Xem mẫu

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - TIN HỌC TP. HỒ CHÍ MINH KHOA NGOẠI NGỮ -----------   ----------- TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI: ĐẶC ĐIỂM VÕ BÌNH ĐỊNH GVHD: TRẦN LONG SINH VIÊN: ĐỖ THỊ KIM ANH MSSV: 20DH710585 SỐ TT: 02 LỚP: A22002 NĂM HỌC: 2020-2021
  2. MỤC LỤC PHẦN TỔNG QUAN ...........................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................2 2. Mục đích nghiên cứu đề tài...............................................................2 3. Đối tượng nghiên cứu ...........................................................................2 4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................2 5. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu ................................2 PHẦN NỘI DUNG ...............................................................................................3 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN.............3 1.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................3 1.1.1. Tổng quan về võ cổ truyền .....................................................3 1.1.2. Tổng quan về võ cổ truyền và võ cổ truyền Bình Định ...............................................................................................................3 1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................5 1.2.1. Điều kiện tự nhiên.......................................................................5 1.2.2. Điều kiện xã hội ..........................................................................5 CHƯƠNG II: VÕ CỔ TRUYỀN BÌNH ĐỊNH NHÌN TỪ THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN VĂN HÓA ........................................................6 2.1. Võ cổ truyền Bình Định nhìn từ thời gian...............................6 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ...........................................6 2.1.2. Võ cổ truyền Bình Định qua các thời kì...........................7 2.1.2.1. Thời kì trước Tây Sơn ........................................................7 2.1.2.2. Thời kì Tây Sơn ....................................................................9 2.1.2.3. Thời kì nhà Nguyễn ............................................................10 2.1.2.4. Thời kì cận - hiện đại .....................................................12 2.2. Võ cổ truyền Bình Định nhìn từ không gian văn hóa .......13
  3. 2.2.1. Võ cổ truyền Bình Định ở huyện Tây Sơn-Bình Định.13 2.2.2. Võ cổ truyền Bình Định ở thị xã An Nhơn-Bình Định .....................................................................................................................13 2.2.3. Võ cổ truyền Bình Định ở huyện Tuy Phước-Bình Định .....................................................................................................................13 CHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM VÕ CỔ TRUYỀN BÌNH ĐỊNH............14 3.1. Sự đa dạng..........................................................................................14 3.2. Nội dung võ cổ truyền....................................................................15 3.3. Võ đạo ..................................................................................................16 3.3.1. Truyền thống thượng võ, chống ngoại xâm........................16 3.3.2. Truyền thống uống nước nhớ nguồn.....................................16 3.3.3. Truyền thống võ sĩ đạo và trọng nhân nghĩa ..................17 3.4. Võ lý .....................................................................................................19 3.5. Về khía cạnh võ thuật ....................................................................19 PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................20 TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................21
  4. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam PHẦN TỔNG QUAN Không biết từ bao giờ người dân trên khắp mọi miền đất nước Việt Nam đều thuộc lòng câu ca dao: “ Ai về Bình Định mà xem Con gái Bình Định đánh roi đi quyền”. Dù không nói ra, nhưng đó chính là niềm tự hào của mỗi người dân Bình Định nói riêng và người dân trong cả nước nói chung. Lần tìm về cội nguồn văn hóa, chúng ta còn vui thay khi tinh thần dụng võ ấy lại bắt đầu từ một lịch sử oai hùng của dân tộc. Mấy trăm năm đã trôi qua, nhưng những chiến tích lẫy lừng của Vua Quang Trung- Nguyễn Huệ chỉ huy hàng vạn binh sĩ áo vải cờ đạo đánh tan hàng vạn quân Thanh xâm lược vẫn còn sống mãi. Võ cổ truyền Bình Định đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng từ đó. Đỗ Thị Kim Anh 1
