Xem mẫu

  1. BÁO CÁO TỐT NGHIỆP Tiểu luận " Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam hiện nay "
  2. Mục lục. A. Phần mở đầu. B. Phần nội dung. Chương 1. khái quát tình hình chung. 1. khái niệm giáo dục. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1 Vai trò nhà nước và cơ quan quản lý giáo dục. 2.2 Vai tròcác trường. 2.3 Vai trò gia đình và xã hội. 2.4 Vai trò sinh viên. 3. Những khó khăn. 3.1 Quản lý giáo dục. 3.2 Phương pháp dạy học. 3.3 Đội ngũ giảng viên. 3.4 Sinh viên. 3.5 Trương trình học. Chương 2. Thực trạng. 1. Thành tựu chung. 1.1 Đầu tư cho giáo dục. 1.2 Du học. 2. Nguyên nhân. 2.1 Cơ sở vật chất. 2.2 Quản lý. 2.3 Phương pháp đào tạo. 2.4 Đội ngũ giảng viên.
  3. 2.5 Sinh viên. 2.6 Chương trình học. 2.7 Nguyên nhân khác. Chương 3. Gỉai pháp kiến nghị. 1.1 Cơ quan quản lý. 1.2 Phương pháp dạy. 1.3 Giảng viên. 1.4 Sinh viên. 1.5 Hiện đại hóa giáo dục. C kết luận. D. Tài liệu tham khảo. Chú thích các chữ viết tắt. 1. GD: GIÁO DỤC 2. QLGD : QUẢN LÝ GIÁO DỤC 3. GDĐH : GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 4. SV : SINH VIÊN 5. CTKH : CÔNG TRÌNH KHOA HỌC 6. NCKH : NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 7. CQQLGD : CƠ QUAN QUẢN LÝ GIÁO DỤC 8. CLĐT : CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO 9. NCS : NGHIÊN CỨU SINH 10. CÔNG BỐ QUỐC TẾ
  4. A lời mở đầu. Để đưa đất nước ta thật sự trở nên giàu mạnh và văn minh,trong xu thế hội nhập nền kinh tế thị trường hiện nay thì Đảng,nhà nước cùng nhân dân ta phải xây dựng cho mình một tiềm lực tổng thể vững mạnh. Một trong những chiến lược đó là phát triển và mở rộng hệ thống giáo dục đào tạo,đặt biệt là GDĐH nhằm bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ cho đất nước. đúng như Bác Hồ đã nói:”một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” tư tưởng đó còn được khẳng định qua các kỳ đại hội đảng toàn quốc cũng cho rằng giáo dục là quốc sách Hàng đầu Đó là tất cả những gì tốt đẹp mà Đảng,nhà nước và nhân dân ta đã từng tin tưởng,kỳ vọng vào GD sẽ đem lại. đặc biệt trong xu thế phát triển hiện nay nếu không có tri thức và khoa học chúng ta sẽ bị tụt hậu so với các nước khác. Tuy nhiên khi những lợi ích tốt đẹp ấy vẫn đang còn là ước mơ thì người ta lại nhìn thấy nhiều hơn những bất cập, tồn tại làm ảnh hưởng xấu tới GD nước ta hiện nay. Nếu không nói là rơi vào tình trạng bế tắc thì cũng giống như ”cành củi giữa dòng nước xoáy”. Nếu như trước đó hàng trăm nghìn thí sinh ngày đêm dùi mài kinh sử với hy vọng được bước vào giảng đường đại học thì ngay sau đó lại cảm thấy chán trường với cảnh học đại học hiện nay. Có rất nhiều sinh viên bỏ bê công việc chính là học tập mà cảm thấy hứng thú với các trò chơi game trên mạng. có những người đủ tỉnh táo thì lại boăn khoăn với câu hỏi: học xong ra trường mình sẽ làm gì? Câu hỏi đó không chỉ là nỗi lo lắng của các sinh viên mà còn là lý do để em chọn làm đề tài này. Với mong muốn tất cả chúng ta(dù là sinh viên hay giảng viên,cơ quan QLGD…)cùng bắt tay tháo gỡ những thắc mắc đó đưa GD vào thực tế nhằm đem lại hiệu quả tốt nhất. Hiện nay đang có một cuộc đối mặt giữa thế hệ GD cũ với thế hệ mới. Có một sự chứng minh âm thầm rằng, trong giai đoạn cũ, nền GD của chúng ta tốt hơn, và những quan chức nhà nước cũ ở lứa tuổi cao, vì không thỏa mãn với phong cách chính trị trong đời sống GD bây giờ, nên kéo nhau ra mở trường
