Xem mẫu
- BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: “Phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần”
1
- LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................. 3
CHƯƠNG II ........................................................................ 14
I.Khái quát. ................................................................................. 14
a)Về tăng trưởng kinh tế: ......................................................... 16
b)Về cơ cấu kinh tế theo ngành nghề. ....................................... 16
c)Về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: ...................................... 17
II.Thực trạng phát triển của các thành phần kinh tế hiện nay. ........ 18
a)Kinh tế tập thể trong nông nghiệp: ......................................... 21
b)Trong công nghiệp: ............................................................... 23
c)Trong thương nghiệp:............................................................ 23
CHƯƠNG III ................................................................................. 28
1. ........................................ Kinh nghiệm của các nước trên thế giới.
28
II. ........................................................................ Một số biện pháp
29
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 32
2
- LỜI NÓI ĐẦU
Từ năm 1986 Việt Nam thực hiện việc chuyển nền kinh tế sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, chính sách kế
hoạch và các công cụ khác . Quá trình chuyển tiếp đó đã đạt được những
kết quả tuy là bước đầu nhưng đáng khích lệ.
Chúng ta đã bắt đầu kiềm chế được lạm phát trong điều kiện kinh tế
phải đối phó với nhiều khó khăn và nguồn viện trợ từ bên ngoài rất hạn
chế. Năm 1986 tỉ lệ lạm phát là 487% năm 1994 đạt mức hai con số: 14%.
Tốc độ trượt giá đã từ 15 -20% một tháng vào đầu năm 1989, giảm
xuống còn dưới 4% một tháng năm 1992.Trong nông nghiệp từ chỗ hàng
chục năm liên tục phải nhập khẩu lương thực thì nay chúng ta đã đủ lương
thực để phục vụ nhu cầu trong nước và lại còn xuất khẩu một lượng đáng
kể. Năm 1992, lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu gạo, đứng thứ 3 thế giới
sau Mỹ và Thái lan. Quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam với
các nước cũng tăng nhanh, mở rộng buôn bán với nhiều bạn hàng. Xuất
khẩu năm 1989 - 1991 tăng 28% năm, thu hút ngày càng nhiều công ty
nước ngoài đầu tư vào Việt Nam với trên 400 dự án, vốn đăng ký khoảng
3 tỷ USD. Lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ đã xoá bỏ chế độ tem phiếu và
phân phối theo định lượng. Có thể nói, chuyển sang nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần, áp dụng chính sách kinh tế mở đối với cả trong nước
và ngoài nước là bứơc mở đầu đổi mới cơ bản về đường lối xuyên suốt mọi
lĩnh vực hoạt động hay nói một cách khác cơ cấu kinh tế mới bắt đầu có
hiệu quả. Tuy nhiên, trong giai đoạn đổi mới này bên cạnh những thành
tựu đã đạt được, nền kinh tế Việt Nam còn gặp không ít những khó khăn.
Trước hết đó là nguy cơ tụt hậu do: Sự thiếu triệt để của công cuộc
cải cách còn đang trong thời kỳ tranh tối tranh sáng nên chỉ cần một bước
3
- sơ hở có thể dẫn nền kinh tế đến chỗ sụp đổ.Việt Nam đang là một nước
nghèo kém phát triển, công nghiệp còn lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật nhất
là cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội quá yếu kém, không đồng bộ dân số đông
(hơn 70 triệu dân) tăng nhanh, nhiều người không có việc làm, mức sống
còn thấp, nhiều vấn đề về văn hoá - xã hội cần giải quyết. Tốc độ phát
triển của các quốc gia trong khu vực rất cao, Việt Nam nằm trong khu vực
Đông Nam á là một khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi nôỉ
nhất. Thứ hai là còn tồn tại những mất cân đối do: Sự phát triển thiếu
toàn diện của cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Thực tế cho thấy
trong số các doanh nghiệp quốc doanh chỉ có 1/3 số doanh nghiệp phát
triển nhưng sự phát triển của họ đi liền với sự đầu tư của nhà nước về
vốn, đất đai và tín dụng 2/3 số doanh nghiệp còn lại làm ăn thua lỗ. Các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng góp đáng kể vào GNP nhưng nhìn
chung chưa được quan tâm thích đáng, đặc biệt trong việc xuất khẩu: Nhà
nước chỉ cho phép các doanh nghiệp quốc doanh được xuất khẩu những
mặt hàng trọng yếu trong nền kinh tế còn các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh chỉ được xuất khẩu những mặt hàng nói chung là đóng góp không
đáng kể vào thu nhập ngân sách. Xuất phát từ tình hình thực tiễn và
cũng từ sự say mê của em khi nghiên cứu vấn đề này nên em chọn đề tài:
“Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần”.Được sự giúp đỡ nhiệt
tình của thầy giáo Lê Kim Châu cùng với chút hiểu biết ít ỏi củamình, em
mạnh dạn xin được trình bày một số ý kiến cá nhân mình với hy vọng góp
phần nhỏ bé làm phong phú thêm hệ thống lý luận trong công cuộc đổi mới
của nước ta hiện nay. Em rất mong được sự góp ý của thầy côvà các bạn
quan tâm đến đề tài này để bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành
cảm ơn và trân trọng ý kiến đóng góp.