  5. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam 1. Lý do chọn đề tài Trong thời đại hiện nay, khi mà công nghệ phát triển vược bật, nó đã bỏ xa các giá trị truyền thống quý báo của dân tộc. Khi mà một bộ phận người đã dần đánh mất các giá trị cao quý vốn có đó. Thì nghiên cứu các vấn đề để khơi dậy một nền văn hóa đã phát triển hết sức rực rỡ trong quá khứ. Mà đặc biệt là nền võ thuật cổ truyền của dân tộc nói chung và võ cổ truyền Bình Định nói riêng , đây là võ cổ truyền dân tộc cần được kế thừa và phát huy các giá trị hết sức cao đẹp vốn có của nó. Với tư cách là người thích tìm hiểu về võ thuật nước nhà mà đặc biệt là võ cổ truyền dân tộc thì võ cổ truyền Bình Định là một đề tài tiêu biểu cho vấn đề cần nghiên cứu. 2. Mục đích nghiên cứu đề tài Là một người được sinh ra và lớn lên tại Bình Định, nhưng bản thân chưa biết và hiểu hết về đất và người Bình Định cũng như những nét văn hóa đặc sắc truyền thống của vùng đất này đặc biệt là võ. Vì vậy tìm hiểu và nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích giúp tôi và mọi người hiểu thêm về Bình Định, muốn phát huy tác dụng cuả việc học và dạy võ, có thể giới thiệu cho mọi người những lý luận và kiến thức cơ bản về võ thuật Bình Định. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là đặc điểm võ cổ truyền Bình Định 4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là tổng hợp, phân tích và so sánh. Sử dụng những tài liệu nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, qua các bài viết, các tư liệu qua các phương tiện sách báo, internet… Qua những gì đã quan sát được từ thực trạng và những thành quả đã đạt được cũng như sự phát triển của võ Bình Định. 5. Dự kiến những kết quả sau khi nghiên cứu Đỗ Thị Kim Anh 2
  6. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.1. Cơ sở lý luận 1.1.1. Tổng quan về võ cổ truyền Võ cổ truyền Việt Nam (còn có các tên gọi là Võ dân tộc, Võ Ta...) có lịch sử phát triển lâu đời và nền tảng sâu rộng trong quảng đại quần chúng. Lịch sử phát triển võ thuật cổ truyền Việt Nam gắn liền với truyền thống thượng võ của dân tộc Việt Nam trong suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Ngày nay, võ cổ truyền Việt Nam đã trở thành di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và ngày càng được thừa nhận rộng rãi.. Từ bao đời nay, nhân dân ta đã dùng võ để rèn luyện thân thể, nâng cao khả năng tự vệ-chiến đấu, tôi luyện ý chí sắt đá và ứng dụng trong các trò chơi, lễ hội để tăng cường sự giao lưu, đoàn kết trong cộng đồng. Phần biểu hiện bên ngoài của Võ cổ truyền là một hệ thống tổng hợp các bài tập rèn luyện thể chất, ý chí, kỹ thuật và chiến thuật đối kháng tự vệ, đấu tranh giữ nước của nhân dân. Chúng được bắt nguồn từ những động tác trong đời sống thường nhật của con người ở buổi sơ khai để dần dần hình thành nên những kỹ năng và theo thời gian những kỹ năng đó được hệ thống và truyền dạy để không ngừng nâng cao khả năng tự vệ, chiến đấu của con người. 1.1.2. Tổng quan về võ cổ truyền và võ cổ truyền Bình Định Võ cổ truyền Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với truyền thống lao động cần cù, tính hiếu học và tinh thần thượng võ của dân tộc trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của Lịch sử, Võ cổ truyền Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức và cách thức khác nhau, được truyền bá và lưu giữ từ đời này qua đời khác trong mỗi gia đình, dòng tộc cũng như các võ đường, lò võ trên các vùng miền của đất nước. Cũng qua những thăng trầm của sự phát triển đó, Võ cổ truyền Việt Nam đã thấm sâu vào máu thịt, vào tư tưởng, vào hành động của mọi người, trở thành một mảng văn hóa tinh thần đầy tự hào của nhiều thế hệ người Việt Nam. Nhân dân ta đã dùng võ để Đỗ Thị Kim Anh 3
  7. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam rèn luyện thân thể, nâng cao khả năng tự vệ, tôi luyện ý chí sắt đá và ứng dụng trong các trò chơi, lễ hội để tăng cường sự giao lưu trong cộng đồng. Bình Định là vùng từng thuộc vương quốc Chămpa, nơi có truyền thống võ thuật lâu đời mà những phù điêu của vương quốc Chăm còn lưu giữ hình ảnh. Đây cũng là cái nôi võ thuật miền Trung gắn liền với triều đại Tây Sơn (1778-1802). Trong thế kỷ 18, một số võ sư nổi tiếng từ miền Bắc Việt Nam và Trung Quốc chuyển đến định cư tại vùng này và dạy võ cho người dân địa phương. Trong số này có Trương Văn Hiến (vùng Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh), Trần Kim Hùng (có tổ tiên sáng lập thôn Trường Đình, Tây Sơn), Diệp Kim Tòng (từ Phúc Kiến), Đinh