- Trang Chủ
- Khoa học xã hội
- Tiểu luận: Biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học
Xem mẫu
- MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, sự phát triển của một quốc gia được đánh giá dựa trên nhiều yếu tố
mà trong đó những vấn đề liên quan đến môi trường (MT) luôn là vấn đề được bàn
luận trong những chính sách tích cực nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người dân. Cũng như các nước đang phát triển khác, nền kinh tế Việt Nam
cũng đang trong thời kì Công nghiệp hoá hiện đại hoá, là một nước đi theo con
đường Chủ nghĩa xã hội, luôn mong mỏi đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho
nhân dân. Nhưng bên cạnh lý tưởng cao cả đó là sự ảnh hưởng của ô nhiễm môi
trường đã và đang trì trệ các chính sách nhằm đem lại lợi ích, nâng cao chất lượng
cuộc sống của tất cả mọi người, mà hơn hết là sự phát triển về kinh tế. Môi trường
đang bị hủy hoại nghiêm trọng, sự ô nhiễm, suy thoái và những sự cố môi trường diễn
ra ngày càng ở mức độ cao, đang đặt con người trước sự trả thù ghê gớm của thiên
nhiên. Việc ô nhiễm, suy thoái môi trường chủ yếu là do sự thiếu hiểu biết, thiếu ý
thức của con người về việc bảo vệ môi trường (BVMT) gây nên. Vì vậy, vấn đề
BVMT là rất cấp bách, rất cần thiết, trong đó Giáo dục môi trường là chìa khoá quan
trọng nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi người đặc biệt là giới trẻ, có cả lứa
tuổi mầm non.
Giáo dục HV BVMT đã trở thành nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo thế hệ
trẻ ở các trường học và được quan tâm ngay từ bậc học đầu tiên: Bậc học Mầm non.
Thông qua hoạt động khám phá môi trường để cung cấp cho trẻ những hiểu biết ban
đầu về môi trường sống của con người nói chung và bản thân trẻ nói riêng, để trẻ có
hành vi ứng xử phù hợp giữ gìn và bảo vệ môi trường, biết sống hòa nhập vào môi
trường nhằm đảm bảo sự phát triển lành mạnh về cơ thể và trí tuệ. Muốn làm được
điều đó, trước hết chúng ta phải xây dựng cho trẻ tự ý thức vệ sinh và biết bảo vệ
môi trường trong đời sống hàng ngày, đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng để đào
tạo thế hệ trẻ ngay từ tuổi ấu thơ nhằm hình thành cho trẻ kỹ năng, thói quen tốt về
bảo vệ môi trường. Hiện nay Chính phủ đã có đề án “Đưa nội dung giáo dục hành vi
Bảo vệ môi trường vào hệ thống GD quốc dân” trong đó có bậc học mầm non.
1
- Trong chương trình giáo dục mầm non (GDMN) hiện hành không có nội dung
giáo dục hành vi BVMT riêng biệt, mà được lồng ghép trong nhiều hoạt động khác
nhau làm cho giáo viên gặp những khó khăn nhất định. Trong đó, hoạt động khám phá
khoa học (KPKH) đem lại nhiều ưu thế trong việc GD HVBVMT cho trẻ mầm non về
góc độ trẻ, giáo viên,… Giáo dục hành vi BVMT cho trẻ thông qua hoạt động khám
phá khoa học là hoạt động tác động đến hệ thống của nhà giáo dục lên trên trẻ bằng
các hoạt động khám phá thực tiễn, bằng vốn kinh nghiệm cá nhân, tự mình chiếm lĩnh
kiến thức, kỹ năng, thái độ. Hoạt động KPKH mang đến cho trẻ những cảm nhận mới
lạ về môi trường xung quanh, phát triển về nhận thức cho trẻ, hình thành ở trẻ lòng
yêu thiên nhiên, có ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường, biết BVMT. Vì thế việc giúp trẻ
có những trải nghiệm, hình thành và phát triển thẩm mỹ ở trẻ sự cảm thụ cái đẹp của
thiên nhiên, lòng yêu thiên nhiên, có ý thức bảo vệ thì việc sử dụng hoạt động KPKH
để GD HVBVMT là một giải pháp quan trọng. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay ở
nhiều trường MN đều có tổ chức các hoạt động KPKH nhưng chưa đầu tư nhiều về
thời gian. Đa số giáo viên chỉ truyền đạt đến trẻ những kiến thức qua việc cho trẻ xem
tranh ảnh hay đàm thoại trong hoạt động KPKH mà trẻ ít được thực hành, trẻ chưa có
nhiều cơ hội trải nghiệm, tìm hiểu về thế giới dẫn đến việc nhận thức của trẻ chưa
được mở rộng, từ đó việc hình thành ý thức BVMT ở trẻ cũng hạn chế.
Xuất phát từ những lí do trên, căn cứ vào ưu thế và những hạn chế trong thực
tiễn, chúng tôi lựa chọn đề tài “Biện pháp giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ
mẫu giáo 56 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học” để tìm hiểu thực trạng
GD HVBVMT trong hoạt động KPKH cho trẻ, từ đó đề xuất những biện pháp nhằm
nâng cao công tác giáo dục ở trường mầm non.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu lý luận và tìm hiểu thực trạng giáo dục hành vi Bảo vệ môi
trường cho trẻ mẫu giáo 56 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học. Chúng tôi
đề xuất một số biện pháp giáo dục hành vi Bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo 56
tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo
dục môi trường cho trẻ mầm non.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
2
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình giáo dục hành vi Bảo vệ môi trường cho trẻ
mẫu giáo 56 tuổi tại trường mẫu giáo tư thục Diệu Viên và trường mầm non tư thục
Hoa Nghiêm – thành phố Huế. Từ đó đề ra một số biện pháp.
Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ
mầm non thông qua hoạt động khám phá khoa học.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Hoạt động khám phá khoa học ở trẻ mẫu giáo là hoạt động giúp trẻ nhận thức
thêm về thế giới xung quanh. Nếu sử dụng đúng đắn một số biện pháp giáo dục hành
vi Bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo 56 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa
học thì hành vi Bảo vệ môi trường của trẻ sẽ tốt hơn.
5. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi và địa bàn nghiên cứu: Giáo dục hành vi Bảo vệ môi trường trẻ mẫu
giáo 56 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học tại trường mẫu giáo tư thục
Diệu Viên, trường mầm non tư thục Hoa Nghiêm – thành phố Huế.
