Xem mẫu
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN: SƯ PHẠM LỊCH SỬ
BÀI TIỂU LUẬN
SV: PHAN LÊ KIM MINH
LỚP: DH19SU
MSSV: DSU180344
GVHD: LÊ THANH TÙNG
- An Giang, ngày 23 tháng 10 năm 2021
PHẦN I: TIỂU LUẬN CHUYÊN ĐỀ
AFTA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN VIỆT NAM
I GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ AFTA
1. Quá trình hình thành AFTA
ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế tăng trưởng với
tốc độ nhanh nhất thế giới (tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN giai
đoạn 19811991 là 5,4%, gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của
thế giới). Tuy vậy, trước khi AFTA ra đời, những nỗ lực hợp tác kinh tế
của ASEAN đều không đạt được mục tiêu mong muốn. ASEAN đã có các
kế hoạch hợp tác kinh tế như:
Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA).
Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP).
Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ
trợ sản xuất công nghiệp cùng nhãn mác (BBC).
Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV)
Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên chỉ tác động đến một phần nhỏ trong
thương mại nội bộ ASEAN và không đủ khả năng ảnh hưỏng đến đầu tư
trong khối.
1.1. Sự ra đời của AFTA
Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi
trong môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các
nước ASEAN đứng trước những thách thức lớn không dễ vượt qua nếu
không có sự liên kết chặt chẽ hơn và những nỗ lực chung của toàn Hiệp
hội, những thách thức đó là :
- Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh
mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống
trong ASEAN dần mất đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách
trong nước cũng như quốc tế.
Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt
như EU, NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại
cho hàng hoá ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này.
Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu
đãi rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh
về tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc,
Việt Nam, Nga và các nước Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư
hấp dẫn hơn ASEAN, đòi hỏi ASEAN vừa phải mở rộng về thành viên,
vừa phải nâng cao hơn nữa tầm hợp tác khu vực.
Để đối phó với những thách thức trên, tháng 01/1992 , theo sáng kiến
của Thái Lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ IV họp tại Singapo
đã quyết định thành lập một Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (ASEAN
Free Trade Area, gọi tắt là AFTA). Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác
kinh tế ASEAN ở một tầm mới.
1.2. Mục tiêu của AFTA
AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau:
Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào
thuế quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan.
Điều này sẽ khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải
có hiệu quả và khả năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Đồng
thời, người tiêu dùng sẽ mua được những hàng hoá từ những nhà sản suất
- có hiệu quả và chất lượng trong ASEAN, dẫn đến sự tăng lên trong thương
mại nội khối.
Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một
khối thị trường thống nhất, rộng lớn hơn.
Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế
đang thay đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại
khu vực (RTA) trên thế giới.
2. Nội dung cơ bản của AFTA
Theo kế hoạch ban đầu, AFTA được hoàn thành vào năm 2008 với
mục đích cơ bản là "tăng cường khả năng cạnh tranh của ASEAN như một
cơ sở quốc tế nhằm cung cấp hàng hóa ra thị trường thế giới". Tuy nhiên,
trước sự phát triển và cạnh tranh mạnh mẽ của các liên kết kinh tế toàn
cầu khác, cũng như do sự tiến bộ của chính các quốc gia ASEAN, năm
1994, khối này quyết định đẩy nhanh thời hạn lên năm 2003.
Sau đó, từ năm 1995 đến 1998, ASEAN kết nạp thêm 4 nước thành
viên mới là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar.
Cơ chế chính để thực hiện AFTA là Hiệp định thuế quan ưu đãi có
hiệu lực chung (Common Effective Preferential Tariff CEPT). Về thực
chất, CEPT là một thỏa thuận giữa các nước thành viên ASEAN về việc
giảm thuế quan trong nội bộ khối xuống còn 05% thông qua những kế
hoạch giảm thuế khác nhau. Trong vòng 5 năm sau khi đạt mức thuế ưu đãi
cuối cùng, các nước thành viên sẽ tiến hành xóa bỏ các hạn ngạch nhập
khẩu và những hàng rào phi quan thuế khác.
Thời hạn thực hiện CEPT của các nước có khác nhau. Cụ thể là: Với
Brunei, Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan: từ 1993 đến 2003; Với
- Việt Nam: từ 1996 đến 2006; Với Lào, Myanmar và Campuchia: từ 1998
đến 2008.