Văn Nhưng (người Ninh Bình). Những võ sư này đã rèn luyện võ nghệ cho anh em nhà Tây Sơn và hầu hết các tướng sĩ của cuộc khởi nghĩa. Từ cuối thế kỷ 18 các võ sư đã gây dựng tại Bình Định phái võ Tây Sơn (còn gọi là Võ trận Tây Sơn) độc đáo, kết hợp của nhiều hình thức và kỹ thuật từ những võ phái Bình Định khác nhau. Nguyên tắc của võ phái này là: "nhất mạnh, nhì nhanh, thứ ba giỏi", nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của sức mạnh, sự khéo léo, và kỹ thuật có uy lực thực dụng. Tuy nhiên, cùng với sự suy vi của dòng họ Tây Sơn, nhiều kỹ thuật của phái võ trận này chỉ còn được truyền dạy trong các chi phái võ của các gia tộc tại Bình Định. Từ thời Tây Sơn đến nay, võ Bình Định bao gồm nhiều võ phái xuất phát từ Bình Định và vùng phụ cận như: roi Thuận Truyền, quyền An Thái, quyền An Vinh và các hình thức võ thuật do các gia tộc, các nhà sư truyền dạy như Tây Sơn Nhạn, Thanh Long võ đạo, Bình Định Sa Long Cương, Võ trận Bình Định, Tân Sơn Bạch Long, Tây Sơn Thiếu Lâm, Bình Định gia v.v. Nhiều bài danh quyền có xuất xứ từ đất Bình Định như Ngọc trản ngân đài, Lão mai quyền, Thần đồng quyền, Yến phi quyền (còn được gọi là Én Bay thảo pháp) đã được đưa vào chương trình khảo thí võ thuật thời Nguyễn và một số bài trở thành bài quy định của Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền Việt Nam. Điều cần nói ở đây là, tên gọi "Võ Bình Định" nguyên khởi xuất hiện vào thế kỷ thứ 15, do Nguyễn Trãi đặt và được truyền nối rồi ngộ nhận là môn võ xuất phát từ vùng Bình Định vào thời Tây Sơn. Theo cách lý giải của tủ sách Tìm hiểu Đỗ Thị Kim Anh 4
  8. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam Võ thuật, sau cuộc khởi nghĩa thành công, Lê Lợi đặc biệt lưu tâm đến việc trui rèn võ nghệ cho quân đội nên cho mở các kỳ thi võ và mở trường dạy võ. Nhà vua ủy thác cho nhà sư Sa Viên là người huấn luyện võ nghệ cho nghĩa binh Lam Sơn từ năm 1415 mở võ đường. Nguyễn Trãi đã đặt tên cho võ đường của nhà sư Sa Viên là Võ đường Bình Định để tưởng nhớ công lao của Bình Định Vương Lê Lợi. Từ đó tên Võ Bình Định được truyền nối khắp nước. 1.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.1. Điều kiện tự nhiên bnsndh 1.2.2. Điều kiện xã hội dnbcnamzbmsbcms Đỗ Thị Kim Anh 5
  9. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam CHƯƠNG II: VÕ CỔ TRUYỀN BÌNH ĐỊNH NHÌN TỪ THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN VĂN HÓA 2.1. Võ cổ truyền Bình Định nhìn từ thời gian 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Dựa vào điều kiện lịch sử, căn cứ vào các tiêu chí: mức độ qui mô phát triển võ, trình độ võ nghệ, tính chất giai cấp, mục tiêu phục vụ của võ nghệ trong từng giai đoạn, đề tài lấy mốc thời Tây Sơn làm trung tâm vì đây là thời điểm đỉnh của võ cổ truyền Bình Định. Trước thời Tây Sơn (từ khoảng năm 1600), võ cổ truyền Bình Định còn ở dạng sơ khai, hình thành chủ yếu dựa trên các thao tác lao động và sử dụng công cụ lao động hàng ngày . Đến thời Tây Sơn, bắt đầu có sự giao lưu, hoà nhập giữa các dòng võ và quy tụ nhiều anh hùng hào kiệt, nhiều võ quan, võ sư nổi tiếng. Võ cổ truyền Bình Định thời Tây Sơn được sử sách ghi nhận là thời kỳ hưng thịnh và phát triển rực rỡ nhất, được xây dựng thành hệ thống võ học, được đưa vào hệ thống thi cử, đào tạo tướng sĩ, được nghiên cứu và áp dụng triệt để, sáng tạo trong quân sự, trong chiến đấu, phục vụ chiến trường và khuyến khích mở trường dạy võ khắp nơi. Võ cổ truyền Bình Định thời Tây Sơn là sự kết tinh và hoà quyện cao độ giữa các dòng võ, môn võ, phái võ khác nhau (của người bản địa, võ từ Bắc hà vào v.v.) tạo nên sức mạnh tổng hợp, chắt lọc tìm ra cái tinh tuý nhất để bồi đắp, bổ sung vào kho tàng võ học chân truyền của dân tộc. Sau thời Tây Sơn, mặc dù khi lên ngôi, Nguyễn Ánh đã tiêu diệt mọi thành quả của nhà Tây Sơn nhưng võ cổ truyền Bình Định vẫn có khả năng tiềm ẩn và sức sống mãnh liệt, “võ vườn” vẫn được bí mật truyền dạy trong các nhà chùa hoặc các bìa rừng, vẫn được nhiều người tâm huyết nghiên cứu, sưu tầm, viết sách lưu truyền lại cho các thế hệ mai sau. Đến nửa đầu thế kỷ XIX, các dòng võ nước ngoài, chủ yếu là võ Thiếu Lâm (Trung Hoa) và nhiều môn võ như quyền Anh, Judo, Karatedo, Teakwondo… đã Đỗ Thị Kim Anh 6