  5. tư.Tất cả những chuyện đó cũng mới chỉ giải quyết một cách tạm bợ những vấn đề của GD Việt Nam.Lối thoát để giải quyết vấn đề GD Việt Nam, là phải học những kinh nghiệm mở cửa về kinh tế như cách đây 20 năm. Phải có thái độ của những người như Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã thể hiện với đầu tư nước ngoài trong giai đoạn trước thì đất nước mới đổi mới được. Vấn đề cần quan tâm với hệ thống GD nước ta hiện nay là rất cấp thiết, không chỉ xét từng bộ phận mà còn phải xét một cách tổng thể. Do đó ở đây em chỉ dừng lại tìm hiểu thực trạng GD đại học hiện nay ở nước ta. Dựa trên cơ sở là các phương pháp luận như tổng hợp,đánh giá,luận chứng và một số phương pháp khác; trong đó có sử dụng phương pháp luận triết học duy vật biện chứng để đánh giá. Nội dung bài viết này chia làm ba chương : chương 1,chương 2, chương 3. Trước hết em xin chân thành cảm ơn thầy (cô) đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
  6. B phần nội dung. Chương 1. khái quát tình hình chung. 1. Khái niệm giáo dục. Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại. 2. Cơ sở lý luận. Với vị trí và vai trò như ở trên thì GD quả là niềm hy vọng lớn lao cho đất nước ta hiện nay, với mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. chúng ta đi lên từ nghèo nàn lạc hậu có được thành quả như ngày nay có thể nói là bước phát triển thần kỳ. tuy nhiên ở bất cứ xã hội nào , thời đại nào và trên lĩnh vực nào nó cũng luôn tuồn tại hai mặt : mặ tích cực mà xã hội đó đã làm được va những hạn chế chưa làm được . ở nước ta cũng vậy việc phát triển GD ngày càng hoàn thiện đòi hỏi phát huy thế mạnh và khắc phục khó khăn mới đạt kết quả cao. Phải khẳng định rằng những gì chúng ta đã làm được trong GD là rất to lớn. vì lợi ích “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” theo tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại mà sự nghiệp GD ở nước ta đã nhận được sự quan tâm của toàn Đảng, toàn dân, của đông đảo các sinh viên, giảng viên và các tầng lớp tri thức. Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đang đòi hỏi GDĐH Việt Nam phải nhanh chóng đổi mới cách quản lý để đảm bảo và ngày càng nâng cao chất lượng đào tạo. Bài viết này nêu tổng quan về quan điểm chất lượng trong GDĐH
  7. tại Việt Nam qua các giai đoạn, hệ thống và cơ chế đảm bảo chất lượng GDĐH hiện nay, cùng các thành quả và các vấn đề cần giải quyết để tiếp tục đẩy mạnh triển khai đảm bảo chất lượng GDĐH tại Việt Nam. So với các thời kỳ trước, Giáo dục đại học Việt Nam cho đến giữa thập niên 1980 vẫn cơ bản là giáo dục dục tinh hoa.Vì vậy, trong giai đoạn này vấn đề chất lượng giáo dục đại học hầu như không được đặt ra, trong một thời gian dài, hệ thống giáo dục đại học Việt Nam đã quan niệm quản lý chất