* Để thực hiện dần dần việc cắt giảm thuế quan, mỗi nước sẽ phải
phân loại tất cả hàng hóa của mình vào một trong các danh mục sau: Danh
mục giảm thuế (IL); Danh mục loại trừ tạm thời (TEL); Danh mục loại trừ
hoàn toàn (GEL); Danh mục nhạy cảm (SL); Danh mục nhạy cảm cao.
Danh mục giảm thuế (IL): bao gồm những mặt hàng sẽ được cắt
giảm thuế quan để đến khi hoàn thành CEPT sẽ có thuế suất 05%. Ngay
sau khi ký CEPT, mỗi nước ASEAN phải đưa ra IL của mình để bắt đầu
giảm thuế quan từ năm 1993. Trên thực tế, không phải mặt hàng nào trong
IL cũng thực sự phải giảm thuế quan, vì có những mặt hàng trước khi đưa
vào IL đã có thuế suất dưới 5%, thậm chí bằng 0%.
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL): bao gồm những mặt hàng chưa
đưa vào giảm thuế quan ngay, do các nước thành viên ASEAN phải dành
thêm thời gian để điều chỉnh sản xuất trong nước thích nghi với môi
trường cạnh tranh quốc tế.
Sau ba năm kể từ khi tham gia CEPT, các nước ASEAN phải bắt đầu
chuyển dần các mặt hàng từ TEL sang IL, tức là bắt đầu giảm thuế quan
đối với những mặt hàng này. Quá trình chuyển từ TEL sang IL được phép
kéo dài trong 5 năm, mỗi năm phải chuyển được 20% số mặt hàng. Điều đó
có nghĩa là đến hết năm thứ tám thì IL đã mở rộng bao trùm toàn bộ TEL,
và TEL không còn tồn tại. Khi đưa mỗi mặt hàng vào IL, các nước đồng
thời phải chỉ ra lịch trình giảm thuế quan của mặt hàng đó cho đến khi
hoàn thành CEPT.
Ví dụ: Khi tham gia CEPT vào năm 1993, IL của nước A bao gồm 50
mặt hàng, TEL của nước này có 100 mặt hàng. Từ năm 1996, nước A phải
bắt đầu chuyển TEL sang IL. Nếu mỗi năm chuyển đều 20% thì năm 1996,
- IL của nước này có 50 + (100*20%) = 70 mặt hàng và TEL giảm đi còn 100
(100*20%) = 80 mặt hàng. Năm 1997, IL sẽ là 90 và TEL sẽ là 60. Ba năm
tiếp sau đó, các con số tương ứng sẽ là 110/40, 130/20 và 150/0. Đến năm
2000, IL của nước A sẽ bao gồm cả 150 mặt hàng và TEL không còn mặt
hàng nào nữa.
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): bao gồm những mặt hàng không
có nghĩa vụ phải giảm thuế quan. Các nước thành viên ASEAN có quyền
đưa ra danh mục các mặt hàng này nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức
xã hội, bảo vệ sức khỏe con người, động thực vật; bảo tồn các giá trị văn
hóa, lịch sử, khảo cổ... GEL không phải là danh mục các mặt hàng Chính
phủ cấm nhập khẩu. Một số mặt hàng có trong GEL vẫn được nhập khẩu
bình thường, nhưng không hưởng thuế suất ưu đãi như các mặt hàng trong
danh mục giảm thuế.
Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL):
bao gồm 26 nhóm mặt hàng, chiếm 0,8% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu
thuế nhập khẩu và là những mặt hàng cụ thể như: thịt, trứng gia cầm,
động vật sống, thóc, gạo lứt,..., được xây dựng căn cứ vào yêu cầu bảo hộ
cao của sản xuất trong nước đối với một số mặt hàng nông sản chưa chế
biến và theo đề nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đồng
thời trên cơ sở tham khảo danh mục này của các nước ASEAN khác. Các
mặt hàng này đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như quản lý
theo hạn ngạch hàng tiêu dùng, quản lý của Bộ chuyên ngành.
Ngoài cơ chế này, để hiện thực hóa AFTA, các nước ASEAN còn ký
kết hàng loạt các thỏa thuận về thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng
hóa giữa các nước thành viên, công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ
hàng hóa của nhau, tăng cường hợp tác trong lĩnh vực hải quan, bảo vệ
- quyền sở hữu trí tuệ, phát triển công nghiệp và xây dựng Khu vực đầu tư
ASEAN (ASEAN Investment Area AIA).