Phạm vi thời gian nghiên cứu: 2 tháng
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận về giáo dục hành vi Bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu
giáo 56 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học
Nghiên cứu thực trạng giáo dục hành vi Bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo 5
6 tuổi thông qua hoạt khám phá khoa học ở trường mầm non
Đề xuất một số biện pháp giáo dục hành vi Bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu
giáo 56 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học ở trường mầm non
7. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Sử dụng các phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp, hệ thống hóa các vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
3
- + Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động của trẻ, giáo viên, trường mầm
non để tìm hiểu thực trạng.
+ Phương pháp đàm thoại: Trao đổi, trò chuyện với BGH, giáo viên và trẻ về
những vấn đề liên quan đến thực trạng.
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Thu thập ý kiến của giáo viên bằng
phiếu nhằm tìm hiểu thực trạng.
+ Phương pháp thống kê toán học: Các số liệu thu thập được trong quá trình
nghiên cứu được chúng tôi xử lý, phân tích và kiểm định trên các công thức toán học.
8. Cấu trúc đề tài
Chương 1. Cơ sở lý luận về giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ 56
tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học
Chương 2. Thực trạng giáo dục hành vi Bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo 5
6 tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học
Chương 3. Biện pháp giáo dục hành vi Bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo 56
tuổi thông qua hoạt động khám phá khoa học
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC HÀNH VI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CHO TRẺ
56 TUỔI THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG KHÁM PHÁ KHOA HỌC.
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề môi trường và giáo dục môi trường đã được quan tâm từ rất sớm trên thế
giới cũng như ở Việt Nam. Từ những năm 70 – 80 của thế kỉ XX, trên thế giới đã có
những cuộc hội nghị về giáo dục môi trường như: Hội nghị quốc tế về giáo dục môi
trường trong Chương trình đào tạo của trường học do IUCN/UNESCO tổ chức tại
Nevada (Mỹ) năm 1970. Năm 1972, Liên hợp quốc đã tổ chức hội nghị cấp cao đầu
tiên với sự có mặt của nhiều nguyên thủ quốc gia tại Stốckhon (Thụy Điển) để thảo
luận về “Môi trường và con người”. Hội nghị đã nhất trí nhận định việc bảo vệ thiên
nhiên và thiên nhiên là một trong hai nhiệm vụ hàng đầu của toàn nhận loại. Bên cạnh
đó, để đề ra được nhiều chiến lược, sách lược quan trọng về vấn đề bảo vệ môi
4
- trường, trong các cuộc hội thảo, hội nghị nhiều quốc gia trên thế giới đã đi theo những
hướng cơ bản từ nghiên cứu về mục tiêu, nguyên tắc giáo dục môi trường; Nghiên
cứu tầm quan trọng của giáo dục đối với các vấn đề về môi trường; Nghiên cứu về
trách nhiệm của con người đối với việc phát triển môi trường một cách bền vững.
Năm 1975, tại Belyrade (Nam Tư) Chương trình giáo dục môi trường quốc tế
(IEEP) ra đời. Tại Hội thảo Quốc tế lần thứ nhất về giáo dục môi trường, chương
trình IEEP đã đưa ra được Nghị định khung và tuyên bố về những mục tiêu, nguyên tắc
hướng dẫn giáo dục môi trường. Hội thảo đã công bố Hiến chương Balyrade – Một
hệ thống nguyên tắc toàn cầu cho giáo dục môi trường.
Vào năm 1977 tại Hội nghị quốc tế về Giáo dục môi trường của Liên hợp quốc
tổ chức tại Tbilisi đã đưa ra khái niệm: “Giáo dục môi trường có mục đích làm cho
cá nhân và các cộng đồng hiểu được bản chất phức tạp của môi trường tự nhiên và
môi trường nhân tạo là kết quả tương tác của nhiều nhân tố sinh học, lý học, xã
hội, kinh tế và văn hóa; đem lại cho họ kiến thức, nhận thức về giá trị, thái độ và kỹ
năng thực hành để họ tham gia một cách có trách nhiệm và hiệu quả trong phòng ngừa
và giải quyết các vấn đề môi trường và quản lý chất lượng môi trường”. Năm 1987,
tại Hội nghị về môi trường ở Moscow do UNEP và UNESCO đồng tổ chức, đã đưa ra
kết luận về tầm quan trọng của giáo dục môi trường: “Nếu không nâng cao được sự
hiểu biết của công chúng về những mối quan hệ mật thiết giữa chất lượng môi
trường với quá trình cung ứng liên tục các nhu cầu ngày càng tăng của họ, thì sau này
sẽ khó làm giảm bớt được những mối nguy cơ về môi trường ở các địa phương cũng
như trên toàn thế giới. Bởi vì, hành động của con người tùy thuộc vào động cơ của họ
và động cơ này lại tùy thuộc vào chính nhận thức và trình độ hiểu biết của họ. Do đó,
giáo dục môi trường là một phương tiện không thể thiếu để giúp mọi người hiểu
biết về môi trường”. Cả hai cuộc hội nghị điều nói đến công tác giáo dục và xác định
mục đích cuối cùng của giáo dục môi trường là tiến tới xã hội hóa các vấn đề môi
trường, nghĩa là tạo ra các công dân có nhận thức, có trách nhiệm với môi trường,
biết sống vì môi trường.
Tháng 10/1990 UNESCO, UNEP và một số tổ chức khác của Liên hợp quốc đã
tổ chức hội nghị “Chương trình quốc tế về giáo dục và đào tạo môi trường”. Hội nghị
đã nêu rõ cam kết của các tổ chức quốc tế phối hợp hành động, phục vụ mục tiêu phổ
5
- biến kiến thức môi trường cho mọi người để họ có thể đóng góp những hoạt động cá
nhân và tập thể có lợi cho môi trường.
Thông qua diễn biến của các hội nghị, hội thảo về vấn đề môi trường trên thế
giới trong nhiều năm qua, cho thấy các quốc gia trên thế giới đều xem giáo dục là công
cụ quan trọng nhất để giáo dục môi trường, là tác nhân có ảnh hưởng mạnh mẽ đến
việc thay đổi nhận thức của con người đối với các vấn đề môi trường. Tất cả các hội
nghị, hội thảo đều hướng tới việc làm cho môi trường toàn cầu được cải thiện tốt
đẹp hơn.
