mạnh và lan toả rộng ra xung quanh.
Những yếu tố hỗ trợ vang trong hát Quan họ gồm: giai điệu bài hát phát triển
liên tục, sử dụng nhiều âm thêu, luyến, nốt hoa mỹ, âm đệm mởn hươ, í ơ, í a...
với độ ngân dài. Tuy vậy, hát vang trong Quan họ lại có điểm khác biệt với
các thể loại dân ca khác. Chẳng hạn, vang của thanh nhạc được ngân, nghỉ
8
- vào những âm ở cuối tiết, câu hoặc đoạn nhạc. Còn vang trong hát Quan họ là
nhờ vào tuyến giai điệu phát triển liên tục, kết hợp luyến láy và ngân
những âm đệm mở tạo nên, đồng thời vẫn giữ được các yếu tố rền, nền,
nẩy.Chính vì vậy, cách hát vang của Quan họ mang nét đặc thù, cần có kỹ thuật
hát phù hợp.
Sự kết hợp các yếu tố vangrềnnềnnẩy trong bài hát Quan họ tạo ra sắc thái
âm thanh đặc trưng của bài hát Quan họ. Quan họ được chia thành hai loại là
quan họ truyền thống và quan họ mới:
Quan họ truyền thống: “ chơi quan họ”, là hình thức tổ chức văn hóa với quy
định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi các liền anh, liền chị phải am hiểu tiêu
chuẩn, luật lệ, chỉ tồn tại ở 49 làng. Nó không có nhạc đệm, chủ yếu hát đôi
giữa liền anh, liền chị. Hát đôi được gọi là hát hội, hát canh. Hát cả bọn được
gọi là hát chúc, mừng, thờ. “Chơi quan họ” truyền thống không có khán giả,
người trình diễn là người thưởng thức. các bài quan học òn ưu thích đến giờ
là La rẳng, Tình tang, Cái ả, Cây Gạo.
Quan họ mới: “ hát quan họ”, là hình thức biểu diễn trên sân khấu hoặc
trong sinh họat cộng đồng, thực tế thì được trình diễn bất kì ngày nào, luôn có
khán thính giả, người hát còn trao đổi tình cảm với người nghe. Quan họ mới
không nằm trong không gian làng xã mà còn vươn ra nhiều nơi, ở quốc gia và cả
thế giới. Có hình thức biểu diễn phong phú hơn, gồm hát đơn, hát đôi, hát
tốp, hát múa phụ họa,.. có cải biến các bài hát theo hai cách: ý thức và không ý
thức. Hát quan họ có nhạc đệm là không ý thức, còn cải biên có ý thức là cải
biến cả nhạc và lời của quan họ truyền thống
Phong tục trong đám hội: Quan họ nam mời trầu Quan họ nữ. Sau đó họ hát
với nhau những lời ướm hỏi, nếu tâm đầu ý hợp họ sẽ hẹn nhau ở làng bên
nữ để tổ chức lễ kết nghĩa. Lễ kết nghĩa được bắt đầu bằng những lời thăm hỏi
tận tình hoặc những lời thề thốt. Sau đó, họ lại có buổi gặp nhau ở bên nam.
Tại đây họ có thể hát thâu đêm suốt sáng để thổ lộ với nhau về tình cảm. Căn
9
- cứ vào sự đồng nhất về cữ giọng, âm sắc, họ xếp thành từng cặp: Anh CảChị
Cả, anh Haichị Hai, anh Ba –chị Ba, anh Tư –ch ị Tư... L ời ca trong quan h ọ ch ủ
yếu nói về tình yêu nam nữ, sự gắn bó thủy chung. Nhưng trên thực tế họ không
hề nghĩ đến chuyện yêu nhau mà chỉ quan hệ trên cơ sở bình đẳng tôn trọng lẫn
nhau. Họ gọi nhau bằng anh, chị và xưng em hoặc tôi. Thời gian kết nghĩa của
người Quan họ có thể từ đời này sang đời khác hay có khi chỉ một vài năm. Địa
điểm ca hát Quan họ thường là ở sân nhà, trước cửa đình , cửa chùa, dưới gốc
đa, bên sườn đồi, trên thuyền, bến nước...Hàng năm, mỗi khi đình đám hội hè,
làng có hội phải cử đôi Quan họ đến các làng Quan họ kết chạ để mời. Đúng
hẹn, các Liền anh Liền chị được mời đến đông đủ. Ngay từ cổng làng, cổng
đình chùa, Quan họ chủ nhà đã ra đón khách: Tay bê cơi trầu miệng hát mời đón
khách bằng những lời ca nghe ngọt ngào, tế nhị. Sau đó, Quan họ chủ nhà mời
quan họ bạn đi lễ Phật, lễ thánh, hát hội. Và ngày xưa hát hội là để giao lưu văn
hoá giữa các bọn Quan họ nam và nữ, chứ không thi hát lấy giải. Vui chơi hát hội
đến sẩm tối, quan họ chủ nhà mời Quan họ bạn về nhà ông (bà) Trùm để hát
canh vào mỗi canh Quan họ thường thâu đêm đến sáng.