4
- CHƯƠNG I I.Những vấn đề lý luận của nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần và quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - LêNin.
Quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - LêNin 1.Giải thích
quan điểm. Trong việc nhận thức cũng như trong việc xem xét các đối
tượng cần phải đứng trên quan điểm toàn diện. Như vậy câu hỏi đặt ra: quan
điểm toàn diện là gì? Quan điểm toàn diện thể hiện qua hai nguyên lý sau:
a.Nguyên lý phổ biến giữa các sự vật hiện tượng hay gọi là mối liên
hệ phổ biến giữa các sự vật, hiện tượng. Các sự vật và hiện tượng muôn
hình, nghìn vẻ trong thế giới không có cái nào tồn tại một cách cô lập, biệt
lập mà chúng là một thể thống nhất, trong đó các sự vật hiện tượng tồn tại
bằng cách tác động lẫn nhau, ràng buộc nhau, quy định và chuyển hoá lẫn
nhau. Mối liên hệ này chẳng những diễn ra ở mọi sự vật và hiện tượng
trong tự nhiên trong xã hội và trong tư duy con người mà còn diễn ra giữa
các yếu tố các mặt khác, các quá trình của mỗi sự vật hiện tượng. Có
những mối liên hệ chỉ đặc trưng cho một đối tượng hoặc một nhóm đối
tượng. Nhưng đồng thời có những mối liên hệ mang tính phổ quát cho mọi
đối tượng của tồn tại, những mối liên hệ như vậy được gọi là liên hệ phổ
biến. Các mối liên hệ giữa vai trò qui định tư cách tồn tại của sự vật hiện
tượng. Với một sự vật, hiện tượng có thể có vô lượng các mối liên hệ khác
nhau. Mối liên hệ đều có những vị trí và vai trò khác nhau trong việc quy
định những tư cách tồn tại của các sự vật hiện tượng (xét trong một điều
kiện nhất định) Nguyên tắc toàn diện có nguồn gốc từ mối liên hệ phổ
biến đựơc nhận thức và được để lên thành nguyên lý chỉ đạo phương pháp
hành động và suy nghĩ. Trong nền kinh tế không có một sự kiện kinh tế
nào tồn tại trong trạng thái cô lập, tách rời những sự kiện khác mà luôn
nằm trong mối liên hệ với những sự kiện kinh tế khác. Thực tế cho thấy,
giá cả thị trường của mỗi loại hàng hoá chỉ biểu hiện ra trong mối quan hệ
với sự biến động cung - cầu về loại hàng hoá đó, trong mối quan hệ với giá
5
- cả và các loại hàng hoá khác (tỉ giá với các loại hàng hoá bổ sung). Cũng
giống như sự tác động qua lại giữa cung cầu và giá cả trên thị trường hàng
hoá, thị trường vốn, thị trường lao động không tồn tại trong trạng thái cô
lập và tách rời mà trong sự liên hệ tác động qua lại. Chẳng hạn như
mỗi sự biến động về giá cả trên thị trường vốn (lãi suất) kéo theo hàng
loạt các sự biến động lan truyền trên các thị trường lao động, thị trường
hàng hoá. Như chúng ta đã biết lãi suất trên thị trường vốn giảm các
doanh nghiệp có cơ hội mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất làm cho giá cả
sức lao động, tiền công, tiền lương tăng lên do đó giá cả trên thị trường
hàng hoá cũng tăng lên. Nhận thức được mối liên hệ giữa các sự
kiện kinh tế nhưng vấn đề là ở chỗ chúng ta áp dụng nguyên lý này để xem
xét, từ đó đề ra đường lối chính sách trong việc tổ chức cơ cấu nền kinh tế
như thế nào? b.Nguyên lý của phép biện chứng duy vật về sự phát
triển của sự vật, hiện tượng. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - LêNin.
Vận động là một khái niệm dùng để chỉ mọi sự biến động nói chung.
Mọi sự vật và hiện tượng là một dạng của vật chất trong quá trình
vận động và được đặc trưng bởi một hình thức vận động nhất định. Mọi sự
vật sự kiện trong vũ trụ tồn tại trong quá trình không ngừng chuyển hoá
từ dạng này sang dạng khác, từ hình thức này sang hình thức khác. Bất kỳ
một sự vận động nào cũng bao hàm trong một xu hướng rất nhiều xuyên
suốt quá trình từ qúa khứ đến hiện tại, đến tương lai. Trên bình diện triết
học, xu hướng vận động từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, ngày
càng hoàn thiện và phát triển. Tuỳ theo các lĩnh vực khác nhau của thế giới
vật chất mà sự phát triển thể hiện khác nhau mà nguồn của nó là sự liên hệ,
tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật và hiện tượng.