Ở Việt Nam, vấn đề giáo dục môi trường được coi là một bộ phận không thể
tách rời của sự nghiệp giáo dục và là nhiệm vụ của toàn dân. Công tác giáo dục môi
trường đã được đặt ra trong các văn bản của Nhà nước, Bộ giáo dục và đào tạo, là cơ
sở triển khai công tác giáo dục môi trường trong thực tiễn.
Năm 1993, Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ môi trường. Trong điều 4 của
Luật đã xác định rõ giáo dục và đào tạo là một trong những nhiệm vụ bảo vệ môi
trường: “Nhà nước có trách nhiệm tổ chức việc thực hiện giáo dục và đào tạo, nghiên
cứu khoa học và công nghệ, phổ biến kiến thức về khoa học và pháp luật bảo vệ môi
trường. Các tổ chức và các cá nhân có trách nhiệm tham gia vào các hoạt động bảo
vệ môi trường và giáo dục bảo vệ môi trường.”
Chỉ thị số 36CT/TW ngày 25061998 của Bộ Chính trị về “Tăng cường công
tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã coi
vấn đề GD BVMT là giải pháp đầu tiên. Chỉ thị đề ra 8 giải pháp lớn về BVMT, phát
triển bền vững trong thời gian tới ở nước ta, trong đó có nhiều giải pháp liên quan đến
giáo dục.
Quyết định số 1363/ QĐTTg ngày 17102001 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt đề án “Đưa nội dung giáo dục môi trường vào hệ thống giáo dục quốc
dân” Mục tiêu của đề án nhằm giáo dục học sinh, sinh viên các cấp học, bậc học, trình
độ đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân có hiểu biết về pháp luật và chủ chương
chính sách của Đảng, Nhà nước về BVMT, có kiến thức về môi trường để tự giác thự
hiện bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy,
giáo viên, cán bộ nghiên cứu khoa học công nghệ và cán bộ quản lý về BVMT.
6
- Quyết định của thủ tướng chính phủ số 256/2003/QDTTG ngày 02 tháng 12
năm 2003 về việc phê duyệt chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và
định hướng đến năm 2020. Tại đây đã đưa ra những quan điểm và mục tiêu cụ thể về
môi trường.
Bên cạnh đó, trong cuốn sách International Conventions environmental protection
(Tạm dịch: Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường) cho rằng: Bảo vệ môi trường là
một trong những nhiệm vụ trọng yếu và cấp bách không chỉ ở một quốc gia mà còn là
của các quốc gia trên toàn thể giới. Vì môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với
đời sống con người, sinh vật và sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước,
của dân tộc và nhân loại. Để hưởng ứng chương trình hành động môi trường thế giới
của thế kỷ thứ XXI, góp phần bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu, Việt Nam đã
tham gia, phê chuẩn các Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường. Đây là cơ sở pháp
lý quan trọng thúc đẩy quan hệ quốc tế về bảo vệ môi trường của Việt Nam với các
nước.
Vấn đề môi trường không chỉ được chú trọng trong những cuộc hội nghị của
các cấp lãnh đạo đất nước, mà các ngành giáo dục của các bậc học cũng chú trọng,
luôn tìm tòi, nghiên cứu về giáo dục môi trường cho học sinh, sinh viên và cả lứa tuổi
mầm non.
Trong những năm qua, có rất nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục môi
trường cho trẻ mầm non ra đời như:
Lê Xuân Hồng, Nguyễn Thanh Thủy (2007), trong cuốn Những họat động giáo
dục trẻ bảo vệ môi trường; Lê Thị Kim Anh – Các hình thức hoạt động trải nghiệm
Giáo dục hành vi Bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo 45 tuổi. của tạp chí giáo dục,
số 33.Cũng chỉ ra các hoạt động cụ thể giáo dục môi trường cho trẻ mầm non.
Trong cuốn “Hướng dẫn thực hiện nội dung giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ
mầm non”, hay cuốn “Lồng ghép nội dung giáo dục môi trường trong chương trình
đào tạo giáo viên mầm non”, của Bộ giáo dục và Đào tạo (2001), NXB Giáo Dục Việt
Nam. Đã giúp cho cán bộ giáo viên biết cách thực hiện lồng ghép các nội dung giáo
dục môi trường trong các hoạt động khác nhau.
7
- Nhiều bài nghiên cứu khoa học, sáng kiến khoa học, khóa luận,… đề cập đến
việc giáo dục bảo vệ môi trường như:
+ Đề tài “Xây dựng nội dung bảo vệ môi trường cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi trong
trường mầm non” (Trung tâm nghiên cứu GDMN – Viện khoa học giáo dục, 1998
2000);
+ Đề tài “Giáo dục bảo vệ môi trường cho trẻ từ 36 tuổi trong trường mầm non
theo quan điểm tích hợp” (Đề tài nghiên cứu cấp Bộ Tiến sĩ Lê Thanh Vân – Khoa
GDMN – Trường ĐHSP Hà Nội, 20032004)
+ Sáng kiến khoa học. Đề tài “Biện pháp giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho
trẻ mẫu giáo lớn”
+ Giáo trình giáo dục môi trường cho trẻ mầm non (Hoàng Thị Phương, NXB
ĐHSP, 2013)
+ Tài liệu hướng dẫn về GDMT ở mẫu giáo (Hoàng Đức Nhuận – Chủ biên,
Trung tâm nghiên cứu giáo
Ngoài ra có rất nhiều đề tài liên quan đến vấn đề giáo dục môi trường và giáo
dục bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non
1.2. Một số vấn đề lý luận về giáo dục hành vi Bảo vệ môi trường
8.1 Khái niệm giáo dục hành vi Bảo vệ môi trường
Để xác định được khái niệm “GD HVBVMT”, cần hiểu được những thuật ngữ
“Môi trường”, “Bảo vệ môi trường”, “hành vi Bảo vệ môi trường”.
8.1.1. Khái niệm Môi trường
Đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về môi trường.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và
các yếu tố nhân tạo, có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh
hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người và thiên nhiên”.
Theo từ điển MT của Gurdey Rej (1981) định nghĩa môi trường như sau: “Môi
trường là hoàn cảnh vật lý, hóa học, sinh học bao quanh sinh vật, đó gọi là môi trường
8
- bên ngoài. Còn các điều kiện, hoàn cảnh vật lý, hóa học, sinh học trong cơ thể được
gọi là môi trường bên trong”.