Vào canh Quan họ, các Liền anh Liền chị ngồi trên tràng kỷ hoặc phản thành
bọn nam riêng và bọn nữ riêng để hát đối đáp và bao giờ cũng phải hát bằng hệ
thống giọng lề lối như Hừ La, La Rằng..., sau đó chuyển sang giọng Sổng, giọng
Bỉ, giọng Vặt và cuối cùng là giọng Giã Bạn. Bao giờ, giữa canh quan họ, quan
họ chủ nhà cũng mời cơm quan họ.Trong khi ăn uống, Quan họ luôn mời mọc
nhau bằng những lời ca, tiếng hát nghe ngọt ngào, tế nhị. Ăn uống xong, các bọn
Quan họ nghỉ ngơi chốc lát, sau đó lại hát tiếp đến khi nghe thấy tiếng chuông
chùa thỉnh mới tàn canh Quan họ và chia tay nhau để ra về. Quan họ chủ nhà tiễn
bạn ra tận đầu làng và còn lưu luyến nhau bằng đôi câu Quan họ để đến hẹn lại
lên.
Cách thức sáng tác một bài bản Quan họ mới được người Quan họ khái quát
trong một câu nói: "Ðặt câu, bẻ giọng". Ðặt câu là sáng tác lời ca, thường là thơ,
bẻ giọng là phổ nhạc cho lời ca ấy. Như vậy việc sáng tác lời thơ làm lời ca
10
- thường diễn ra trước, sau đó là phổ nhạc cho lời ca. Cách thức sáng tác này cho
phép được lấy một đoạn thơ, một bài thơ, một đoạn ca dao có sẵn trong vốn thơ
ca dân gian, dân tộc để phổ nhạc. Ai cũng nghĩ tiếng hát Quan họ là tiếng hát cầu
duyên, cầu phúc, cầu lộc, cầu tài, cầu may và có thể là cái cầu nối với đất trời,
thần, phật để thỉnh cầu: cầu mưa, giải hạn, tiêu trùng... Chính tâm lý này đã tạo
nên những thói quen, phong tục đẹp của làng xã, gia đình đối với những người ca
hát Quan họ, đối với hoạt động ca Quan họ, do đó, góp phần quan trọng vào việc
giữ gìn, phát triển Quan họ bền vững, lâu dài.
4. Giá trị của dân ca quan họ Bắc Ninh
Dân ca Quan họ Bắc Ninh không chỉ là một loại hình văn hóa dân gian xứ Kinh
Bắc, mà đã lan tỏa trong và ngoài nước, mang những giá trị văn hóa Việt kết nối
cộng đồng. Trở thành một loại hình nghệ thuật đạt tới trình độ cao về diễn
xướng, lời ca và âm nhạc… tổng hợp, hòa quện với các phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, lễ hội… đậm chất trữ tình, hào hoa, thanh lịch. Thứ nhất đó chính là giá
trị nghệ thuật trong lời ca Quan họ: Không chỉ có tình cảm giữa con người với
con người mà lời ca Quan họ còn nhắc đến tình yêu quê hương đất nước, cảnh
đẹp non sông, ước vọng, khát khao của con người yêu và được yêu, được yên
bình, được thỏa khát vọng tự do, ý niệm tâm linh ,những ước muốn về sự đoàn
kết, thủy chung giữa con người với con người, sự hòa hợp của con người với
thiên nhiên.Thứ 2 đó là giá trị hiệu ứng xã hội: Dân ca Quan họ có những ảnh
hưởng hết sức mạnh mẽ tới đời sống người dân, giúp cho đời sống tâm hồn
thêm phong phú trong lao động, sản xuất và sinh hoạt. Và từ trong cuộc sống sinh
động lại tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển của Dân ca Quan họ.Về nhận
thức cuộc sống: Quan họ giúp người dân không chỉ trở thành những con người
hòa đồng, giản dị chân thành, mà còn biết thể hiện ước mơ, khát khao một cuộc
sống yên bình; nhận thức được sự thay đổi của đời sống xã hội để có những sự
tự chuyển hóa, tự thích nghi để đáp ứng những nhu cầu về văn hóa, nghệ thuật,
đời sống của dân vùng Quan họ; họ nhận thức được giá trị của Quan họ trong
đời sống của chính họ với những ngày hội được vui vẻ ca hát, là nơi được phô
diễn những dồn nén mà trong cuộc sống thường nhật họ không thể hiện được.