Song không nên hiểu sự phát triển bao giờ cũng diễn ra một cách giản đơn
thẳng tắp. Xét từng trường hợp cá biệt thì có những vận động đi lên, tuần
hoàn thậm chí đi xuống, nhưng xét cả quá trình trong phạm vi rộng lớn thì
6
- vận động đi lên là khuynh hướng thống trị. Khái quát tình hình trên, phép
biện chứng duy vật khẳng định: phát triển là khuynh hướng chung của sự
vận động của sự vật, hiện tượng.
Nguyên lý về sự phát triển chỉ cho chúng ta: Muốn thực sự nắm được
bản chất của sự vật hiện tượng, nắm được khuynh hướng vận động của
chúng phải có quan điểm phát triển. Quan điểm này yêu cầu khi phân tích
sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phải phát hiện các xu hướng biến đổi
chuyển hoá của chúng, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
Nhưng trong quá trình phát triển ta phải hết sức chú ý đến việc kế
thừa và sáng tạo những thành quả mà sự vật, hiện tượng trước đã đạt
được.Phát triển không phải là vận động theo đường thẳng mà chỉ là xu
hướng vận động theo hướng tiến lên.
Đối với một nền kinh tế, xu hướng tăng trưởng tự vạch đường đi biểu
hiện xuyên qua các thời điểm mà ở đó ta có thể nhận thấy hoặc là nó đang ở
trạng thái tương đối ổn định (tổng cung = tổng cầu) hoặc là trong trạng thái
mở rộng phát triển sản xuất (tổng cung < tổng cầu) hoặc là trong trạng thái
thu hẹp lại sự khủng hoảng và sang trạng thái (tổng cung > tổng cầu). Cứ
mỗi khi nền kinh tế lâm vào thời kỳ khủng hoảng, suy thoái nếu nó không
đủ sức để vượt qua đến thời kỳ hồi phục để tăng trưởng về sau thì nó sẽ bị
đào thải và loại bỏ bằng một cuộc cách mạng xã hội hay đảo chính để thiết
lập một trật tự kinh tế mới.
Vì vậy vận động bao hàm trong mình cả sự đào thải, loại bỏ, nhưng
phát triển từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp ngày càng phát triển
hoàn thiện hơn.
Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi từ một nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước cơ cấu nhiều thành phần.
Khuynh hướng vận động và phát triển trở thành một quy luật tất yếu
7
- khách quan trong mọi sự vật và hiện tượng. Đó là một điều không thể tránh
khỏi và không xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người dù sự vận động
ấy có thể diễn ra sớm hay muộn.
2Phân tích quan điểm toàn diện trên góc độ kinh tế.
Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) đã đề ra việc tiến hành đổi mới
toàn diện, trên mọi mặt của đời sống xã hội nhằm phát triển đất nứơc và
cũng nhờ đó chúng ta đã đứng vững trước cuộc khủng hoảng của hệ thống
chủ nghĩa xã hội.
Nước ta xuất phát từ một nước phổ biến là sản xuất nhỏ, lực lượng
sản xuất phát triển không đều và do đó các thành phần kinh tế khác nhau
cùng tồn tại. Nếu để phát triển tự phát trong nền kinh tế th ị trường thì theo
logic tự nhiên, nền kinh tế nước ta sẽ đi đến chủ nghĩa tư bản. Vì thế một
vấn đề đặt ra là nền kinh tế nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội của ta
chỉ có phù hợp với quá trình lịch sử tự nhiên hay không?
Tại đại hội VII Đảng ta lại tiếp tục khẳng định công cuộc đổi mới được
khởi xướng từ Đại hội VI, đồng thời cũng khẳng định con đường phát triển
của theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những đổi mới quan trọng
nhất là xây dựng một mô hình xã hội với nền kinh tế nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước .
Xét trên tổng thể xã hội, mỗi thành phần kinh tế là một hệ thống có
những phương án kinh doanh riêng rất khác nhau về nôị dung, chỉ tiêu và
các bứơc đi để thích ứng một cách nhanh nhạy, chính xác với mọi biến đổi
về nhu cầu của xã hội. Do vậy mỗi thành phần kinh tế đều có một vị trí
và vai trò riêng trong quá trình phát triển kinh tế.
Mặt khác, sức mạnh cá biệt của từng thành phần chỉ có thể phát huy
được trong những điều kiện cụ thể, trong những lĩnh vực nhất định, nghĩa
là nếu chúng tồn tại biệt lập thì mỗi thành phần kinh tế không có khả năng
khai thác có hiệu quả c ác nguồn nhân lực và tài lực ở từng ngành và từng
8
- vùng nhất định. Nhu cầu khai thác triệt để mọi tiềm năng của đất nước,
gắn phát triển sản xuất với phát triển xã hội, gắn giải quyết việc làm ổn
định và cải thiện đời sống nhân dân vv... qui định sự hiệp tác giữa các
thành phần kinh tế. ở đâu và khi nào còn tồn tại nhu cầu này thì quan hệ
giữa các thành phần kinh tế còn tồn tại. Toàn bộ những quan hệ này hợp
thành cấu trúc của hệ thống kinh tế nhiều thành phần mà nên tách khỏi hệ
thống sẽ không hiểu được vị trí và vai trò riêng của từng thành phần.