Theo Từ điển bách khoa Larouse định nghĩa môi trường được mở rộng hơn: “Môi
trường là tất cả những gì bao quanh chúng ta hoặc sinh vật. Nói cụ thể hơn, đó là các
yếu tố tự nhiên và nhân tạo diễn ra trong không gian cụ thể, nơi đó có thể có sự sống
hoặc không có sự sống. Các yếu tố đều chịu ảnh hưởng sâu sắc của những định luật
vật lý mang tính tổng quát hoặc chi tiết như luật hấp dẫn vũ trụ, bảo tồn vật chất...
Trong đó hiện tượng hóa học và sinh học là những đặc thù cục bộ. Môi trường bao
gồm tất cả những nhân tố tác động qua lại trực tiếp hoặc gián tiếp với sinh vật và
quần xã sinh vật. ”
Theo định nghĩa của UNESCO (1981) thì môi trường của con người bao gồm
toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình
(tập quán, niềm tin,…) trong đó con người sống và lao động, họ khai thác các tài
nguyên thiên nhiên và nhân tạo nhằm thỏa mãn những nhu cầu của mình.
Một khái niệm khác về MT: “Môi trường là tất cả mọi người xung quanh chúng
ta. Với thế giới tuổi thơ ở trường phổ thông – nơi các em đang ngày đêm học tập, môi
trường là không khí trong lành, là sân chơi, vườn trường với nhiều hoa tươi và cây
xanh. Với công nhân, nhà máy – nơi họ làm việc là môi trường”. Nói cách khác, môi
trường là một trung tâm cụ thể với những nhân tố xung quanh trung tâm đó. Vì vậy,
những trung tâm khác nhau thì môi trường cúng lớn nhỏ khác nhau [7.tr8].
Môi trường có vai trò quan trọng đối với con người và động, thực vật trên Trái
đất: (1) là không gian sinh sống cho con người và các sinh vật khác; (2) là nơi chứa
đựng các nguồn tài nguyên cần thiết cho đời sống, sản xuất của con người; (3) là nơi
chứa đựng các chất phế thải do con người tạo ta trong cuộc sống, sinh hoạt, sản xuất;
(4) là nơi lưu trữ và cung cấp thông tin cho con người [9.tr13].
Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng, môi trường là tất cả những gì bao quanh và có
ảnh hưởng đến một vật thể hay sự kiện nào đó.
Môi trường theo nghĩa hẹp, môi trường đối với con người và sinh vật “bao gồm
các nhân tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời
9
- sống sản xuất và sự tồn tại, phát triển của con người và sinh vật” (Luật BVMT Việt
Nam 2005).
8.1.2. Khái niệm Bảo vệ môi trường
Trong Luật Bảo vệ môi trường của nước ta ban hành ngày 12/12/2005, khái niệm
Bảo vệ môi trường (BVMT) được hiểu như sau: “Bảo vệ môi trường là hoạt động
giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với
môi trường, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục hồi và cải
thiện môi trường, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ đa
dạng sinh học” (Điều 3, chương I, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005)
Bảo vệ môi trường là những hoạt động tích cực của con người tác động đến môi
trường giúp ngăn chặn và hạn chế những tác động xấu đối với môi trường làm cho
môi trường trong sạch, sử dụng hợp lý và kiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên,
đồng thời tái tạo môi trường [7].
Như vậy BVMT có thể được hiểu đó là tất cả những việc làm, những hành động
của con người từ những việc nhỏ như bỏ rác đúng nơi quy định, tiết kiệm nguồn tài
nguyên thiên nhiên trong sinh hoạt… cho đến những nghiên cứu khoa học về môi
trường để làm cho môi trường trong lành, không bị ô nhiễm. BVMT cũng là những cử
chỉ lời nói giúp mọi người có ý thức BVMT của cộng đồng.
8.1.3. Khái niệm hành vi Bảo vệ môi trường
Thuật ngữ “hành vi” được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau:
Theo từ điển tiếng Việt: Hành vi là cách ứng xử trong một hoàn cảnh nhất
định, được biểu hiện bằng lời nói, cử chỉ, hành động nhất định [Đại từ điển tiếng việt
– Bộ GDĐT]
Theo từ điển Tâm lí học: Hành vi chỉ mọi phản ứng của động vật khi bị một yếu
tố nào đó trong môi trường kích thích; các yếu tố bên ngoài và hành vi có định
hướng nhằm giúp chủ thể thích nghi với hoàn cảnh. Khi nhấn mạnh về tính khách
quan, tức là các yếu tố bên ngoài kích thích cũng như phản ứng đều là những hiện
tượng có thể quan sát được, chứ không như tình ý bên trong, thì nói là ứng xử. Khi
nhấn mạnh mặt định hướng mục tiêu thì gọi là hành vi (Từ điển tâm lí).
10
- Có thể hiểu hành vi là những hành động và cách cư xử được điều chỉnh bởi chủ
thể có ý thức. Nghĩa là khi chủ thể hành động nắm được cái nghĩa (lôgic của hành vi)
và thực hiện hành vi đó theo một ý nhất định (nhu cầu, tình cảm..) của cá nhân mình,
đồng thời có khả năng thực hiện được hành vi đó [7].
Hành vi bảo vệ môi trường là những hành động có ý thức của con người tác động
đến môi trường giúp ngăn chặn và hạn chế những tác động xấu đối với môi trường
làm cho môi trường trong sạch, sử dụng hợp lí và tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên
nhiên, đồng thời tái tạo môi trường [7].
8.1.4. Khái niệm giáo dục hành vi Bảo vệ môi trường
Giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội, là hoạt động riêng chỉ con người
mới có, nó thể hiện ở chỗ con người truyền thụ cho nhau tri thức để tồn tại và phát
triển. Đây chính là phương thức tồn tại của loài người. Giáo dục được xem như quá
trình hình thành và phát triển nhân cách con người.
Theo từ điển Tiếng Việt. Giáo dục theo nghĩa chung là hình thức học tập theo
kiến thức, kỹ năng và thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn
ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học.
Theo nghĩa rộng, giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách được tổ
chức một cách có mục đích, có kế hoạch thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa
người giáo dục và người được giáo dục nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh
nghiệm xã hội của loài người.