II QUÁ TRÌNH THAM GIA CỦA VIỆT NAM
Ngày 28/07/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của
ASEAN và cam kết tham gia AFTA. Thời hạn hoàn thành AFTA của Việt
Nam năm 2006. Việt Nam bắt đầu thực hiện lộ trình giảm thuế quan tham
gia AFTA từ ngày 01/01/1996, khi đưa 875 mặt hàng đầu tiên vào thực hiện
CEPT. Tất cả những mặt hàng này đều đã nằm ở khung thuế suất 05%.
Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện
AFTA vào năm 2006. Trên thực tế thì đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng
(chiếm khoảng 86% tổng số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu) đã được
vào chương trình cắt giảm. Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới
20% và có lộ trình cắt giảm trong thời kỳ 20022006. Trong số đó, 65% đã
ở mức thuế 05%.
Theo số liệu của tờ Dow Jones, vào những ngày đầu năm 2003, mức
thuế suất trung bình của Việt Nam chỉ hơn 2% một chút, và Việt Nam đang
là nước có mức thuế suất trung bình thấp thứ 3 ASEAN, sau Singapore và
Brunei.
Theo đúng lộ trình thì việc cắt giảm thuế tham gia AFTA đã được áp
dụng chính thức tại Việt Nam từ ngày 01/01/2003. Tuy nhiên, ngày
10/01/2003, Bộ Tài chính đã thông báo việc cắt giảm đó sẽ được thực hiện
lùi lại 7 tháng, vào ngày 1/7. Đến ngày 1/7, 1.416 mặt hàng thuộc TEL được
chuyển sang IL. Đa số đó là những mặt hàng hiện đang được bảo hộ với
mức thuế suất rất cao (30100%), hoặc đang được quản lý bằng hạn ngạch
như xi măng, giấy, hàng điện tử, điện gia dụng,…
III TÁC ĐỘNG CỦA AFTA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
- 1. Những cơ hội và thách thức chung khi Việt Nam gia nhập
AFTA:
1.1. Thuận lợi:
Khi gia nhập AFTA , hàng hoá của Việt nam sẽ được hưởng thuế
suất ưu đãi thấp hơn cả thuế suất tối huệ quốc mà các nước ASEAN dành
cho các nước thành viên WTO, từ đó có điều kiện thuận lợi hơn để hàng
hoá Việt nam có thể thâm nhập thị trường của tất cả các nước thành viên
ASEAN.
Bên cạnh những thuận lợi thu được từ hoạt động thương mại trong
nội bộ khối, khi gia nhập AFTA, VN sẽ có thế hơn trong đàm phán thương
mại song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế, cũng như các tổ
chức thương mại quốc tế lớn như Mỹ, Nhật, EU hay WTO…
Tuy có những trùng lặp giữa VN và các nước ASEAN, nhưng có
nhiều lĩnh vực mà VN có thể khai thác từ thị trường các nước ASEAN như
VN có thế mạnh trong xuất khẩu nông sản, hàng dệt và may mặc, và ta
cũng có nhu cầu nhập nhiều mặt hàng từ các nước ASEAN với giá thấp
hơn từ các khu vực khác trên thế giới.
Một mặt Doanh nghiệp được lợi do tăng được khả năng cạnh tranh
so với các nước ngoài ASEAN về giá cả, mặt khác người tiêu dùng được
hưởng lợi do giá cả rẻ hơn và chủng loại hàng hoá phong phú hơn.
Thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, tận dụng nhân công, sử
dụng vốn và kỹ thuật cao trong khu vực
1.2. Khó khăn:
Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về thuế xuất
nhập khẩu giảm.
Việc tham gia dẫn tới sự xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan
thuế, nghĩa là xoá bỏ sự bảo hộ của chính phủ đối với các doanh nghiệp,
- buộc các doanh nghiệp phải tham gia thật sự vào cuộc chới cạnh tranh
khốc liệt trên thị trường khu vực: cạnh tranh thúc đẩy sản cuất phát triển,
nhưng đồng thời có thể làm điêu đứng và phá sản hàng loạt các doanh
nghiệp, thậm chí hàng loạt ngành; dẫn tới việc thay đổi cơ cấu kinh tế.
Đây là vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp Việt nam.
Như vậy có thể nói, gia nhập AFTA là bước tập duyệt đầu tiên cho
nền kinh tế và các doanh nghiệp VN để chuẩn bị cho sự gia nhập thị
trường thế giới rộng lớn và đầy sự cạnh tranh hơn.