Vì thế quan hệ giữa các thành phần kinh tế là quan hệ phổ biến mà sự
phát triển của những quan hệ đó mà quá trình từng bứơc xã hội hoá sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
Quá trình xã hội hoá của các lực lượng sản xuất luôn luôn diễn ra
trong cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường định hướng quan hệ giữa các
thành phần kinh tế cả trong quan hệ quốc gia lần trong quan hệ quốc tế
theo nguyên tắc các bên cùng có lợi.
Nguyên tắc này là nguyên tắc hoạt động của các thành phần kinh tế
trong quá trình hợp tác.
Việc thực hiện nguyên tắc này làm cho những ưu thế riêng của các
thành phần kinh tế trong việc phát triển lực lượng sản xuất đều được phát
huy. Các thành phần một mặt vừa kết hợp với nhau, vừa bổ sung cho
nhauvà dođó gắn yếu tố truyền thống đã được chọn lọc trong quá trình
phát triển xã hôị với yếu tố hiện đại, gắn các trình độ phát triển khác nhau
của lực lượng sản xuất tạo thành “Lực lượng sản xuất mới” kết hợp sự
biến đổi về lượng với sự thay đổi về chất làm cho các thành phần kinh tế
cùng tồn tại và phát triển. Mặt khác , cơ chế thị trường với sự tác động của
quy luật giá trị, qui luật cung - cầu buộc các thành phần kinh tế trong kinh
daonh cạnh tranh với nhau quyết liệt và kết quả là dẫn đến sự phát triển
của sản xuất, đổi mới công nghệ đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, góp
phần xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của toàn xã hội. Trong cạnh tranh,
9
- thành phần kinh tế nào có cơ chế hoạt động thích hợp sẽ có nhịp độ phát
triển nhanh hơn, tạo thành sự phát triển không đều, đặc biệt ở những vùng
và những ngành có quan hệ trực tiếp với thị trường thế giới thì sự phát triển
của các thành phần kinh tế đó sẽ diễn ra với tốc độ nhanh chóng, tạo thành
các bước nhảy vọt về chất, phá vỡ tính cân bằng chính thể. Đó chính là
nguyên nhân đưa đến các cuộc khủng hoảng. Vì vâỵ, xuất hiện nhu cầu
điều chỉnh tự giác nền kinh tế nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị
trường nhằm đảm bảo khai thác và phát triển toàn bộ những năng lực sản
xuất hiện có.
Nhà nước với tư cách là người đại diện cho mục tiêu phát triển chung
của toàn hệ thống kinh tế phải đóng vai trò chủ đạo trong việc điều tiết nền
kinh tế trên tầm vĩ mô, bảo đảm tỷ lệ phát triển cân đối và nhịp nhàng
giữa các thành phần kinh tế - xã hội.
II. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
1. Tính tất yếu khách quan trong việc phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, khu vực
kinh tế Nhà nước đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển
kinh tế phục vụ cho tiền tuyến. Chúng ta không thể phủ nhận những đóng
góp và thành quả mà khu vực kinh tế đã đạt được.
Năm 1975 đất nước thống nhất. Chúng ta đã duy trì một nền kinh tế
tập trung với những tham vọng không thể thực hiện được đó là tập trung
phát triển công nghiệp nặng đồng thời phát triển toàn diện công nghiệp nhẹ
và nông nghiệp. Nguồn lực của một nền kinh tế bao gồm ba yếu tố: Vốn,
lao động, công nghệ. Thời gian này chúng ta chưa thể có đầy đủ cả ba yếu
tố.
Thứ nhất, đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh của cải đổ vào phục vụ
cuộc kháng chiến rất nhiều nên vốn tích luỹ trong nước không còn là bao.
10
- Thứ hai, cơ sở hạ tầng và máy móc trang thiết bị chiến tranh tàn phá
nặng nề.
Khi mà đầu vào chưa có đủ thì chắc chắn chúng ta không thể phát triển
nền kinh tế có hiệu quả được. Chính vì phát triển nền kinh tế một cách
thiếu toàn diện nên nền kinh tế sa sút, người dân mất lòng tin với Đảng và
Nhà nước.
Tình hình trong nước là như thế, trong khi đó trên thế giới các mức
trong khu vực đã và đang thực hiện một nền kinh tế hỗn hợp có hiệu quả.
Vì vậy năm 1986, chúng ta chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước.
Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần đó là do còn nhiều
thành hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất . Đại hội Đảng VII đã
khẳng định các thành phần kinh tế đang tồn tại khách quan tương xứng với
tinhs chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn lịch
sử hiện nay đó là: thành phần kinh tế quốc doanh tập thể, cá thể, tư nhân tư
bản chủ nghĩa và tư bản Nhà nước.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường
ở nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế vượt khỏi thực
trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển kể cả trong điều kiện
ngân sách Nhà nứơc hạn hẹp.
Nền kinh tế nhiều thành phần vừa phản ánh tính đa dạng phong phú
trong việc đáp ứng nhu cầu xã hôị vừa phản ánh tính chất phức tạp trong
việc quản lý theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc “phát triển kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà
nứơc về kinh tế xã hội”.
2.Những quan điểm chung về việc phát triển nền kinh tế hàng hoá
11
- nhiều thành phần.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tồn tại trong nó những kiểu sản
xuất hàng hoá không cùng bản chất, vừa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.
Tính thống nhất các thành phần kinh tế thể hiện:
Các thành phần kinh tế trong quá trình vận động không biệt lập nhau
mà gắn bó, đan xen xâm nhập lẫn nhau thông qua các mối liên hệ kinh tế
vì chúng đều là các bộ phận của hệ thống phân công lao động xã hội thống
nhất.
Sự thống nhất các thành phần kinh tế còn vì có yếu tố điều tiết thống
nhất đó là hệ thống các quy luật kinh tế đang tác động trong thời kỳ quá
độ và thị trường thống nhất.
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế với nhau thể hiện : Mâu thuẫn
giữa công hữu và tư hữu, giữa tư nhân với tập thể, với Nhà nước giữa xu
hướng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Mâu thuẫn là cội nguồn của mọi sự vận động và phát triển. Trong hệ
thống kinh tế thống nhất của nền kinh tế quá độ chứa đựng những sự đối
lập, những khuynh hướng đối lập, một mặt bài trừ, phủ định lẫn nhau, cạnh
tranh với nhau mặt khác chúng thống nhất với nhau, thâm nhập, nương tựa
vào nhau để tồn tại và phát triển thông qua hợp tác và cạnh tranh, liên kết,
liên doanh.
Các thành phần kinh tế đều được thừa nhận tồn tại khách quan và Nhà
nước tạo điều kiện và môi trường để chúng tồn tại trên thực tế.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, trước mắt và trong tương lai vẫn có
vai trò hết sức quan trọng có tính chất then chốt trong nền kinh tế nước ta,
đặc biệt là trên một số lĩnh vực. Tuy vậy cũng không nên để cho các dn
Nhà nước tồn tại tràn lan, nhất là những cơ sở doanh nghiệp Nhà nước
không nhất thiết phải nắm. Cần tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà
nước theo hướng củng cố, kiện toàn để các doanh nghiệp này hoạt động có
12
- hiệu quả và làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là một loại công cụ, là cơ
sở vật chất -kỹ thuật của Nhà nứơc có tác động điều tiết nền kinh tế.
Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nứơc có thể thực hiện theo các
hướng:
Đầu tư tập trung ưu tiên cho các loại doanh nghiệp Nhà nước theo thứ
tự:
Thứ nhất, làm ăn có hiệu quả.
Thứ hai, đang hoạt động trong những ngành có vị trí then chốt và
chiến lược quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân.
Thứ ba, đang hoạt động trong những ngành có điều kiện phát triển kỹ
thuật và công nghệ tiến tiến, qua đó có thể tạo ra được cơ sở để cải tiến
cơ cấu công nghiệp, hiện đại hoá nền kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả trong các ngành
không quan trọng thì chuyển đổi sở hữu, sáp nhập, giải thể, cho thuê hoặc
bán đấu giá.
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước khác, khuyến khích các doanh
nghiệp tự bỏ vốn để đầu tư cải tạo, mở rộng sản xuất - kinh doanh và vay
vốn theo nguyên tắc “tự vay tự trả”.
Điều quan trọng là phải chuyển các doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt
động theo cơ chế thị trường và trở thành một chủ thể sản xuất - kinh doanh
thực sự.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chính sách phát triển các
loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải được xây dựng trên quan
điểm:
Không giới hạn sự phát triển.
Cho phép các doanh nghiệp có đủ điều kiện quy định của Nhà nứơc
được mở rộng các hoạt động xuất nhập khẩu và liên kết kinh tế với nứơc
ngoài.
13
- Ngành nghề, thời gian và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp phải
theo đúng quy định của Nhà nước.
Khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức theo các hình thức sở hữu
đan xen.
Với quan điểm này, các chính sách phát triển kinh doanh là một thể
thống nhất không phân biệt thành phần sở hữu và cơ quan chủ quản các
hình thức sở hữu đan xen nhau sẽ tạo nguồn động lực mới cho sự phát triển
của các thành phần kinh tế.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ HÀNG HOÁ
NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM
I.Khái quát.