Giáo dục môi trường là một quá trình nhằm phát triển ở người học sự hiểu biết
và quan tâm đến những vấn đề môi trường, bao gồm kiến thức, thái độ, hành vi, trách
nhiệm để tự mình và cùng tập thể đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết các vấn
đề môi trường trước mắt cũng như lâu dài (Bộ giáo dục và Đào tạo / Chương trình
phát triển Liên hợp quốc, 1998)
Giáo dục hành vi Bảo vệ môi trường là quá trình tác động có mục đích, có kế
hoạch của nhà giáo dục nhằm hình thành ở người học một cách ứng xử tích cực đối
với môi trường, làm cho môi trường trong sạch, sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguồn tài
11
- nguyên thiên nhiên, đồng thời tái tạo môi trường [7]. Mặt khác có thể hiểu giáo dục
hành vi BVMT cho trẻ mầm non nhằm hình thành ở trẻ sự quan tâm trước những vấn
đề về môi trường; trang bị cho trẻ những hiểu biết sơ đẳng về môi trường, những kĩ
năng ứng xử với môi trường phù hợp với độ tuổi; phát triển thái độ, hành vi, trách
nhiệm của trẻ đối với môi trường một cách tích cực.
8.2 Đặc điểm hành vi bảo vệ môi trường ở trẻ 56 tuổi [9]
Trẻ mẫu giáo 56 tuổi là giai đoạn phá triển mạnh mẽ về kiểu trực quan hình
tượng mới – tư duy trực quan sơ đồ và những yếu tố của kiểu tư duy lôgic. Bên cạnh
đó, khả năng tổng hợp và khái quát những dấu hiệu bên ngoài của sự vật hiện tượng
của trẻ tương đối tốt [12]. Trẻ có nhu cầu cao trong việc khám phá bản chất của đối
tượng trong MT, tìm hiểu các mối quan hệ và sự phụ thuộc giữa các sự vật và hiện
tượng để thỏa mãn nhu cầu nhận thức của mình. Trẻ có khả năng nhận biết các đối
tượng một cách toàn diện nhờ sự phối hợp giữa các giác quan. Các kết quả nghiên cứu
cho thấy rằng, đến cuối lứa tuổi mầm non, khả năng lĩnh hội tri thức về mối quan hệ
của trẻ ngày càng tăng, trẻ không chỉ hiểu được các yếu tố riêng biệt của sự ảnh
hưởng mà còn nắm được hệ thống cụ thể các tri thức về đặc điểm, sự lớn lên và phát
triển cũng như sự thích nghi của động thực vật với môi trường sống. Trong quá trình
chăm sóc và quan sát động, thực vật, trẻ có thể hiểu được các yếu tố của môi trường
đảm bảo trạng thái phát triển tốt cho sinh vật; trẻ có thể kiên trì chờ đợi sự phát triển
của nụ hoa, chồi non,… trẻ có hứng thú, ý thức nghe và thực hiện các yêu cầu của
giáo viên về sự cần thiết phải tạo ra MT đặc biệt trong giai đoạn sinh nở của động
vật: cần yên tĩnh, chăm sóc cẩn thận hơn, đa dạng hóa thức ăn, thức ăn riêng cho con
nhỏ. Quá trình chăm sóc động, thực vật ở trẻ hình thành thái độ đặc biệt với động vật
nhỏ: nhẹ nhàng, thận trọng và quan tâm chăm sóc các con vật nhỏ. Ở trẻ xuất hiện sự
đồng cảm, có hành động chuẩn bị giúp đỡ và làm những việc cần thiết để giúp đỡ các
cơ thể non nớt. Trong trường hợp cụ thể, trẻ ý thức được vai trò lao động của con
người trong cuộc sống thực vật, động vật và có khả năng tác động lên các đối tượng
tự nhiên.
Trẻ có khả năng lĩnh hội tri thức về sự đa dạng sinh vật trong môi trường sống.
Trẻ mẫu giáo 56 tuổi có thể phân biệt chính xác giữa sinh vật vô sinh và sinh vật hữu
12
- sinh. Ngoài ra, trẻ còn biết một số dấu hiệu khác của người, động vật là cần ăn uống,
có cảm xúc, tình cảm, phát ra âm thanh; thực vật là cần nước, ánh sáng, đất,… đối với
vật vô sinh, trẻ không nêu được đặc điểm, đặc thù của nó mà chỉ mô tả chúng là
những vật không động đậy, không di chuyển, không sống.
Trẻ có khả năng lĩnh hội tri thức về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên.
Nhận thức của trẻ về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên được thể hiện ở ba
loại tri thức quan trọng là: biện pháp sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong hoạt động
sản xuất và sinh hoạt của con người; việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và phục hồi
chúng; con người với tư cách là cơ thể sống, cần có môi trường nhất định để sống.
Tóm lại, nhận thức của trẻ nhỏ vẫn mang nặng tính trực quan cảm tính. Chính vì
vậy trong quá trình GD HVBVMT cho trẻ cần xây dựng MT hoạt động phong phú, đặc
biệt là MT tự nhiên, tạo nhiều cơ hội cho trẻ được trải nghiệm, tìm tòi, khám phá.
8.3 Mục đích [9], nội dung giáo dục hành vi bảo vệ môi trường ở trẻ 56
tuổi
Mục đích GD HVBVMT cho trẻ mẫu giáo trong chương trình GDMN:
GD MT cho trẻ được hiểu là quá trình “nhằm phát triển ở trẻ những hiểu biết sơ
đẳng về MT, quan tâm đến các vấn đề MT phù hợp với lứa tuổi được thể hiện qua
kiến thức, thái độ, kỹ năng, hành vi của mỗi trẻ đối với MT xung quanh”. Theo đó, GD
HVBVMT cho trẻ mầm non được hiểu là một quá trình tác động có mục đích, có kế
hoạch của nhà giáo dục nhằm hình thành ở trẻ sự quan tâm trước những vấn đề MT;
trang bị cho trẻ những kỹ năng ứng xử với MT phù hợp với độ tuổi, phát triển thái độ,
hành vi, trách nhiệm của trẻ đới với MT một cách tích cực.
Mục đích GD HVBVMT cho trẻ ở trường mầm non hướng đến những mục tiêu
như là: hình thành biểu tượng về MT sống, mối quan hệ giữa MT và con người, việc
BVMT phù hợp với lứa tuổi, đặc điểm tâm sinh lý của trẻ; GD trẻ bước đầu có ý
thức, quan tâm đến những vấn đề về MT, nhận biết được trách nhiệm trong MT hình
thành một số kỹ năng bảo vệ và giữ gìn MT, ứng xử tích cực trong việc giải quyết
vấn đề MT, bước đầu có thói quen BVMT phù hợp với lứa tuổi.