  10. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam phát triển khá mạnh ở Bình Định nhưng vẫn không thể lấn át được võ cổ truyền Bình Định bởi vẫn giữ được những đặc điểm độc đáo của nó. 2.1.2. Võ cổ truyền Bình Định qua các thời kì 2.1.2.1. Thời kì trước Tây Sơn Giai đoạn từ 1471 đến 1558 (thế kỷ XV-XVI): nơi đây có nhiều võ tướng được triều đình cử đến trấn nhậm, nhưng không thấy sử sách lưu danh. Năm 1558, Nguyễn Hoàng theo lời sấm “Hoành sơn nhất đái vạn đại dung thân” của Trạng Trình vào Nam, bắt đầu thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Các chúa Nguyễn rất chăm lo chính sự, thu phục nhân tâm, củng cố binh lực tạo thế đối đầu với chúa Trịnh nên nhiều nhân tài văn võ có cơ hội cống hiến. Đất Việt mở rộng dần về phương Nam. Phủ Quy Nhơn đã thành một vùng trù phú. Hồi bấy giờ ở đây nổi danh võ nghiệp có Khám lý quận công Trần Đức Hoà, Nguyễn Hữu Tiến, Trương Đức Thường... Họ không chỉ giỏi võ, mà còn là các danh nhân rường cột của một thời, Trần Đức Hoà là một nhà cai trị giỏi, biết trọng hiền tài. Chính ông là người tiến cử Đào Duy Từ cho chúa Sãi. Sang thế kỷ XVII, sự phân hoá mạnh mẽ trong xã hội phong kiến phân quyền cùng với chiến tranh liên miên đã dẫn đến tình trạng ngân khố suy cạn, sản xuất đình đốn. Một số quan trên vơ vét bóc lột, nhân dân đói rách lầm than. Giặc giã, trộm cướp nổi lên khắp nơi. Cuộc khởi nghĩa nông dân do Chàng Lía lãnh đạo là một trong các cuộc nổi dậy sớm nhất của nhân dân chống áp bức bóc lột trong lịch sử nước ta. Chàng Lía tên thật là Võ Văn Doan, quê ở huyện Phù Ly: “ Có người ở phủ Quy Nhơn, ở Phù Ly huyện gần miền Bích Khê” (Vè Chàng Lía). Cha mất sớm, mẹ đưa Lía về quê ngoại ở làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn- tức thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tây Sơn bây giờ. Dưới con mắt của triều đình phong kiến, cuộc nổi dậy này bị coi là “giặc”, và nghĩa quân bị coi là một đám cướp. Nhưng trong thực tế, Lía và những người cộng sự của ông đã hoạt động với tinh thần hiệp sĩ: chỉ tấn công và trừng trị những quan tham và nhà giàu độc ác sách nhiễu dân chúng, thực hiện phương châm “Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo”. Vì vậy, dân nghèo, đặc biệt là nông dân, theo Lía rất đông. Bằng võ công thượng thặng, Lía đã thu phục được đảng trưởng đảng cướp Đỗ Thị Kim Anh 7
  11. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam Truông Mây là Cha Hồ, Chú Nhẫn. Nghĩa quân của Lía ngoài căn cứ ở Bá Bích (Tây Sơn), có thêm căn cứ Truông Mây (Hoài Ân), mở mang thanh thế, làm chủ một vùng rừng núi liên mảng phía tây phủ Quy Nhơn, khiến cho bọn tham ô lại phấp phỏng, quân triều đình ăn không ngon ngủ không yên. Giai đoạn chuẩn bị cho phong trào Tây Sơn (Đầu thế kỷ XVIII): Chính quyền phong kiến càng lúc càng bộc lộ sự thối nát. Ở Đàng Ngoài chúa Trịnh lấn hiếp vua Lê, ăn chơi xa xỉ. Ở Đàng Trong chúa Nguyễn bị quyền thần Trương Phúc Loan thao túng, chính sự tan nát. Trung thần bị bức hại, liên lụy người thân. Dân tình khổ sở, lòng người ly tán. Một vài người mẫn cảm với thời cuộc đã tiên đoán và kỳ vọng về một cuộc thay đổi long trời lở đất. Họ không quay lưng che mặt mà tích cực nhập thế, đem hết tâm huyết đào tạo nhân tài cho vận hội mới, được người đời xưng tụng là Tây Sơn tứ danh sư: Đinh Văn Nhưng, Diệp Đình Tòng, Trương Văn Hiến, Trần Kim Hùng. Tổ tiên Đinh Văn Nhưng người miền ngoài, từng theo vua Lê cầm quân trấn giữ phương Nam, khi cáo lão bèn đưa gia quyến vào đây khai khẩn đất hoang, ruộng đất của cải nhiều vô kể, nhưng không rõ uẩn khúc gì, lập lời nguyền không cho con cháu bước chân vào chốn quan trường. Buổi đầu Hồ Phi Tiễn- nội tổ của Tây Sơn tam kiệt- từ Nghệ An vào Quy Nhơn lập nghiệp, đã nhận được sự giúp đỡ của họ Đinh. Đinh Văn Nhưng là thầy dạy võ đầu tiên của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Tây Sơn tam kiệt dựng cờ khởi nghĩa, ông đem rất nhiều thóc lúa, tiền bạc và cả trường ngựa Bằng Châu hiến tặng. Diệp Đình Tòng nguyên là một võ quan triều Lê, chán cảnh chúa Trịnh lấn bức vua Lê, giũ áo từ quan, vân du qua nhiều ngọn núi. Về già ông trú ngụ vùng núi thượng nguồn sông Kim Sơn thuộc phủ Quy Nhơn, thu nhận Trần Quang Diệu làm đồ đệ, truyền dạy võ nghệ, sở trường môn đại đao. Trương Văn Hiến, quê ở Hoan châu (Nghệ An), là em họ quan đại thần Trương Văn Hạnh- một trung thần chống đối Trương Phúc Loan, bị tên này bắt giết cả nhà. Trương Văn Hiến phải cải trang đi trốn. Trên đường lưu lạc, ông đã chọn đất An Thái làm nơi dừng chân và mở trường đào tạo cả văn lẫn võ. Học trò ông là những người xuất chúng, hoặc trở thành lãnh tụ hoặc trở thành danh tướng, Đỗ Thị Kim Anh 8