1/ Trong thời kỳ đầu cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
các xác định quốc doanh (doanh nghiệp Nhà nước) là lực lượng kinh tế chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân. Chúng được hình thành từ ba nguồn sau
đây:
Thứ nhất: xây dựng mới bằng các nguồn vốn của ngân sách Nhà nước,
nguồn vốn viện trợ hoặc vốn đi vay (của Liên Xô cũ), Trung Quốc và các
nước xã hội chủ nghĩa khác trong thời kỳ đó.
Thứ hai: quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân của các nhà tư bản mại
bản dân tộc đã ra nước ngoài hoặc các xí nghiệp Nhà nước ở chế độ cũ.
Thứ ba: biến các xí nghiệp tư nhân của các nhà tư bản dân tộc thành
các xí nghiệp công tư hợp doanh, và sau đó thành các xí nghiệp quốc
doanh.
14
- Cơ chế quản lý kinh tế xã hội chủ nghĩa lúc đó là cơ chế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu, bao cấp, tất cả đều do ngân sách Nhà nước cấp và tất
cả phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
Trong nền kinh tế nước ta lúc bấy giờ:
Các doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng gần như tuyệt đối trong
các ngành công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải và xây dựng.
Kinh tế tập thể chiếm tỷ trọng rất lớn trong các ngành công nghiệp.
Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động hầu hết trong mọi lĩnh vực của
nền kinh tế.
Các doanh nghiệp đều có cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung
quan liêu, bao cấp chi phối, hiệu quả kinh tế kém.
Dưới ánh sáng đường lối của Đảng, trong mấy năm qua chúng ta đạt
được những thành tự đáng kể trong tăng trưởng kinh tế, mở rộng thị trường.
Hàng hoá phong phú cả về chủng loại, mẫu mã và chất lượng. Lạm phát
được kiềm chế, giá cả dần dần được ổn định. Đời sống cán bộ công nhân
viên chức và nhân dân bước đầu được cải thiện.
Từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển sang cơ
chế tị trường, doanh nghiệp đã được “cởi trói”. Doanh nghiệp Nhà nước
được quyền tự chủ về nhiều mặt, tự chịu trách nhiệm về đầu vào và đầu ra
trong sản xuất - kinh doanh, tự mua bán vật tư và sản phẩm.
Các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể sau nhiều năm bị cấm đoán, nay
được tự do sản xuất - kinh doanh trở thành người bạn đồng hành trong nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Sự phát triển và cạnh tranh của các
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hợp doanh trong nước với nước ngoài
được thừa nhận.
Việt Nam từ một nền kinh tế khép kín đã và đang dần chuyển sang nền
kinh tế mở, có điều kiện tiếp xúc với thị trường thế giới, với kỹ thuật và
công nghệ sản xuất tiên tiến, với mô hình tổ chức và phương pháp quản lý
15
- mới, hiện đại. Mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh nghiệp được tự
do cạnh tranh và phát triển trong môi trường mới.
Những thắng lợi bước đầu rất quan trọng đó của công cuộc đổi mới đất
nước được thể hiện ở tốc độ tăng trưởng phát triển kinh tế trong mấy năm
gần đây và ở cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo xu hướng tiến bộ.
a)Về tăng trưởng kinh tế:
Trong năm 1922, tuy nền kinh tế của nước ta còn gặp nhiều khó khăn,
song đó cũng là năm đầu tiên chúng ta đã hoàn thành toàn diện và vượt mức
các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước. So với năm 1991, tổng sản
phẩm trong nước tăng 10% thu nhập quốc dân tăng 7,5% giá trị tổng sản
lượng công nghiệp tăng 15%.
Tình hình sản xuất của năm 1993 tiếp tục tăng so với năm 1992.
b)Về cơ cấu kinh tế theo ngành nghề.
Đại hội Đảng lần thứ VI, trên cơ sở nhận rõ và phê phán những thiếu
sót, sai làm trước đây đã đề ra chủ trương xây dựng và phát triển kinh tế
phục vụ các chương trình kinh tế lớn của đất nước trong giai đoạn trước mắt
và lâu dài: sản xuất lương thực, hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
Thực hiện chủ trương đó, cơ cấu kinh tế ngành được thay đổi một bước
cơ bản, phù hợp với nền kinh tế thị trường ngày càng mở rộng, tạo ra một
bước phát triển mới trong việc phục vụ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cấp thiết
và ngày càng lớn của nhân dân ta sau những năm chịu đựng thiếu thốn do
chiến tranh kéo dài.
Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu trong mấy năm gần đây cũng được
đổi mới. Tỉ trọng hàng thành phẩm xuất khẩu tăng lên, năm 1990, tỉ trọng
đó là 8% năm 1991 tăng lên 17%. Tỉ trọng hàng nhiêu liệu, khoáng sản
nhập khẩu giảm từ 31,4% năm 1990 xuống 21,4% năm 1991. Tổng kim
ngạch xuất khẩu thời kỳ 1986 - 1990 đạt 6,85 tỷ rúp/đô la: bằng 2,37 lần so
với thời kỳ 1981 - 1985, tốc độ tăng bình quân hàng năm là 27%. Năm
16
- 1990 xuất khẩu đạt 2,2 tỷ rúp/ đôla, so với năm 1985 bằng 3,27 lần. Năm
1991, kim ngạch xuất khẩu so với năm 1990 tăng 14,7%. Trong lúc đó kim
ngạch nhập khẩu tăng chậm hơn. Năm 1990, kim ngạch nhập khẩu đạt 2,5
tỷ rúp/đô la bằng 1,4 lần so với năm 1985, năm 1991 đạt 2,2 tỷ rúp/đôla,
giảm 11,1% so với năm 1990.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa hình thành và tạo nên được những ngành
mũi nhọn của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, nhằm làm chủ thị trường
trong nước và cạnh tranh trên thị trường nước ngoài.
c)Về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần:
Chuyển một nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung với thành phần kinh
tế thuần nhất sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một bước đổi
mới quan trọng. Chúng ta không đặt nền kinh tế hàng hoá đối lập với chủ
nghĩa xã hội, không coi kinh tế tư nhân, cá thể là kẻ thù của chủ nghĩa xã
hội, mà coi là bạn đồng hành của kinh tế Nhà nước trên con đường phát
triển kinh tế của đất nước. Với quan điểm đó, kinh tế tư nhân được phục hồi
và phát triển, đã và đang có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường.
Tỉ trọng kinh tế tư nhân trong từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân
đều tăng lên với mức độ khác nhau. Tỉ trọng thành phần kinh tế quốc doanh
giảm tương ứng.
Theo tài liệu của Tổng cục Thống kê năm 1988, tỉ trọng kinh tế quốc
doanh giảm xuống còn 30,5%, tỉ trọng kinh tế ngoài quốc doanh tăng lên:
69,5%. Đến năm 1991, kinh tế quốc doanh chiếm 37%, ngoài quốc doanh
chiếm 63%. Thu nhập quốc dân và tổng sản phẩm sản xuất ra của kinh tế
ngoài quốc doanh ngày càng tăng.
Năm 1994, đất nước bắt đầu thực hiện quá trình công nghiệp hoá -hiện
đại hoá với chiến lược phát triển các thành phần kinh tế hướng ra xuất khẩu.
Chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế phải phát triển thế mạnh tổng
hợp của các thành phần kinh tế, điều quan trọng là phải tạo ra môi trường tự
17
- do để tất cả các thành phần kinh tế có thể xuất khẩu.
Để tạo nguồn tích luỹ trong nước và để phù hợp với trình độ khoa học
- công nghệ trong nước, nhiệm vụ đầu tiên chúng ta thực hiện đó xuất khẩu
sản xuất thô hay chúng ta “bóc” tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu. Hiện
nay một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là: dầu lửa, than đá, gạo.
Việt Nam còn phải nhập khẩu hầu hết những linh kiện điện tử và đồ
điện dân dụng từ nước ngoài. Vì vậy nhiệm vụ thứ hai đặt ra là sản xuất
thay thế hàng nhập khẩu.
Đất nước đang đứng trước mâu thuẫn giữa yêu cầu đổi mới trang bị kỹ
thuật - công nghệ phát triển sản xuất trong nền kinh tế quốc dân với khả
năng tiền vốn eo hẹp của ngân sách và sức ép của lực lượng lao động dôi dư
cần được giải quyết việc làm. Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại
hoá này làm thế nào chúng ta khuyến khích phát triển toàn diện các thành
phần kinh tế hướng ra xuất khẩu, nhất là ở vùng nông thôn có những làng
nghề truyền thống mà lâu nay bị mai một, cầu phục hồi phát triển để tạo ra
nhiều hàng hoá xuất khẩu thu ngoại tệ, góp phần tích luỹ vốn nhằm đổi mới
trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại?
II.Thực trạng phát triển của các thành phần kinh tế hiện nay.
Các thành phần kinh tế Việt Nam dựa trên ba hình thức sở hữu: Nhà
nước, tư nhân, hỗn hợp.
1/ Thành phần kinh tế Nhà nước:
Thành phần này dựa trên chế độ sở hữu Nhà nước về những tư liệu sản
xuất chủ yếu, gồm những đơn vị kinh tế mà toàn bộ số vốn thuộc về Nhà
nước hoặc phần của Nhà nước chiếm tỉ trọng khống chế.
Theo số liệu thống kê, đến năm 1989 cả nước có 12.084 doanh nghiệp
Nhà nước, với số vốn khoảng 10USD, trong đó các doanh nghiệp Nhà nước
trong ngành công nghiệp chiếm 49,3% tổng số vốn xây dựng 9%, nông
nghiệp 8,1%. Lâm nghiệp 1,2%. Giao thông vận tải 14,8%; thương nghiệp
18
- 11,57%, các ngành khác 5,9%.