13
- Nội dung GD HVBVMT cho trẻ mẫu giáo trong chương trình GDMN: Từ quan
điểm xác định nội dung GDMN trong chương trình GDMN hiện hành, nội dung GD
HVBVMT cho trẻ ở trường mầm non không có nội dung riêng biệt mà được lồng ghép
qua nhiều hoạt động trong ngày của trẻ. Dựa vào phân loại MT và khả năng nhận thức
của trẻ, có thể chia các nội dung GD HVBVMT cho trẻ mẫu giáo 56 tuổi thành các
lĩnh vực sau [2]:
Lĩnh vực 1: Con người và môi trường sống
Giáo dục trẻ biết được những hiểu biết đầu về môi trường sống của con người
từ đó có những hành vi BVMT: Nguyên nhân và tác hại của MT ô nhiễm, biết giữ gìn
MT sạch và cách tránh những tác hại do ô nhiễm MT. Trẻ biết tiết kiệm nguồn tài
nguyên.
Lĩnh vực 2: Con người với động vật và thực vật
Trẻ có hiểu biết ban đầu về đặc điểm của cây cối, con vật như: hình dạng, nơi
ở, thức ăn, sinh trưởng, lợi ích… trẻ biết tác hại của việc chặt phá rừng, giết hại loài
vật. Từ đó hình thành ở trẻ những động bảo vệ động vật và thực vật như: không giết
hại những loài vật, biết chăm sóc, bảo vệ cây cối và con vật. Phê phán những hành
động sai trái làm ảnh hưởng đến động vật và thực vật.
Lĩnh vực 3: Con người với thiên nhiên
Giúp trẻ hiểu biết về những hiện tượng tự nhiên: Gió, mưa, nắng… biết nguyên
nhân, tác hại của các hiện tượng tự nhiên bất thường như bão lũ lụt, hạn hán và cách
phòng ngừa. Từ đó trẻ có những hành động phù hợp với thời tiết như: mưa thì mang
áo mưa, nắng đội mũ…
Lĩnh vực 4: Con người và tài nguyên
Giáo dục trẻ về lợi ích các loại tài nguyên như đất, nước, rừng… tù đó biết sử
dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên.
Lĩnh vực 5: Con người và văn hóa xã hội
Giáo dục trẻ lễ phép, chào hỏi khi gặp người lớn, hòa đồng với bạn bè và em
nhỏ.
14
- Trẻ biết giữ gìn vệ sinh đồ dùng, đồ chơi trong gia đình và phòng học. Trẻ biết tên gọi
của một số địa danh nổi tiếng, danh lam thắng cảnh, biết giữ gìn và bảo vệ danh lam
thắng cảnh. Phân biệt được hành vi “đúng” “sai”, “tốt” “xấu”.
Trẻ biết tên gọi các phương tiện giao thông, biết được lợi ích và tác hại của
chúng để có những hành động làm giảm ô nhiễm MT như: nếu trường gần nhà nên đi
bộ thay vì đi xe máy, trồng nhiều cây xanh…
8.4 Nguyên tắc giáo dục hành vi bảo vệ môi trường ở trẻ 56 tuổi
8.4.1. Đảm bảo tính mục đích
GD HVBVMT cho trẻ phải hướng đến mục tiêu chung của chương trình GDMN
trên cơ sở thực hiện mục tiêu trọng tâm là phát triển nhận thức. Tổ chức GD
HVBVMT cần xác định rõ mục tiêu hoạt động của hành vi BVMT và đảm bảo mục
tiêu trong quá trình tổ chức hoạt động đó tránh xác định mục tiêu mang tính chung
chung, mục tiêu một đường hoạt động một nẻo,…
8.4.2. Đảm bảo tính chính xác, phát triển
Những kiến thức hành vi BVMT cần cung cấp cho trẻ là những kiến thức sơ
đẳng về cơ thể con người, sinh vật học, những thay đổi về mặt vật lý, hóa học,… Vì
vậy, việc giáo dục hành vi BVMT ở trường mầm non phải đảm bảo tính chính xác,
khoa học. Từ đó trẻ có cái nhìn đúng đắn sự vật – hiện tượng. Song song đó những
vấn đề khoa học luôn biến biến đổi người lớn cần tìm hiểu, cung cấp kiến thức cho
trẻ về những thay đổi mới của môi trường.
8.4.3. Đảm bảo tính thực tiễn và phù hợp với khả năng, hứng thú của trẻ
"Thực tiễn là cơ sở của nhận thức", vì vậy các nội dung GD HVBVMT phải
xuất phát từ thực tiễn thiên nhiên và xã hội ở chính địa phương của trẻ. Các sự vật,
hiện tượng trong môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội xung quanh chúng
ta rất đa dạng và phong phú. Vì vậy giáo viên nên chọn nội dung gần gũi cho trẻ tìm
hiểu, khám phá. Các phương pháp, hình thức và phương tiện khám phá cần phải vừa
sức với trẻ, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của trường lớp, địa phương.
8.4.4. Đảm bảo tính trực quan thẩm mỹ
15
- Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của trẻ thiên về trực quan hành động, trong
quá trình cho trẻ làm quen với môi trường xung quanh cần phải tăng cường các yếu tố
trực quan, nhằm giúp trẻ nhận thức thế giới khách quan một cách hiệu quả, toàn diện
và chính xác. Các đồ dùng trực quan sử dụng cho trẻ làm quen phải đảm bảo yêu cầu
sư phạm, thẩm mỹ. Đồ dùng trực quan là tranh, ảnh, mô hình thì các đối tượng phản
ánh trong đó phải giống như trên thực tế. Tránh sử dụng những tranh ảnh dùng cho kể
chuyện cổ tích để cho trẻ nhận biết về các sự vật, hiện tượng xung quanh.
8.4.5. Đảm bảo tính tích cực hoạt động của trẻ
Hoạt động khám phá khoa học về môi trường xung quanh cần phải có sự tham
gia tích cực và chủ động của trẻ. Giáo viên cần cho trẻ được trực tiếp sờ, nắn, ngửi,
nếm, và thực hành thí nghiệm. Chỉ có tham gia hoạt động trẻ mới được trải nghiệm và
tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân. Giáo viên mầm non cần tạo môi trường hấp dẫn,
phong phú và tạo nhiều cơ hội cho trẻ được khám phá, tổ chức các hoạt động đa dạng
để trẻ tham gia.