  12. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam danh sĩ Tây Sơn: Tây Sơn tam kiệt Nguyễn Nhạc - Nguyễn Huệ - Nguyễn Lữ, Đại tư đồ Võ Văn Dũng, Đại đô đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Phan Văn Lân, Phò mã Trương Văn Đa, anh em Nguyễn Văn Huấn, Nguyễn Văn Danh quê Quảng Ngãi (tác giả bộ sử Tây Sơn thư hùng ký) , Huỳnh Văn Thuận quê Mộ Đức (tác giả bộ Binh pháp Tây Sơn) … Võ sư Trần Kim Hùng, võ nghệ tuyệt luân, về già lập gánh mãi võ để tìm hiền đồ. Trước khi gặp ông, Nguyễn Văn Tuyết là một tay anh chị hoạt động ở chợ Gò Chàm. Ông đã cứu vớt Nguyễn Văn Tuyết khỏi cuộc sống bụi lầm vô lại, đào tạo Nguyễn thành một trang võ hiệp. Nguyễn Văn Tuyết sau theo giúp Nguyễn Huệ, thành đại đô đốc Tây Sơn, có công đại phá quân Thanh. Ngoài ra còn có thể kể hai thầy học của nữ tướng Bùi Thị Xuân: Một là Ngô Mãnh người Thanh Hoá, nguyên Đô thống triều Lê, biết chúa Trịnh ghét và có ý muốn trừ mình, bèn mang theo cháu trai là Ngô Văn Sở vượt biển vào Nam. Trong những ngày du thực lang thang hai ông cháu được Bùi Công (cha Bùi Thị Xuân) ở Tây Sơn cho tá túc. Cảm ơn tri ngộ, Ngô Mãnh đem hết sở học truyền dạy cho Bùi Thị Xuân. Hai là một bà lão họ Nguyễn ở An Vinh, đêm đêm đến dạy nữ tướng Bùi Thị Xuân luyện kiếm. 2.1.2.2. Thời kì Tây Sơn Dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Tây Sơn tam kiệt - Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ, là sự quần tụ của những anh tài võ học gánh vác sứ mệnh cứu nước, được người đời tôn vinh bằng các danh xưng: Tây Sơn thất hổ tướng, Tây Sơn lương tướng, Tây Sơn ngũ phụng thư. - Tây Sơn thất hổ tướng: Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Nguyễn Văn Tuyết, Lý Văn Bưu, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc. - Tây Sơn lương tướng: Đặng Văn Long, Đặng Xuân Phong, Ngô Văn Sở, Nguyễn Quang Thuỳ, Trương Văn Đa, Phan Văn Lân, tù trưởng Bok Kiơm, Cô Hầu (vợ Nguyễn Nhạc), Nguyễn Bảo, Lê Trung, Nhưng Huy, Tư Linh, Phạm Cần Chính… - Tây Sơn ngũ phụng thư: Bùi Thị Xuân, Huỳnh Thị Cúc, Trần Thị Lan, Bùi Thị Nhạn, Nguyễn Thị Dung. Đỗ Thị Kim Anh 9
  13. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam Thiết tưởng cũng cần nói thêm rằng thời bấy giờ, Nguyễn Ánh trong thế đối kháng với Nhà Tây Sơn, cũng đã chiêu tập một số anh tài trong làng võ Bình Định như Châu Văn Tiếp, Phạm Văn Sĩ, Lê Chất... Và họ cũng trở thành các tướng lĩnh rường cột của Nhà Nguyễn. Thời kỳ Tây Sơn võ thuật đạt đến cao trào trong ý nghĩa quật cường và chính khí của một phong trào lịch sử bão táp, thực hiện sứ mệnh cứu dân cứu nước. Sự xuất hiện của hàng loạt võ nhân xuất sắc ở cương vị tướng lĩnh lãnh đạo nghĩa quân Tây Sơn lập nên những chiến công vang dội, lật đổ các tập đoàn phong kiến thối nát Trịnh - Nguyễn, đánh tan 5 vạn quân Xiêm, 29 vạn quân Thanh. Tên tuổi các võ nhân anh hùng của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn mà tiêu biểu là vị anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ đã đi vào lịch sử. Nội hàm mấy chữ võ Tây Sơn không khép kín như một địa danh cụ thể mà được hiểu là võ thuật của một vùng đất, một phong trào vĩ đại, một triều đại huy hoàng trong lịch sử Việt Nam. 2.1.2.3. Thời kì nhà Nguyễn Giai đoạn đầu, các đời vua Gia Long, Minh Mạng chủ trương tận diệt Nhà Tây Sơn và trấn áp các phong trào yêu nước liên quan đến Tây Sơn, do đó võ thuật ở Bình Định nói chung và ở đất Tây Sơn nói riêng bị bóp nghẹt. Những người liên quan đến vua tôi, tướng lĩnh, nghĩa quân Tây Sơn đều bị bắt giết theo nghĩa “làm cỏ”. Sử sách Tây Sơn, trong đó bao gồm nhiều pho võ kinh, võ lý bị đốt sạch. Ngục văn tự đè nặng hàng mấy chục năm ròng. Nhưng trong lòng người Bình Định nói chung, người Tây Sơn nói riêng, ánh hào quang rực rỡ của một triều đại anh hùng vẫn không tắt. Đại tư đồ Võ Văn Dũng sau khi vượt ngục đã tìm hai con trai nhỏ của Nguyễn Nhạc là Nguyễn Văn Đức và Nguyễn Văn Đẩu, đưa lên Tây Sơn thượng sống trong các buôn làng của đồng bào dân tộc, tập hợp lực lượng, truyền dạy võ nghệ với hy vọng khôi phục Nhà Tây Sơn. Quan quân triều Nguyễn dò biết nhưng lần nào đem quân truy bắt cũng đều bị thất bại. Chúng bèn dùng kế ly gián, cho bọn gian trà trộn vào hàng ngũ nghĩa quân, tìm chỗ hở gây sự hiểu lầm sâu sắc giữa đồng bào với nghĩa quân. Một hôm Võ Văn Dũng có việc đi vắng, bọn gian thừa cơ bắt trói hai con trai Nguyễn Nhạc nộp cho quân Nguyễn. Nghĩa quân phần Đỗ Thị Kim Anh 10