Trong làn điệu Quan họ chúng ta là mối quan hệ bình đẳng có sự tôn trọng lần
nhau, bình đẳng giữa nam và nữ, giữa các thân phận khác nhau.. Điều này giúp
cho cộng đồng người dân vùng quan họ biết cần phải tôn trọng nhau, bình đẳng
11
- về mọi giá trị của cuộc sống… Quan họ với những lề lối, cách giao tiếp có phần
chặt chẽ đã giúp hình thành một lề lối, cách ứng xử của người hát Quan họ một
cách nhân văn, thanh lịch.Ngoài ra người dân vùng Quan họ còn có thể đưa các
giá trị dân ca Quan họ trở thành nguồn lực để phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống vật chất cho nhân dân. Nhờ đó mà ý thức về việc cần phải bảo tồn một
cách triệt để các giá trị nghệ thuật đặc sắc ấy để phát huy, đưa chúng trở thành
thế mạnh cho vùng. Thứ 4 là giá trị cố kết cộng đồng: Với những giá trị của
Quan họ mang lại, chúng giúp cho các vùng Quan họ có sự cố kết cộng đồng
vững chắc... Nhờ đó mà ý thức về việc cần phải bảo tồn một cách triệt để các
giá trị nghệ thuật đặc sắc ấy để phát huy, đưa chúng trở thành thế mạnh cho
vùng. Cuối cùng đó là lưu truyền tri thức dân gian: Giá trị nghệ thuật và giá trị
ứng xử xã hội trong lời ca Quan họ thể hiện những khát khao yêu thương giữa
con người với con người,
5. Kết luận
Ngày nay, trước sức ép của xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, quốc tế hóa về
văn hóa và sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng, nhiều ưu thế của các loại hình văn
hóa, nghệ thuật, cũng như nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể khác, Quan
họ Bắc Ninh cổ cũng phải đối mặt với một thách thức lớn là nguy cơ bị mai một,
thậm chí có thể bị mất hẳn nếu không kịp thời có biện pháp bảo vệ lâu dài cho
thế hệ trẻ. Bởi vậy, lề lối sinh hoạt ca hát Quan họ cổ, những giọng hát cổ với
kỹ thuật “vang, rền, nền, nẩy” vốn đã làm nên giá trị đặc sắc của dân ca Quan họ
hiện đang lưu tồn trong trí óc và trái tim say nghề của các cụ “Liền anh, Liền
chị” nay đã trạc tuổi 70 đến 90 rất cần được trao truyền và tiếp nối.
DANH MỤC THAM KHẢO
1. Bất động sản VIỆT NAM REATIMES CƠ QUAN NGÔN LUẬN CỦA HIỆP
HỘI BĐS VIỆT NAM.(2020). Bắc Ninh Kinh Bắc: Đất và người. Truy cập từ:
https://reatimes.vn/bacninhkinhbacdatvanguoi1596899451479.html. [Ngày
truy cập 2/6/2021]
2. TRƯỜNG TRUNG CẤP VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BẮC GIANG.
(2019). Giá trị nghệ thuật trong lời ca quan họ và giá trị hiệu ứng xã hội. Truy
12
- cập từ: http://vhntbacgiang.edu.vn/2019/06/28/giatringhethuattrongloicaquan
hovagiatrihieuungxahoi/#:~:text=D%C3%A2n%20ca%20Quan%20h
%E1%BB%8D%20c%C3%B3%20gi%C3%A1%20tr%E1%BB%8B%20l
%C6%B0u%20truy%E1%BB%81n%20tri,tri%E1%BB%83n%20b%E1%BB%81n
%20v%E1%BB%AFng%2C%20l%C3%A2u%20d%C3%A0i. [Ngày truy cập
4/6/2021]
3. Asdfcs Fsdfd.(2013).Tiểu luận: Tìm hiểu di sản văn hóa Quan họ Bắc Ninh.
Truy cập từ: https://tailieu.vn/doc/tieuluantimhieudisanvanhoaquanhobac
ninh1601510.html. [ Ngày truy cập 2/6/2021].
4. Lê Đình Hưng. Tiểu luận tìm hiểu hát quan họ Bắc Ninh . Truy cập từ:
https://123docz.net//document/3104725tieuluantimhieuhatquanhobac
ninh.htm. [ Ngày truy cập 5/6/2021]
5. Luyến Nguyễn.(2020). Dân ca Quan họ Bắc Ninh là gì và nguồn gốc. Truy cập
từ: https://www.vntrip.vn/camnang/dancaquanhobacninh5443. [Ngày truy
cập 3/6/2021]
6. Hà Việt.(2019). Lan tỏa Quan họ Bắc Ninh trong nền văn hóa dân tộc . Truy
cập từ: https://baodantoc.vn/lantoaquanhobacninhtrongnenvanhoadantoc
1576033875099.htm. [Ngày truy cập 4/6/2021]
PHỤ
LỤC
13
- Hình 1. Trang phục quan họ.Nguồn: ST ( https://cdn.vntrip.vn/camnang/wp
content/uploads/2017/03/netduyentrongquanghobacninh.jpg)
Hình 2: Các liền chị hát quan họ.Nguồn: sưu tầm
(https://rt.mediacdn.vn/213132630616088576/2020/8/8/bacninh2
15969035295181097936148.jpg. )
14
- Hình 3: Các làn điệu quan họ. ẢNH: sưu tầm
(https://rt.mediacdn.vn/213132630616088576/2020/8/8/bacninh
15969035291221674144097.jpg. )
Hình 4: Hát quan họ trên thuyền.ẢNH: ST (https://cdn.vntrip.vn/camnang/wp
content/uploads/2017/03/4_quan_ho_hoi_lim10_28_43_294.jpg. )
15
nguon tai.lieu . vn