8.5 Ý nghĩa giáo dục hành vi bảo vệ môi trường ở trẻ 56 tuổi
Lứa tuổi mầm non là thời kì phát triển mạnh mẽ nhất của cuộc đời mỗi con
người. Để đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đứa trẻ thì người
lớn, đặc biệt là giáo viên mầm non cần tổ chức cho trẻ được tham gia vào các hoạt
động cơ bản phù hợp với lứa tuổi trẻ. Hành vi BVMT của trẻ chỉ được hình thành
trong môi trường tự nhiên và xã hội dưới sự hướng dẫn của cha mẹ, cô giáo và những
người gần gũi. Ngay từ lứa tuổi mầm non cần hình thành những hành vi đúng để bảo
vệ môi trường.
Việc giáo dục hành vi bảo vệ môi trường cho trẻ mầm non sẽ góp phần giải
quyết nhiệm vụ phát triển trẻ một cách toàn diện các mặt trí tuệ, đạo đức, lao động,
thẩm mỹ.
Giáo dục hành vi bảo vệ môi trường góp phần phát triển trí tuệ cho trẻ.
Quá trình lĩnh hội tri thức về tự nhiên vô sinh, động vật, thực vật, con người và
mối quan hệ đơn giản giữa các sự vật và hiện tượng tự nhiên phù hợp với đặc điểm
nhận thức của trẻ sẽ hoàn thiện các giác quan, tích lũy kinh nghiệm cảm tính ở trẻ,
hình thành các khái niệm đơn giản. Việc lĩnh hội tri thức về môi trường có liên quan
16
- trực tiếp đến sự phát triển ở trẻ khả năng nhận thức, tư duy lôgic, chú ý, ngôn ngữ, sự
quan sát, say mê...để phát triển tư duy cần cho trẻ tiếp xúc sự vật, hiện tượng xung
quanh, dạy chúng tìm kiếm cách giải thích những hiện tượng quan sát được và có ý
thức về mối quan hệ giữa chúng. Trong quá trình giáo dục hành vi bảo vệ môi trường
trẻ không chỉ lĩnh hội tri thức về tự nhiên mà tình cảm trí tuệ ở trẻ cũng được hình
thành.
Giáo dục hành vi BVMT góp phần phát triển thể chất và lao động.
Trong quá trình trẻ lao động tự phục vụ để giữ môi trường gọn gàng, ngăn nắp,
chăm sóc vật nuôi cây trồng sẽ hình thành ở trẻ tình yêu lao động, thái độ bảo vệ tự
nhiên, một số kỹ năng trồng cây và chăm sóc động vật. Sự tiếp xúc và lao động trong
tự nhiên cần thiết để củng cố sức khỏe của trẻ và phát triển thể chất cho chúng. Việc
cho trẻ làm quen với lao động của người lớn trong tự nhiên, giáo dục sự tôn trọng lao
động của người lớn cũng góp phần hình thành ở chúng tình yêu lao động.
Giáo dục hành vi BVMT góp phần phát triển tình cảm đạo đức cho trẻ.
Trong quá trình giáo dục hành vi bảo vệ môi trường giúp trẻ có tình yêu đối với
thiên nhiên, có thái độ giữ gìn, bảo vệ động, thực vật. Trong quá trình trẻ tự làm
những việc bảo vệ môi trường trẻ sẽ thích thú hơn, gắn bó và coi trọng những thành
quả của mình. Sự đa dạng của thiên nhiên cùng với các hành vi bảo vệ môi trường
giúp trẻ hình thành những phẩm chất nhân cách quan trọng như thái độ coi trọng lao
động, biết yêu lao động, có thói quen lao động, có trách nhiệm với môi trường sống
xung quanh.
Giáo dục hành vi BVMT góp phần phát triển thẩm mỹ.
Khi cho trẻ làm quen với tự nhiên, có những hành vi tích cực bảo vệ tự nhiên trẻ
dễ dàng cảm nhận được vẻ đẹp của cây, hoa, quả, con vật sự vận động của động
vật. Từ đó chúng biết cảm nhận thế giới với mọi sự hấp dẫn và đa dạng của nó.
8.6 Phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục hành vi bảo vệ môi
trường cho trẻ 56 tuổi
Ở trẻ mẫu giáo 56 tuổi, nhu cầu tìm tòi những kiến thức rất cao đòi hỏi người
lớn đặc biệt là giáo viên mầm non cần có những phương pháp đúng đắn, thích hợp gây
17
- sự hứng thú và cho trẻ nhận thấy rằng việc học rất thú vị, phong phú nhằm kích thích
tính tò mò, khám phá của trẻ. Những phương pháp có thể tổ chức cho trẻ để GD
HVBVMT thường là [9]:
(1) Nhóm phương pháp thực thành – trải nhiệm thông qua sử dụng trò chơi, thao
tác với đồ vật, nêu tình huống có vấn đề hay luyện tập.
(2) Nhóm phương pháp trực quan – minh họa: cho trẻ tiếp xúc với vật thật,
tranh ảnh, mô hình,…
(3) Nhóm phương pháp dùng lời nói: sử dụng các phương tiện ngôn ngữ như trò
chuyện, kể chuyện,…
(4) Nhóm phương pháp nêu gương đánh giá, khích lệ. Ngoài ra có thể sử dụng
phương pháp: Đàm thoại hay những thí nghiệm đơn giản.
Việc chuyển tải những nội dung GD HVBVMT đến trẻ mẫu giáo 56 tuổi có
thể tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau [5]: Thông qua các hoạt động chung có
mục đích học tập có sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên trong các tiết học (như làm
quen với MT xung quanh, làm quen với tác phẩm văn học,…) , thông qua hoạt động
vui chơi các góc, vui chơi ngoài trời, hoạt động thăm quan, dã ngoại, hoạt động lao
động, sinh hoạt động hằng ngày hay thông qua các hội thi văn nghệ, vẽ tranh chào
mừng. Để tổ chức những hoạt động nhằm GD HVBVMT cho trẻ có hiệu quả giáo
viên thường sử dụng nhiều phương tiện và các thiết bị khác nhau. Có thể tổ chức cho
trẻ ở nhiều môi trường khác nhau trong lớp học, các phòng chức năng, ngoài khuôn
viên trường hay góc thiên nhiên,… kết hợp với nhiều đồ dùng, đồ chơi làm từ thiên
nhiên, những vật liệu tái chế hay những phương tiện khoa học như kính lúp, ống
nhòm… các tài liệu bổ trợ cho hoạt động như sách, tranh ảnh, bài hát hay các bài
kịch…
1.3. Hoạt động khám phá môi trường khoa học đối với việc giáo dục hành
vi Bảo vệ môi trường cho trẻ 56 tuổi
8.7 Khái niệm hoạt động khám phá khoa học
Khám phá khoa học là phương tiện để giao tiếp và làm quen với môi trường xung
quanh, để giao lưu và bày tỏ nguyện vọng của mình, hình thành nhận thức về sự vật,
18
- hiện tượng xung quanh nhằm giáo dục thái độ ứng xử đúng đắn với thiên nhiên, với xã
hội cho trẻ. Thông qua môn học này hình thành cho trẻ kĩ năng quan sát, tư duy, phân
tích tổng hợp khái quát.