  14. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam sợ Võ Văn Dũng về hỏi tội, phần lo quân Nguyễn tấn công, tự rã ngũ. Buồn vì mưu sự không thành, Võ Văn Dũng bỏ lên Núi Xanh biệt tích. Sự đỗ vỡ đau đớn này được người đời sau gói ghém trong mấy vần ca dao cổ: Củ lang Đồng Phó, Đỗ phộng Hà Nhung, Chàng bòn thiếp mót đổ chung một gùi Chẳng qua duyên nợ sụt sùi Chàng giận chàng đá cái gùi chàng đi Chim kêu dưới suối Từ Bi Nghĩa nhân còn bỏ, tiếc chi cái gùi Không riêng gì Võ Văn Dũng, nhiều tướng sĩ Tây Sơn vẫn ôm lòng nhớ thời oanh liệt cũ, nhưng tự lượng không đủ sức để xoay chuyển thời cuộc, nên họ đành mai danh ẩn tích. Đô đốc Đặng Văn Long, Đô đốc Nguyễn Văn Lộc tâm niệm đi theo cờ nghĩa Tây Sơn chính là để thực hiện sứ mệnh cứu nước, chứ không phải phục vụ mưu đồ thâu tóm thiên hạ cho một dòng họ, nay thời vận Nhà Tây Sơn đã hết, mọi cố gắng làm cho dài cơn binh lửa chỉ khiến nhân dân thêm khổ. Vì vậy hai ông đã từ chối lời mời hợp tác của Võ Văn Dũng. Có điều, làm thân hạc nội mây ngàn, nhưng khí tiết con nhà võ không hề mất. Và những thế võ huyền diệu mang linh khí Tây Sơn vẫn chập chờn trong trăng trong gió, trên đồi cuối vực. Những cuộc hạnh ngộ sư đệ và lưu truyền tâm pháp, võ thuật vẫn diễn ra khi thì bên khe núi vắng, khi thì dưới một mái hiên chiều hay một vườn chùa u tịch. Ở Bình Định trong những năm dài nặng nề u uẩn ấy, việc dạy võ và truyền khẩu quyết trong buồng kín là chuyện có thật. Võ Bình Định được lưu giữ bằng tim óc, bằng hồn vía, là ngọn lửa ngầm âm ỉ trong dân gian. Nhờ vậy mà đến giai đoạn sau, Bình Định vẫn có người thi đỗ tạo sĩ võ (tương đương tiến sĩ bên văn). Thời Cần Vương, có người mặc áo quan văn nhưng khi cần, thoắt một cái đã cầm lấy cung kiếm đao thương, giơ roi giục ngựa cứu nước hộ dân. Đào Doãn Địch, Mai Xuân Thưởng, Lê Thượng Nghĩa, Đặng Đề, Nguyễn Trọng Trì... là những trường hợp như vậy. Riêng Lê Thượng Nghĩa đã dẫn hàng trăm môn đồ của mình đầu quân dưới cờ Mai Xuân Thưởng. Hiện tượng một Đỗ Thị Kim Anh 11
  15. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam lò võ trở thành lực lượng nòng cốt của một phong trào như vậy không phải là hiếm ở Bình Định. Lãnh tụ của các phong trào yêu nước chống Pháp tại Bình Định, Phú Yên và một số tỉnh Nam Bộ cũng là các võ nhân quê Bình Định: Võ Trứ , Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương... Cuối thời Nguyễn, các võ nhân Bình Định xuất sắc còn lưu danh tiếng có thể kể: Phạm Văn Lý, Võ Văn Trừ, Lê Đình Lý, Trần Trực, Trần Tân, Trần Diệu ... Mỗi người, dù mặc áo vải hay áo giáp, đi giày cỏ hay giày da, đều thực hiện cái lý cao nhất của võ đạo là đánh giặc cứu nước cứu dân. 2.1.2.4. Thời kì cận - hiện đại Đây là thời kỳ hưng thịnh trở lại của võ Bình Định, hình thành các dòng võ lớn nổi tiếng về đặc trưng chuyên môn riêng. Tiền đề của các dòng võ, phải kể đến các danh sư như Bầu Đê ở Tuy Phước chuyên đánh trường tiên (roi dài), Đội Sẻ ở An Thái nổi danh về quyền cước, Lê Thị Huỳnh Hà ở Tây Sơn sở trường roi Kinh. Cũng cần nói thêm rằng đây là thời kỳ gia tài võ thuật Bình Định không ngừng được bổ sung bởi các một số nhân vật từ phương xa vì một lý do nào đó đã chọn Bình Định làm chốn nương thân dưới lốt thương nhân, thầy đồ. Đó là trường hợp Khách Bút ở Kiểng Hàng - một người lầm lũi hiền lành nhưng đã từng khua đòn gánh, ném mâm đồng vượt vòng vây hàng trăm võ sĩ một cách ngoạn mục. Đó là Hồ Khiêm với đường roi Lạc côn danh bất hư truyền. Đó là trường hợp một người bạn của Hồ Đức Phổ vốn là tạo sĩ võ, tham gia phong trào Cần Vương, bị triều đình truy nã, đã tìm tới Thuận Truyền ẩn náu như môn khách của Hồ gia. Lịch sử với những khúc quanh bất ngờ và những cuộc hội ngộ kỳ lạ đã ban cho Bình Định những bậc chân tài võ học. Họ đã đem hết tâm huyết truyền nghề và đào tạo nên một lớp võ nhân xuất sắc: Lê Công Trì (tức Hương lễ Nghè), Ba Đề, Năm Nghĩa, Lâm Đình Thọ (tức Hương kiểm Lài), Đoàn Phong, Mười Kinh, Nguyễn Ngạc (tức Hương mục Ngạc) và Hồ Nhu (tức Chín Ngạnh). Trong thế hệ thứ hai này không thể không kể tới một võ nhân kiệt xuất nữa là Diệp Trường Phát (Tàu Sáu), người Việt gốc Hoa, được cha mẹ gửi về Trung Quốc học võ rồi mới về lại An Thái. Đỗ Thị Kim Anh 12
  16. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam Thế hệ thứ ba của thời kỳ này là những đại danh như Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác (tức Hương kiểm Cáo), Hương kiểm Mỹ, Hai Tửu, Mười Đậu, Bầu Năm, hương kiểm Cương, Xã Nung, Lê Bá Cừu, Lê Thành Phiên, Tạ Thức, Dư Trốn, Hồ Tiền,... Truyền thống võ học Bình Định tiếp tục được duy trì bởi các võ sư Phan Thọ, Văn Xuân Ngọc, Trần Dần của An Vinh; Sáu Được, Dương Công Đạo, Hồ Sừng, Phan Canh, Bộ Trọng, Mai Xuân Thiện của Thuận Truyền; Hà Trọng Sơn, Phi Long Vịnh, Hàm Hữu Nghĩa của Tuy Phước; Lâm Đình Phú của An Thái, Lý Thành Nhân của Phương Danh (An Nhơn). Tiếp theo đó là Lý Xuân Hỷ, Đinh Văn Tuấn, Hồ Sơn Kỳ, Kim Dũng, Phan Sơn, Hồ Cương, Kim Thanh, Phan Trường Hận,... và miền đất võ vẫn còn là bệ phóng của muôn vàn người lớp sau. Tính từ 1471 đến nay, hơn năm thế kỷ trôi qua, giới võ học Bình Định đã lần lượt xuất hiện hàng vạn người làm vinh danh các làng võ cội nguồn bằng tấm lòng son sắt và chân tài thực học. Họ đi qua thế gian này, kẻ thoáng chốc, người lâu dài nhưng tiếng thơm còn lan truyền mãi. Cũng có thể hình dung nền võ học Bình Định là một cánh rừng nhiều thế hệ, mà võ nhân đông đúc tựa những lứa cây bám rễ vượt lên và toả bóng trên mặt đất. Cánh rừng – võ lâm Bình Định tàng ẩn trong nó trùng trùng huyền thoại. 