2. Tác động của AFTA đối với nền kinh tế Việt Nam
Đối chiếu nội dung của AFTA cũng như những tác động có thể có
của nó đối với các nước thành viên nói chung, đối chiếu với tình hình cụ
thể và tiến trình thực hiện AFTA của Việt Nam, AFTA có thể có những tác
động trên các mặt chính sau:
2.1. Thương mại
ập khẩu:
a) Nh
Trong những năm gần đây, hàng hóa từ ASEAN vào Việt Nam chiếm
khoảng 25% kim ngạch nhập khẩu (NK), trong đó nguyên vật liệu dùng
cho sản xuất và hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn. Các mặt hàng này đã
có thuế suất dưới 5% trước khi thực hiện CEPT. Vì vậy, AFTA không có
tác động trực tiếp tới việc NK những mặt hàng này.
Ngoài ra, một số hàng NK có kim ngạch đáng kể ở Việt Nam như
xăng dầu, xe máy... chưa được đưa vào danh sách giảm thuế ngay nên
trước mắt sẽ nằm ngoài phạm vi tác động của AFTA.
Về lâu dài, Việt Nam chắc chắn phải đưa thêm những mặt hàng từ
danh mục loại trừ tạm thời có thuế suất trên 20% vào diện cắt giảm ngay,
và loại trừ dần các hàng rào phi thuế quan (nhất là những hạn chế về số
lượng nhập khẩu). Khi đó, rất có thể NK, nhất là những mặt hàng tiêu
- dùng từ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ tăng lên nếu những mặt hàng
cùng loại sản xuất trong nước không cạnh tranh được.
b) Xuất khẩu:
* Xuất khẩu sang các nước ASEAN khác:
Về lý thuyết và dài hạn, AFTA có tác động làm tăng sức cạnh tranh
của hàng hóa Việt Nam trên thị trường ASEAN nhờ giảm thuế quan và loại
bỏ các hàng rào phi thuế quan. Song trong vài năm tới, khả năng AFTA làm
tăng kim ngạch xuất khẩu (XK) của Việt Nam sang các nước này không
lớn do các nguyên nhân sau:
Xét về cơ cấu hàng xuất khẩu:
Những năm gần đây, ASEAN thường chiếm khoảng 2023% kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Đây là một con số đáng kể. Nhưng những
mặt hàng được hưởng thuế suất CEPT lại chỉ chiếm gần 20% kim ngạch
XK sang ASEAN, tương đương với dưới 4% tổng kim ngạch XK của Việt
Nam năm 2001. Và mức tăng XK của những mặt hàng này sang các nước
ASEAN khác cũng không lớn. Hơn nữa, cơ cấu hàng hóa của Việt Nam và
ASEAN khá tương đồng. Với trình độ thấp hơn,Việt Nam chỉ có thể cạnh
tranh trên thị trường ASEAN nhờ tính độc đáo của chủng loại, mẫu mã, do
đó, chỉ mang tính bổ sung cho cơ cấu hàng hóa nước đối tác.
Xét về bạn hàng:
2/3 doanh số buôn bán của Việt Nam với ASEAN được thực hiện
với Singapore. Phần lớn hàng Việt Nam xuất sang Singapore sẽ được tái
xuất sang các nước khác. Nhưng ở nước này, hệ thống thuế xuất nhập
khẩu trước AFTA vốn đã thấp, gần như bằng 0%. Do vậy, khi thực hiện
CEPT trên toàn khối ASEAN, 1/3 kim ngạch xuất nhập khẩu còn lại của
Việt Nam với các nước ASEAN khác sẽ chưa làm thay đổi nhiều XK Việt
Nam nếu xét theo khía cạnh được hưởng ưu đãi thuế NK thấp.
- Có thể kết luận rằng: Chỉ khi nào Việt Nam tạo được sự dịch
chuyển cơ cấu sản xuất và XK theo hướng tạo ra được nhiều chủng loại
hàng hóa có sức cạnh tranh và nằm trong danh mục cắt giảm của CEPT,
các doanh nghiệp Việt Nam mới có thêm thuận lợi về yếu tố giá cả khi
muốn XK sang ASEAN.
* Xuất khẩu sang các nước ngoài ASEAN:
Về dài hạn, AFTA có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch XK của
Việt Nam sang các thị trường ngoài ASEAN do nhập được đầu vào cho sản
xuất XK với giá rẻ hơn từ các nước ASEAN. Mặt khác, với tư cách một
thành viên của AFTA, Việt Nam có điều kiện để khai thác những lợi thế
mới trong quan hệ thương mại với nước lớn.