Khám phá khoa học với trẻ nhỏ là quá trình trẻ tích cực tham gia các hoạt động
thăm dò, tìm hiểu thế giới tự nhiên, đó là quá trình quan sát, so sánh, phân loại, thử
nghiệm, dự đoán, suy luận, thảo luận, giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định. Qua đó
giúp trẻ được hoạt động và tự phục vụ bản thân, những công việc đó có thể sẽ là bài
học trải nghiệm tốt cho trẻ về khoa học.
KPKH với trẻ nhỏ có tầm quan trọng như sau:
(1) Khoa học phù hợp với mức độ phát triển của trẻ sẽ nuôi dưỡng, phát triển ở
trẻ trí tò mò và mong muốn khám phá mọi sự vật, hiện tượng xung quanh.
(2) Là cơ hội để trẻ bộc lộ như cầu và khả năng nhận thức của bản thân.
(3) Được thực hành các kỹ năng quan sát, so sánh, phân loại, dự đoán, xây dựng
giả thuyết thử nghiệm, thảo luận, chia sẻ và tiếp nhận thông tin.
(4) Hình thành ở trẻ nền tảng kiến thức phong phú.
Trong quyển “Các hoạt động khám phá khoa học của trẻ mầm non” hoạt động
khám phá khoa học là quá trình trẻ tích cực tham gia hoạt động thăm dò, tìm hiểu thế
giới tự nhiên. Đó là quá trình quan sát, so sánh, phân loại, thử nghiệm, dự đoán, suy
luận, thảo luận, giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định,...[12]
Trên cơ sở tham khảo nghiên cứu của Trần Thị Ngọc Trâm và Nguyễn Thị Nga
(2013), Hoàng Thị Phương (2017), Nguyễn Thị Ngọc Châu cho rằng: Hoạt động KPKH
của trẻ mầm non là quá trình trẻ thăm dò, tìm tòi cái mới, những điều chưa biết về
bản thân, đồ vật, thực vật, động vật, hiện tượng tự nhiên bằng các hoạt động: quan
sát, so sánh, phân loại, thử nghiệm, làm thí nghiệm đơn giản, dự đoán, suy luận, thảo
luận, giải quyết vấn đề, đưa ra quyết định..., qua đó trẻ lĩnh hội được kiến thức, kĩ
năng và có thái độ đúng đắn với các đối tượng này.[4]
Có thể thấy rằng “Hoạt động KPKH là hoạt động nhận thức nhằm chiếm lĩnh
hệ thống tri thức tích cực được ẩn giấu từ thế giới xung quanh thông qua quá trình tìm
tòi, phát hiện, khám phá thế giới xung quanh. Bằng hoạt động khám phá khoa học là
sử dụng: quan sát, so sánh, phân loại, thử nghiệm, làm thí nghiệm đơn giản, dự đoán,
suy luận,… để phát hiện các dấu hiệu biểu hiện mang tính vật chất và bất thường
19
- của tự nhiên nhằm thu thập dữ liệu, phân tích thông tin để giải thích cách thức hoạt
động, tồn tại của sự vật hiện tượng.”
8.8 Đặc điểm của hoạt động khám phá khoa học cho trẻ 56 tuổi.
Hoạt động KPKH là quá trình trẻ thăm dò, tìm tòi cái mới, những điều chưa biết
về bản thân, đồ vật, thực vật, động vật, hiện tượng tự nhiên [4], thông qua những quá
trình quan sát, so sánh, phân loại, thử nghiệm, dự đoán, suy luận, giải quyết vấn đề,
đưa ra kết luận… Nội dung KPKH của trẻ mẫu giáo 56 tuổi thường xoay quanh khám
phá về thế giới động thực vật; các hiện tượng tự nhiên (đất, nước, không khí,..,);
khám phá về âm thanh; phương tiện giao thông; các bộ phận trên cơ thể con người, đồ
dùng đồ chơi. Với mỗi nội dung đều có những hoạt động cho trẻ khám phá. Cụ thể
[12]:
Hoạt động khám phá khoa học thế giới động vật, trẻ khám phá về đặc điểm nổi
bật và ích lợi của các con vật quen thuộc, một vài mối liên hệ đơn giản giữa con vật
với MT sống, cách chăm sóc và bảo vệ chúng, đồng thời trao dồi óc quan sát, so sánh,
nhận xét và phán đoán của trẻ, hình thành ở trẻ tình cảm, thái độ đúng đắn đối với các
con vật.
Hoạt động khám phá khoa học thế giới thực vật, trẻ khám phá về đặc điểm nổi
bậc và ích lợi của cây cối, điều kiện sống của cây và một vài mối liên hệ đơn giản
giữa cây với MT sống. Cách chăm sóc và bảo vệ chúng, đồng thời trao dồi óc quan sát,
so sánh, nhận xét và phán đoán của trẻ, hình thành ở trẻ tình cảm, thái độ, hành vi đúng
với cây cỏ, hoa lá.
Hoạt động khám phá khoa học về các hiện tượng tự nhiên, trẻ khám phá về đặc
điểm, tính chất, lợi ích, cách sử dụng và bảo vệ một cách hợp lý. Những nội dung này
giáo viên có thêm nhiều cơ hội để giúp trẻ tiếp xúc, hoạt động với môi trường, tác
động vào môi trường tạo cho trẻ khả năng tư duy nhận thức về môi trường xung
quanh.
Hoạt động KPKH được tổ chức dưới nhiều hình thức khác nhau: (1) thông qua
hoạt động học tập; (2) hoạt động vui chơi; (3) hoạt động ngoài trời; (4) hoạt động
thăm quan; (5) hoạt động sinh hoạt hằng ngày. Mỗi hoạt động giáo viên có thể tổ chức
theo tập thể, nhóm, cá nhân đồng thời giáo viên có thể tích hợp nội dung GD.
20
nguon tai.lieu . vn