2.2. Võ cổ truyền Bình Định nhìn từ không gian văn hóa 2.2.1. Võ cổ truyền Bình Định ở huyện Tây Sơn-Bình Định dsnjsmknk 2.2.2. Võ cổ truyền Bình Định ở thị xã An Nhơn-Bình Định cmjsncmsn 2.2.3. Võ cổ truyền Bình Định ở huyện Tuy Phước-Bình Định Dc njsdncjn Đỗ Thị Kim Anh 13
  17. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam CHƯƠNG III: ĐẶC ĐIỂM VÕ CỔ TRUYỀN BÌNH ĐỊNH 3.1. Sự đa dạng Đa dạng về những dòng võ ngay trên đất Bình Định và đa dạng về sự khác biệt trong kỹ thuật giữa các hệ phái mang tên Bình Định hoặc Tây Sơn trên toàn quốc. Tuy nhiên, sự đa dạng đó lại đặt trên cơ sở một số đặc điểm chung hầu hết các dòng võ ở Bình Định đều có. Chẳng hạn như một số bài bản được mặc nhiên coi là võ Bình Định như Ngọc trản ngân đài, Siêu Bát Quái, Roi Tấn Nhất, Roi Ngũ Môn. Mặc dù đây chính là các bài bản của Võ Ta hay còn gọi là Võ Kinh, một môn võ của Đàng Trong và từng được dùng cho huấn luyện trong quân đội và thi võ cử trong thời nhà Nguyễn. Các câu vè có liên quan đến yếu quyết của võ thuật được lưu truyền ở Bình Định cũng là những câu vè của Võ Ta. Ví dụ: "Roi liên quyền tiếp" (Xem Đấu Roi), "Song thủ Ngũ Hành vi bản. Lưỡng túc Bát Quái vi căn"… Một câu vè khác nói lên sự thống nhất và liên đới giữa hai môn (Võ Kinh và võ thuật Bình Định) là "Roi Kinh quyền Bình Định". Những kỹ thuật này không chỉ có riêng ở Võ Kinh và võ thuật Bình Định. Nó còn tồn tại ở các dòng võ ở các miền khác, chẳng hạn võ Tân Khánh Bà Trà (Bình Dương), Bảo Y Võ Việt (Bến Tre). Ngoài những kỹ thuật được coi là võ Ta nói trên, mỗi dòng võ đều chứa những đặc điểm riêng của mình. Đặc biệt nhất là những kỹ thuật thừa hưởng của nhà Tây Sơn. Ví dụ: Bài Hùng Kê quyền vốn được coi là của Nguyễn Lữ, bài quyền Yến Phi (thảo pháp Én bay) vốn được coi là của Nguyễn Huệ, các kỹ thuật về trống trận Tây Sơn… Mặc dù những kỹ thuật này không phổ biến bằng các kỹ thuật của Võ Ta, nhưng đây là điểm đặc sắc của riêng vùng đất Bình Định mà các vùng khác không hề có. Đặc biệt, trong thời gian gần đây có sự xuất hiện ra công chúng dòng võ chùa Long Phước. Theo trang web của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam thì nhà sư Vạn Thanh (tên thật là Nguyễn Đông Hải) vốn là truyền nhân đời thứ 13 của môn phái Long Hổ Không Hồng. Cũng theo trang web nói trên, kỹ thuật của môn Đỗ Thị Kim Anh 14
  18. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam võ này bao gồm trong "Phổ Đại Nam triều chi tướng thao" do tướng Tây Sơn Nguyễn Trung Như (Hư Linh Ẩn) truyền lại. Tập sách này gồm 2 bộ: "Lục tướng tằng vương phổ minh binh thư chiêu pháp" do Hư Minh, tổ của môn phái Long Hổ Không Hồng ghi lại các bài bản từ thời nhà Lê trở về trước. "Tây Sơn danh tướng mộ hùng thao" do Nguyễn Trung Như ghi lại các bài bản võ thuật của thời Tây Sơn. Mức độ trung thực về mặt lịch sử của các tài liệu này rất cần được sự quan tâm nghiên cứu công phu của các nhà sử học. Vì có sự tương đồng về mặt văn hoá giữa Việt Nam và Trung Quốc, có một số dòng võ hoặc hệ phái tuyên bố có nguồn gốc từ Trung Quốc cũng lấy danh xưng Võ Bình Định. Chẳng hạn dòng Bình Định An Thái của võ sư Diệp Trường Phát. Việc công nhận hay công nhận danh xưng "Võ Bình Định" của các hệ phái này một thời từng là một đề tài tranh luận khá sôi nổi trong giới võ. Ngoài ra, ở vùng đất này cũng đã và đang có sự phổ biến của nhiều môn võ hiện đại trong và ngoài nước khác nhau. Đất Bình Định cũng đã từng rất nổi tiếng trong "làng đấm" (quyền Anh). Tuy nhiên, vì có sự rạch ròi trong ngôn ngữ sử dụng lẫn trong sự phân chia môn phái võ thuật hoặc bộ môn thể thao thi đấu nên chưa bao giờ các môn võ này được gọi với danh xưng "Võ Bình Định". 3.2. Nội dung võ cổ truyền Về nội dung, võ cổ truyền Bình Định vô cùng phong phú, đa dạng nhưng tựu trung có 4 nội dung cơ bản là: luyện công, quyền thuật, võ với binh khí, luyện tinh thần. Quyền còn gọi là thảo bộ hay quyền tay không, bao gồm Cương quyền và Nhu quyền. Võ tay không chia thành 4 nhóm: Võ thể dục, võ tự vệ, võ tỷ thí và võ chiến đấu. Binh khí được dùng trong võ cổ truyền Bình Định bao gồm binh khí dài và binh khí ngắn. Loại binh khí rất cơ bản được lưu hành khá phổ biến ở Bình Định là côn (tiếng địa phương gọi là roi) với nhiều “phách roi” độc đáo chỉ có ở võ cổ truyền Bình Định: “Đâm so đũa”, “Đá văn roi”, “Phá vây”, “Roi đánh nghịch”… Nói về tận dụng vũ khí thô sơ chống giặc, Bình Định có “Bài kiếm 12” nổi tiếng gồm 12 động tác được rút tỉa trong nhiều bài kiếm tiêu biểu của Bình Định để hình thành một cách ngắn gọn, dễ tập, dễ nhớ, được đưa vào luyện tập và Đỗ Thị Kim Anh 15