Ví dụ: Việt Nam sẽ được hưởng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
của Mỹ (General System of Preference GSP). Bởi GSP quy định "giá trị
một sản phẩm được sản xuất tại một nước thành viên của một hiệp hội
kinh tế, khu vực thương mại tự do (như AFTA) thì được coi là sản phẩm
của một nước" và một sản phẩm NK vào Mỹ được hưởng GSP nếu "giá trị
nguyên liệu NK để sản xuất ra nó chiếm dưới 65% giá trị sản phẩm sau
khi hoàn thành thủ tục hải quan vào Mỹ".
Điều đó có nghĩa là các nước ASEAN có thể nhập nguyên liệu từ các
nước thành viên khác để sản xuất hàng XK sang Mỹ, và hàng XK sẽ được
hưởng GSP nếu giá trị nguyên liệu dưới 65% giá trị sản phẩm. Và do đó,
AFTA giúp Việt Nam tăng cường tiếp cận và thâm nhập thị trường Mỹ
đất nước có kim ngạch NK vượt 1000 tỷ USD mỗi năm.
Tuy vậy, như trên đã nói, cơ cấu sản phẩm của các nước ASEAN
xuất ra thị trường thế giới lại khá tương đồng với Việt Nam. Và họ cũng
được hưởng những lợi ích tương tự. Do đó, tham gia AFTA, Việt Nam tiếp
- tục phải chấp nhận cạnh tranh rất quyết liệt với các thành viên khác trong
hiệp hội không chỉ trên thị trường khu vực.
Cũng cần nói thêm rằng, việc Việt Nam tham gia AFTA và tổ chức
Hợp tác Kinh tế châu Á Thái Bình Dương (APEC) vào tháng 11/1998 là
những sự chứng minh, là bước chuẩn bị, tập dượt để gia nhập WTO.
2.2. Đầu tư nước ngoài
* Đầu tư từ các nước ASEAN:
AFTA có tác động phân công lại các nguồn lực trong khu vực theo
hướng hợp lý hóa. Khi không còn bảo hộ, một số ngành công nghiệp của
một số nước sẽ bộc lộ sự thua kém về khả năng cạnh tranh, để tồn tại,
hoặc để thu được nhiều lợi nhuận hơn, các nhà kinh doanh trong những
ngành này sẽ đầu tư sang các nước ASEAN khác có các yếu tố thuận lợi
hơn, trong đó có Việt Nam.
Ngoài ra, với tiến trình hiện thức hóa Khu vực đầu tư ASEAN (AIA),
các nhà đầu tư ASEAN nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung sẽ
có nhiều thuận lợi về thủ tục hành chính và tâm lý khi đầu tư vào Việt
Nam.
* Đầu tư nước ngoài từ các nước khác ngoài ASEAN:
Về lý thuyết, một khu vực thương mại tự do sẽ làm tăng đầu tư từ
ngoài khu vực. Đó là bởi các nhà đầu tư có thể sản xuất hàng hóa tại một
hay một số nước và đưa ra tiêu thụ ở tất cả các nước thành viên với mức
thuế thấp và hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ. Khi các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư vào một nước, họ sẽ có một thị trường tiềm năng rộng lớn
hơn nhiều lần nước đó.
Áp dụng lý thuyết đó vào AFTA và Việt Nam, thì các nhà đầu tư
nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam, họ sẽ không chỉ nghĩ đến một thị
- trường với 80 triệu dân, mà còn tính đến cả thị trường ASEAN với trên 500
triệu người.