Hàng năm, thành phần kinh tế Nhà nước đã tạo ra khoảng 35 - 40%
GDP và 22 - 30% GDP, đóng góp từ 60 - 80% tổng số thu ngân sách.
Nhìn tổng quát, toàn bộ khu vực kinh tế Nhà nước chưa tự đảm bảo tái
sản xuất giản đơn. Sự tăng trưởng hàng năm của khu vực kinh tế Nhà nước
chủ yếu do việc gia tăng lượng vốn và lao động. Số đóng góp của khu vực
kinh tế Nhà nước so với số chi của ngân sách Nhà nước cho khu vực này từ
năm 1990 trở về trước là 1:3.
Sau ba năm cấu trúc lại và chuyển đổi cơ chế nhìn chung năm 1991
khu vực kinh tế Nhà nước có một số chuyển biến bước đầu. Các doanh
nghiệp Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp do Trung ương quản lý
trong ngành công nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải và bưu điện
viễn thông đã từng bước thích nghi với cơ chế thị trường nên đã đi dần vào
thế ổn định.
Nhưng những điểm sáng này chưa nhiều. Sự khởi sắc của chúng vẫn
chưa có cơ sở chắc chắn và lâu bền. Số doanh nghiệp Nhà nước đang trong
tình trạng phá sản hoặc có nguy cơ phá sản, đình đốn vẫn chiếm quá nửa số
doanh nghiệp Nhà nước hiện có.
Kết quả điều tra gần đây cho thấy, trong quá trình vận hành cơ chế
quản lý mới, kinh tế Nhà nước cũng bộc lộ nhiều mặt yếu kém và hạn chế.
Một là, đại bộ phận doanh nghiệp Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn
như thiếu vốn, thiếu thị trường, bị thua lỗ triền miên, phải “ăn dần” vào vốn.
Hiện nay, trong tổng số doanh nghiệp Nhà nước, chỉ khoảng 20 - 25% (chủ
yếu là doanh nghiệp Nhà nước trung ương) có lãi, 30 - 35% hoà vốn, còn lại
khoảng 40% (chủ yếu là doanh nghiệp địa phương) bị lỗ vốn. Số doanh
nghiệp thua lỗ chiếm tới 38% số tài sản cố định và 33% số lao động. Tình
hình phổ biến là thiếu việc làm, thừa nhân lực, đặc biệt trong thương
nghiệp, xây dựng, thừa khoảng 40 - 50% số lao động hiện có. Hiện nay có
19
- khoảng 80 - 90% số doanh nghiệp Nhà nước quận, huyện, 50 - 60% số
doanh nghiệp Nhà nước cấp tỉnh thuộc tất cả các ngành kinh tế đang trong
tình trạng đình đốn, không có khả năng hoạt động. Số doanh nghiệp này hầu
hết là quy mô bé, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, không đồng bộ, sản phẩm
làm ra kém chất lượng.
Hai là, nhìn chung các doanh nghiệp Nhà nước có hiệu quả thấp, mới
huy động khoảng 40 - 50% năng lực sản xuất. Hệ số sinh lời của vốn cố
định trong kinh tế Nhà nước bình quân chỉ đạt 7% năm, trong đó, ngành
công nghiệp 3%, giao thông vận tải 2%, thương nghiệp 2%. Hệ số sinh lời
vốn lưu động cũng chỉ đạt 11%/ năm, trong đó các ngành tương ứng đạt
10,6%, 9,4%, 9,5%. Mức tiêu hao vật chất cho một đơn vị giá trị tổng sản
phẩm xã hội cao hơn so với kinh tế ngoài quốc doanh và gấp 1,3 - 2,2 lần
mức trung bình trên thế giới.
Mặt hàng làm ra đơn điệu, chậm cải tiến mẫu mã, chất lượng thấp và
không ổn định, chỉ khoảng 15% số loại sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu,
65% đạt tiêu chuẩn trung bình, 20% đạt chất lượng kém và quá kém.
Ba là, tài sản, vốn của Nhà nước giao cho doanh nghiệp phổ biến là
không được bảo tồn và phát triển, năng lực sản xuất không được mở rộng
và tái tạo, ngược lại bị thất thoát, hư hỏng, lãng phí nhiều nhưng không biết
quy trách nhiệm về ai.
Trong những năm gần đây, không ít doanh nghiệp đã lợi dụng những
kẽ hở của cơ chế quản lý mới chưa được hoàn chỉnh và đồng bộ để mua đi
bán lại tài sản, vật tư, khai báo sai doanh thu, định ra những chế độ chi tiêu,
phân phối rất tuỳ tiện trong đơn vị khác để chia chác, làm giàu cho cá nhân,
vi phạm lợi ích Nhà nước.
Tình hình nêu trên đã làm cho vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước bị
lu mờ, nhất là trong điều kiện Nhà nước khuyến khích các thành phần kinh
tế khác phát triển, tạo ra môi trường cạnh tranh theo cơ chế thị trường.
20
nguon tai.lieu . vn