lượng giáo dục đồng nghĩa với việc kiểm soát đầu vào thông qua các kỳ thi tuyển mang tính cạnh tranh cao độ. Năm 1986 đánh dấu sự bắt đầu của công cuộc đổi mới giáo dục đại học tại Việt Nam, trong đó một trong những mục tiêu quan trọng của việc đổi mới giáo dục đại học tại Việt Nam là tăng cường “khả năng cung ứng” của các cơ sở giáo dục, mở rộng tối đa cơ hội tiếp cận cho người học. Để đạt mục tiêu này, trong vòng gần hai thập niên kể từ khi giáo dục đại học Việt Nam bắt đầu đổi mới, rất nhiều biện pháp đã được thực hiện để đạt được mục tiêu nói trên, mà kết quả là số lượng người học cũng như các cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam đã tăng lên một cách đột biến. Nhìn chung hệ thống GD nước ta phát khá hoàn thiện với đủ các loại hình:trường công lập, bán công, nội trú, các học viện, trung tâm giáo dục kết hợp vừa học vừa làm. Các hình thức đào tạo cũng phong phú từ chính quy, cao học, tại chức, liên thông, đào tạo từ xa, du học. mỗi năm có hàng chục trường được xây dựng và nâng cấp thu hút hàng trăm nghìn SV theo học. 2.1 vai trò của nhà nước và cơ quan quản lý giáo dục . Trước hết phải nói đến vai trò của nhà nước Trong những năm qua, để thúc đẩy giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng dạy và học, Nhà nước đã thực hiện xã hội hóa để huy động tiềm năng của các thành phần kinh tế cho giáo dục và đào tạo. Ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục và đào tạo đã tăng từ 15% năm 2000 lên 18% năm 2005 với cơ cấu tăng chi cho những nhiệm vụ trọng tâm
  8. của ngành như đổi mới chương trình, bồi dưỡng giáo viên, tăng cường giáo dục miền núi. hàng loạt các chính sách được ban hành. Cụ thể là, Triển khai nghiêm túc trong toàn hệ thống Chỉ thị số 296/CT-TTg ngày 27/2/2010 của Thủ tướng Chính phủ và Chương trình hành động của Bộ về đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012. Đến hết ngày 15/8/2010 đã có 311 trường đại học, cao đẳng báo cáo tình hình triển khai thực hiện Chỉ thị 296 (đạt tỷ lệ 76,4%), trong đó, có 300 trường (đạt tỷ lệ 96,5% ) thành lập Ban chỉ đạo đổi mới công tác quản lý giai đoạn 2010-2012; có 183 trường (đạt tỷ lệ 58,8%) xây dựng và công bố chuẩn đầu ra ngành đào tạo; có 218 trường (đạt tỷ lệ 70,1%) tổ chức xây dựng, rà soát, bổ sung các chỉ số trong chiến lược phát triến trường giai đoạn 2011- 2015, định hướng đến 2020. Đặc biệt là các chính sách ưu đãi cho SV. Đối với SV có hoàn cảnh khó khăn thì có biện pháp hỗ trợ về vốn (vay vốn, miễn giảm học phí), tặng học bổng đối với những SV có thành tích học tập tốt, lựa chọn những SV ưu tú gửi đi đào tạo ở nước ngoài... Theo báo cáo của Ngân hàng Chính sách xã hội, đến hết tháng 6/2010, đã có 1.915.774 học sinh, sinh viên của 1.723.782 hộ gia đình được vay vốn, với tổng dư nợ là 23.745,595 tỷ đồng. Trong đó, 786.739 sinh viên đại học được vay vốn, dư nợ 10.376,171 tỷ đồng. Từ ngày 26/8/2009, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định tăng mức cho vay ưu đãi từ 800.000 đ/sinh viên/tháng lên 860.000đ/sinh viên/tháng 2.2 vai trò của các trường Còn về bản thân