Nhưng trên thực tế, thuế chỉ là một trong rất nhiều yếu tố được xem
xét để đi đến quyết định đầu tư. Thuế thấp sẽ mất đi ý nghĩa thu hút đầu
tư nước ngoài nếu không đi kèm với sự ổn định chính trị, xã hội, luật đầu
tư nước ngoài thông thoáng, nguồn lao động giá rẻ và có tay nghề cao... Có
thể lấy ví dụ đơn cử là Indonesia hiện nay. Mặc dù Indonesia đã hoàn thành
AFTA, nhưng rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài như Sony, Matsushita... đã
và đang rời bỏ nước này sang Trung Quốc, Malaysia hay Việt Nam vì lo
ngại và thất vọng trước nạn khủng bố, mâu thuẫn sắc tộc, bất ổn quyền
lực và tham nhũng... Đó cũng thách thức chung cho tất cả các thành viên
của AFTA. Vì nếu như trước đây, Indonesia hay Việt Nam không phải là
thành viên của AFTA, để vượt qua hàng rào thuế quan và các hạn chế NK
vào thị trường Indonesia hay Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài buộc
phải đầu tư tại nước sở tại. Nhưng nay Việt Nam đã là thành viên AFTA,
nếu môi trường đầu tư vào Việt Nam không hấp dẫn, thì thay vì đầu tư
Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài có thể sẽ đầu tư vào các nước
ASEAN khác, hoặc đơn giản hơn, chỉ cần mở rộng hoặc tăng thêm công
suất của các nhà máy sẵn có tại các nước AFTA, đặc biệt là đối với các
dây chuyền sản xuất đã gần hết khấu hao nhưng vẫn vận hành tốt, rồi từ
đó bán hàng sang Việt Nam.
Như vậy, để tận dụng được những cơ hội thu hút đầu tư từ các
nước khác mà AFTA đem lại, Việt Nam cần phải tiếp tục cải thiện một
cách đồng bộ và toàn diện môi trường đầu tư.
2.3. Công nghiệp:
Về lâu dài, khi các ngành công nghiệp của những nước thành viên
không còn được bảo hộ, AFTA sẽ làm thay đổi cơ cấu công nghiệp khu
- vực theo hướng chuyên môn hóa và phân bổ các nguồn lực một cách hợp lý
hơn. Nhưng đây là sự thay đổi và phân bổ mang tính động và phụ thuộc
chủ yếu vào sự lựa chọn và nỗ lực chủ quan của từng nước. Singapore sẽ
đẩy mạnh phát triển các ngành hóa chất, trang thiết bị vận tải và linh kiện
điện tử, trong khi đó sẽ bỏ ngỏ các ngành cần nhiều lao động và khoáng
sản. Malaysia thì có sự sắp xếp ngược lại. Các ngành công nghiệp sử dụng
nhiều lao động và nguyên liệu như công nghiệp giấy, chế biến gỗ, may
mặc và dệt sẽ tăng nhanh. Trong khi đó, các ngành thiết bị vận tải, hóa
chất, đồ gỗ, thực phẩm đã qua chế biến sẽ giảm mạnh. Cũng giống như
tại các nước ASEAN, ở một mức độ nào đó, AFTA sẽ làm thay đổi cơ cấu
công nghiệp của Việt Nam. Trong đó, một số ngành sẽ phát triển, một số
ngành sẽ bị thu hẹp. Tuy vậy, AFTA cũng tạo cho chúng ta điều kiện và
thời gian để chuẩn bị và vươn lên để có thể đứng vững và phát triển vì:
Thứ nhất, mọi thời hạn thực hiện và hoàn thành AFTA/CEPT đối
với Việt Nam được cộng thêm 3 năm.
Thứ hai, cũng như các nước ASEAN khác, Việt Nam không cần
phải đưa ngay một lúc tất cả các danh mục hàng hóa vào chương trình
giảm thuế. Những mặt hàng nào có tỷ trọng NK cao và có khối lượng giá
trị tiêu thụ lớn trên thị trường nội địa có thể sẽ đưa vào giảm thuế chậm
hơn.
Thứ ba, sau khi một mặt hàng được giảm thuế, các hàng rào phi
thuế quan (nếu có đối với mặt hàng đó) sau đó 5 năm mới phải xóa bỏ.
Thứ tư, việc cắt giảm thuế NK đối với một số nguyên liệu, sản
phẩm đầu vào sẽ làm giảm chi phí sản xuất và do vậy, góp phần nâng cao
khả năng cạnh tranh cho một số sản phẩm công nghiệp.