  19. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam thực hành chiến đấu đạt hiệu quả cao trong các lực lượng vũ trang và bán vũ trang ở địa phương. 3.3. Võ đạo Về võ đạo, còn gọi là cái đạo của người học võ. Ngoài những đức tính mà con người đề cao trong rèn luyện đạo đức là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, võ đạo còn thể hiện ở các mặt truyền thống: thượng võ, chống ngoại xâm; uống nước nhớ nguồn; trọng nhân nghĩa…. 3.3.1. Truyền thống thượng võ, chống ngoại xâm Mỗi con người chúng ta đều gắn liền với quê hương, xứ sở, luôn tự hào về truyền thống tốt đẹp của quê hương, xứ sở mình, và đều mang trong mình dòng máu của cha ông, của dân tộc. Mỗi khi đất nước có họa ngoại xâm, thì mọi người già trẻ trai gái đều hăng hái tập luyện võ nghệ, sử dụng các loại binh khí, các miếng võ bí truyền và ai có súng dùng súng, ai không có súng thì gươm, giáo, mác, gậy, gộc, đồng lòng chung sức nhất tề đánh đuổi quân thù và sẵn sàng chiến đấu, hy sinh đến hơi thở cuối cùng, nhưng khi quân thù bại trận thì dân ta rất mực khoan hồng, độ lượng, hành sự đúng mực trượng phu. Truyền thống đó được hun đúc qua 4000 năm lịch sử đấu tranh oanh liệt, chống ngoại xâm, chống bất công, áp bức, cường quyền, cùng nhau chung lưng đấu cật, chia ngọt sẻ bùi, đoàn kết xây dựng cuộc sống và bảo tồn giống nòi Lạc Việt. Từ đó, cho dù ở phương trời nào, chúng ta cũng nhớ về cội nguồn, tổ tiên, luôn tự hào về các bậc tiền nhân đã dày công dựng nước, giữ nước, đánh đuổi quân thù, thu phục giang sơn về một mối, trong đó có các võ quan, võ tướng, các võ sư, võ sĩ đã không tiếc máu xương vun đắp nên truyền thống võ hào hùng của dân tộc Việt Nam mãi mãi trường tồn. 3.3.2. Truyền thống uống nước nhớ nguồn Dân tộc ta có truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Nhắc lại chuyện xưa: khi Nguyển Ánh lên ngôi, đã hủy diệt toàn bộ thành Đỗ Thị Kim Anh 16
  20. Bài tiểu luận Cơ sở văn hóa Việt Nam quả của nhà Tây Sơn, trong đó có sự nghiệp võ học lẫy lừng của nhà Tây Sơn, nhưng người dân Bình Định, nhất là các học giả, các nhà nghiên cứu, các nhân sĩ, trí thức, các võ sư, võ sĩ, đã một lòng một dạ trung thành với những di sản và tinh hoa võ học chân truyền của nhà Tây Sơn, vẫn tôn thờ vị hoàng đế Quang Trung. Nhiều người khi được dụ hàng để được hưởng ân sủng, chức tước, bổng lộc của nhà Nguyễn, đều từ chối và quyết tâm chiến đấu, hy sinh đến giọt máu cuối cùng, lưu lại tiếng thơm cho muôn đời sau. Nhiều nhà thi đỗ tiến sĩ, cử nhân võ nhưng không ra làm quan mà vẫn trung thành với “chủ cũ” đã tìm mọi cách để tập hợp tư liệu, biên soạn lại sách, giáo trình, các bài thiệu, các bài thuốc võ, bí mật truyền bá, lưu truyền cho các thế hệ mai sau, khỏi mất gốc, nhờ vậy, mà võ cổ truyền Bình Định không bị mai một, bế tắc mà còn ăn sâu bén rễ và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống văn hóa của nhân dân Bình Định. Người Bình Định, từ người có võ công cao cường, đến người hiểu biết võ nghệ chút ít đều luôn một lòng tôn kính giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của dòng võ cổ truyền Bình Định, ra sức truyền bá và bảo tồn võ đạo, võ lý, võ y, võ thuật, võ nhạc và những tinh hoa độc đáo của tổ tiên, tiếp tục truyền lại cho các thế hệ mai sau. 3.3.3. Truyền thống võ sĩ đạo và trọng nhân nghĩa Đây là truyền thống cực kỳ quý báu đã ăn sâu vào máu thịt của người Việt Nam, trong đó có người dân “đất võ”. Trong lĩnh vực võ học, người học võ trước tiên phải là người có bản lĩnh, luôn lấy tâm đạo để chế ngự tà đạo, phải có cốt cách diện mạo của con nhà võ. “Tâm đạo” là nói đến tu luyện tư duy đạo đức làm người, sống phải cao thượng, trung với nước, hiếu với dân. Trung thực với môn phái, truyền dạy những điều hay, việc nghĩa. Một võ sĩ chân chính là một công dân tốt. Còn “Tà đạo” là sự đam mê tửu sắc, dâm ô trụy lạc, rượu chè say sưa, gây lộn đánh người, phá rối xã hội, bất chấp kỷ cương phép nước. Đây là những điều cấm kỵ đối với môn sinh học võ cổ truyền Bình Định. Ngoài ra, người võ sĩ đạo còn phải được truyền thụ thuần thục về tâm pháp và thực hiện nghiêm túc những điều cần làm và cấm làm: Đỗ Thị Kim Anh 17
nguon tai.lieu . vn