các trường để thu hút SV đã liên tục đổi mới trang thiết bị dạy và học, thay đổi phương pháp dạy, xây dựng các trương trình chuẩn quốc tế, liên kết đào tạo với nước ngoài, thuê giảng viên nước ngoài giỏi về giảng dạy, tuyển chọn đọi ngũ giảng viên có kinh nghiệm. đồng thời triển khai mạnh mẽ chủ trương đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội. Năm học vừa qua, các trường ĐH trong cả nước tiếp tục triển khai tích cực các văn bản thoả thuận đã ký kết với các các doanh nghiệp, các địa phương để đào tạo nhân lực đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, như: Tập đoàn Than và khoáng sản Việt Nam, tập đoàn Hồng Hải (Đài Loan), Intel, Campal Electrronic Company, tập đoàn Dệt May, ... các doanh nghiệp đã hỗ trợ kinh phí, trang bị cho các trường cơ sở vật chất,
  9. trang thiết bị, tạo điều kiện cho sinh viên thực hành, thực tập và tiếp nhận sinh viên sau tốt nghiệp về làm việc tại doanh nghiệp... 2.3 vai trò của gia đình và xã hội . Đối với gia đình và xã hội cũng rất quan tâm đến đầu tư cho giào dục. có nhiều gia đình mặc dù hoàn cảnh khó khăn vẫn cố gắng lo cho 2, thậm chi là ba người con đi học ĐH. Có nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã tổ chức hội chợ việc làm cho SV, tạo điều kiện làm thêm cho SV… 2.4 vai trò của sinh viên . Về bản thân SV, do được sự quan tâm của Đảng, nhà nước, gia đình và xã hội đã cố gắng học tập tốt và đạt được nhiều kết quả cao. Mới đây khi được tin giáo sư Ngô Bảo Châu đã đạt được giải thưởng toán học quốc tế Fields như một hiện tượng làm vinh quang không chỉ cho đất nước mà còn lá tấm gương cho các bạn SV học tập. có rất nhiều SV đã đoạt giải cao trong các kỳ thi olimpic quốc tế,chúng ta đã có bốn thí sinh xuất sắc đều đoạt giải Olimpic toán cũng như các cuộc thi Robocon vừa qua Việt Nam đạt giải nhì(năm 2010)… 3. Những khó khăn. Trên đây là những thánh tựu rất đáng tự hào củ chúng ta. Vì vậy để nâng cao vị thế GD Việt Nam trên trường quốc tế và nâng cao chất lượng đào tạo, đòi hỏi chúng ta không chỉ xem xét khía cạnh đã làm được mà còn phải dũng cảm đối diện với những gì chưa làm được vì đó là vấn đề quan tâm của toàn xã hội hiện nay. Nếu như một vài năm gần đây, cả nước bừng tỉnh với con số hàng trăm nghìn thí sinh trượt đai học mỗi năm và phát hiện nguyên nhân chính là kết quả của căn bệnh thành tích thì từ đó đến nay chúng ta lai quá quen thuộc với nó. Hàng ngày chúng ta đã quá quen thuộc khi đề cập đến các căn bệnh trong GD như“bệnh thành tích”, “bệnh đối phó”, “bệnh đấu đá”, “bệnh thiếu trung thực” đang tràn lan khắp nơi, ở mọi người kể cả thầy lẫn trò mà hiện tượng quay cóp đang hoành hành, trở thành quốc nạn. Đảng và nhà nước ta đã có chủ trương