Vấn đề đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách cũng như các
nhà kinh doanh là làm thế nào để tận dụng được những cơ hội và thời gian
- một cách có hiệu quả, định hướng cơ cấu công nghiệp và mặt hàng kinh
doanh như thế nào để có thể phát huy được lợi thế so sánh của Việt Nam
trong phân công lao động khu vực. Trên cơ sở định hướng phát triển công
nghiệp theo cơ chế kinh tế mở, Nhà nước cần tạo môi trường thuận lợi và
đầu tư thích đáng, đồng thời áp dụng các biện pháp bảo hộ hợp lý trong
thời gian cho phép để các ngành có tiềm năng phát triển có thể cạnh tranh
không những trên thị trường trong nước mà còn trong khu vực và trên thế
giới. Tuy nhiên, mọi sự bảo hộ của Nhà nước đều có giới hạn. Để đứng
vững và phát triển, các doanh nghiệp cần phải khẩn trương nghiên cứu nhu
cầu thị trường trong nước và khu vực, khả năng cạnh tranh của các nước
ASEAN trong cùng lĩnh vực để kịp thời điều chỉnh cơ cấu sản xuất, đổi
mới trang thiết bị và công nghệ, nâng cao năng lực quản lý khi sự bảo hộ
không còn nữa, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi Việt Nam về cơ bản
sẽ hoàn thành AFTA vào năm 2005.
2.4. Ngân sách nhà nước:
Tham gia AFTA và thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo
CEPT chắc chắn sẽ tác động tới nguồn thu cho ngân sách, ít nhất là trong
giai đoạn đầu khi Việt Nam thực sự cắt giảm thuế quan. Theo số liệu
những năm trước đây, NK từ các nước ASEAN chiếm khoảng 2023% kim
ngạch NK của Việt Nam, trong khi đó, thuế NK (trừ dầu thô) đóng góp
khoảng 25% tổng số thu ngân sách. Như vậy, về mặt số học đơn thuần,
khi cắt giảm thuế quan, rõ ràng nguồn thu ngân sách sẽ bị giảm.
Về dài hạn, AFTA sẽ làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước. Như
vậy, cơ sở để tính toán rằng, về dài hạn, phần giảm của thuế NK do thực
hiện CEPT sẽ được bù lại bằng tăng thu do kim ngạch buôn bán tăng và
tăng thu từ các loại thuế khác như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc
biệt, thuế thu nhập công ty... Tuy nhiên, đây cũng chỉ là lý thuyết, thực tế
- còn phụ thuộc vào sự phát triển của sản xuất trong nước, hiệu quả của hệ
thống thuế và bộ máy thu thuế.
IV KẾT LUẬN
Tham gia ASEAN và AFTA là bước đi tất yếu đầu tiên của Việt
Nam trên con đường hội nhập với khu vực và thế giới. Sự kiện này mở ra
cho Việt Nam nhiều cơ hội mới cũng như nhiều thách thức to lớn. Cơ hội
và thách thức đan xen lẫn nhau, đòi hỏi sự nỗ lực cả tầm vĩ mô và vi mô để
khai thác triệt để các cơ hội và hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng tiêu
cực do các thách thức đưa đến.
Ông Lê Đăng Doanh, chuyên viên cao cấp, cố vấn Bộ trưởng Bộ Kế
hoạch Đầu tư, đã từng ví von: "Khu vực thương mại tự do ASEAN
(AFTA) là một cái sân tập. Còn Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là sân
thi đấu. Không có sân tập để luyện rèn, không ai có thể thi đấu tốt". Do
vậy, chúng ta không nên coi việc thực hiện AFTA như một quá trình hay
hành động riêng biệt, mà phải đặt nó trong lộ trình hội nhập và tự do hóa
thương mại tổng thể, trong đó, mục tiêu nhất quán được xác định bởi
khuôn khổ WTO. Có như vậy, những thuận lợi mà AFTA đem lại cho
chúng ta mới được tận dụng một cách hiệu quả nhất, giúp đưa nền kinh tế
Việt Nam vươn lên tầm châu lục.
- DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế, NXB Giáo dục Việt Nam, năm 2009.
2. “Tài liệu giới thiệu tổng quan AFTA”, Vụ Quan hệ quốc tế Bộ Tài
chính, năm 2000.
3. Một số trang web:
http://vietbao.vn/Thegioi/Tacdongcuaaftadoivoinenkinhteviet
nam/20020350/162/
http://www.nciec.gov.vn/index.nciec?1351
http://tim.vietbao.vn/afta/
http://vietbao.vn/Vanhoa/Tongluan/40166335/184/
http://www.baomoi.com/Info/ThuchienAFTAvaongay
112010/122/3396863.epi
- PHẦN II: CÂU HỎI PHỤ
ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP BẢN THÂN
VÀ KIẾN NGHỊ MÔN HỌC
I ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP BẢN THÂN
Trong vòng 10 năm nữa, em muốn trở thành Giám đốc PR của
Unilever. Đây là mục tiêu mà em mới đề ra trong thời gian gần đây. Khi còn
học trên ghế nhà trường, em đã từng mong muốn trở thành một nữ doanh
nhân thành công, tự mình mở một doanh nghiệp và kinh doanh. Nhưng sau
này, em thấy rằng mình không có khả năng trong kinh doanh và cũng sẽ
không có đủ can đảm để tự mình mở một công ty riêng. Do vậy em quyết
định sẽ phấn đấu trở thành một người làm trong ngành PR, để quảng bá
cho sản phẩm cũng như hình ảnh của một công ty nào đó.
Những điều em sẽ làm để thực hiện mục tiêu:
Phải là một nhân viên PR giỏi trong vòng ít nhất 5 năm tới.
Trau dồi kiến thức mỗi ngày để có hiểu biết rộng trong nhiều lĩnh
vực. Tất cả những gì học được bây giờ sẽ giúp ích rất nhiều cho mình sau
này.
Rèn luyện khả năng thuyết trình và khả năng viết. Đây là những kỹ
năng cần thiết để trở thành một nhân viên PR. Muốn làm được điều này,
trước hết phải học thật tốt môn Presenting in English và Writing. Ngoài ra,
phải rèn luyện cách ứng xử của bản thân hàng ngày, cần phải xử sự điềm
tĩnh, lịch sự và luôn tạo cảm giác thoải mái cho người đối diện.
Kinh nghiệm là một điều rất quan trọng khi đi xin việc. Do vậy trong
năm nay, em sẽ kiếm một công việc làm thêm, vừa làm vừa tiếp thu kinh
nghiệm giao tiếp và viết lách.
- Sau khi tốt nghiệp trường Ngoại thương, em sẽ học thêm để lấy
một tấm bằng thuộc chuyên ngành truyền thông. Sau đó em sẽ đi làm và
học tiếp lên Thạc sỹ về truyền thông.
Trước khi ứng cử để trở thành một giám đốc PR cho Unilever, em sẽ
đi làm ở một số nơi để lấy kinh nghiệm, rồi sau đó xin vào Unilever làm
nhân viên. Với những hiểu biết trong lĩnh vực kinh tế cũng như trong lĩnh
vực truyền thông, cộng với sự tự tin của bản thân, em tin mình sẽ trúng
tuyển. Trong quá trình làm việc, với hiểu biết của mình, em sẽ cố gắng
hoàn thành tốt những việc được đề ra. Có một nguyên tắc khi làm việc đó
là không được “đứng núi này, trông núi nọ”, do vậy, em sẽ bám trụ và phấn
đấu làm việc hết mình cho Unilever. Nếu có cơ hội, em sẽ ra nước ngoài tu
nghiệp để học hỏi thêm. Trong thời gian làm việc, em tin với những gì
mình cống hiến, cơ hội thăng tiến của em là hoàn toàn có thể xảy ra.
Tuy vậy, với phái nữ, công việc không phải là điều quan trọng duy
nhất. Bên cạnh công việc còn có gia đình. Vì thế, ngoài việc phấn đấu cho
ước mơ của mình, em cũng sẽ phấn đấu trở thành một người phụ nữ giỏi
trong gia đình.
II KIẾN NGHỊ MÔN HỌC
Về nội dung giảng dạy: Do bọn em học theo tín chỉ nên chỉ có 45
tiết trên lớp. Với thời lượng như vậy thì việc học hết cả một quyển giáo
trình to như bây giờ là hoàn toàn không thể. Do vậy em nghĩ, môn này nên
được giảm tải và có một quyển giáo trình ngắn gọn hơn.
Về hình thức giảng dạy: Thầy nên kết hợp sử dụng thêm slide, để
bọn em có thể nắm được ý chính của bài tốt hơn. Trong những buổi học,
thầy nên phát huy việc kể những câu chuyện gắn với nội dung học tập để
bọn em tiếp thu bài dễ hơn.
- Trong một số giờ dạy, thầy có thể giao cho bọn em một đề tài nào
đó rồi lên thuyết trình, hoặc giảng thay thầy về nội dung đó trong tiết học.
Nội dung môn học rất rộng nên cần có một buổi ôn tập, củng cố
kiến thức.
Do số tiết học rất ít nên bài kiểm tra giữa kỳ, thầy có thể cho về
nhà làm, hoặc nếu có làm trên lớp thì cũng được phép sử dụng tài liệu.
Em xin chân thành cảm ơn!
nguon tai.lieu . vn