  10. rất đúng đắn: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và cũng đã có những biện pháp cụ thể cải cách giáo dục. Tại sao ngành giáo dục vẫn loay hoay lúng túng, chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với giáo dục? Tại sao khi ta cởi trói cho nông dân và cho các nhà doanh nghiệp, thì nông nghiệp và doanh nghiệp phát triển? Tại sao chúng ta không cởi trói cho giáo dục để giáo dục phát triển? nếu như một thầy thuốc thì cần chẩn đoán đúng bệnh và cho đúng thuốc, thuốc đắng giã tật, bệnh nặng đến đâu cũng chữa được. Phải thẳng thắn nhìn vào sự thật những căn bệnh trầm kha của giáo dục Việt Nam nói trên. Và phải biết trị tận căn, mới mong chất lượng giáo dục của Việt Nam được cải thiện. 3.1 Trong quản lý giáo dục. Thời đại hiện nay, thế kỷ XXI, khoa học quản trị, nhất là quản trị chất lượng trở nên rất hệ trọng cho sự phát triển. Sau một thời gian đổi mới, tư tưởng bao cấp, duy ý chí, quản trị theo cảm tính vẫn còn tàn dư, khoa học quản trị chất lượng chưa thật sự đi vào nền nếp đời sống quản trị giáo dục từ cấp Bộ xuống đến cấp cơ sở giáo dục. Nếp sống văn hóa chất lượng chưa được hình thành. Lãnh đạo Bộ cũng như cấp trường vẫn chưa thật sự quan tâm đến khuyến cáo của các chuyên gia và thực sự chưa xây dựng được một đội ngũ chuyên gia hùng hậu có chuyên môn cao, có khả năng thuyết phục cao, nhất là thích ứng với hoàn cảnh đổi mới, vẫn thường quyết định theo cảm tính hoặc do duy ý chí. Như tại Thái Lan, đối với các trường công lập thì lo quản lý chặt chẽ về tài chánh, chuyên môn thì để trường hoàn toàn lo. Đối với các đại học tư, nhà nước lại không quản lý tài chánh, quản lý nhân sự lãnh đạo, song lại quản lý rất chặt chẽ về chuyên môn. Khi muốn mở một ngành mới, nhà nước quy định cứ 100 sinh viên thì phải có 3 tiến sĩ, 3 thạc sĩ, 1 cử nhân. Tất cả các trường đều phải tuân thủ, thượng tôn luật pháp. Các khâu định hướng, mục tiêu, kế hoạch, thanh tra, sử dụng, quản lý nhân sự về chất lượng đào tạo còn nhiều hạn chế, bất cập, thiếu nhất quán ổn định. Tiêu chí chuyên môn, hiệu quả chưa thật sự được coi trọng.
  11. 3.2 Phương pháp dạy học Hầu như các giảng viên chỉ quan tâm đến truyền đạt kiến thức và kiểm tra trí nhớ mà không quan tâm đến rèn luyện kỹ năng và nhân cách chuẩn bị vào đời, thường dùng phương pháp thuyết giảng là chủ yếu, truyền thụ kiến thức một cách thụ động, có nơi còn nạn thầy đọc trò ghi, có đổi mới thì lại chuyển từ "đọc chép sang nhìn chép”,chưa hướng dẫn sinh viên tự học, tự nghiên cứu hoặc không có biện pháp cụ thể khuyến khích sinh viên tự học, tự nghiên cứu. Không lấy sinh viên làm trung tâm trong quá trình dạy học. Khi giảng viên áp dụng phương pháp chủ động, lại gặp quá nhiều khó khăn do hạn chế phương tiện thiết bị giảng dạy hay thư viện còn rất hạn chế hoặc sinh viên lại rất thụ động, có thói quen lười suy nghĩ, không làm theo hướng dẫn của giảng viên. .Các trường đại học vẫn chưa thật sự quan tâm đến thực hành, thực tập. Bài tập càng nhiều, kỹ năng càng được rèn luyện, tính thưc hành, thực tiễn càng cao. Ngay giáo trình cũng thiếu vắng các bài tập. Thiếu hẳn một hệ thống trợ giảng (giảng viên) hay trợ giáo, kèm cặp (tutoring, sinh viên giỏi đàn anh phụ trách, được cấp tiền bồi dưỡng tượng trưng từng giờ hay từng buổi phụ việc). Các trường đại học ở Việt Nam chưa quan tâm đến phương pháp học nhóm, các thư viện chưa bố trí những phòng học nhóm, chưa có trường nào bố trí rất nhiều bàn ghế để cho bất cứ sinh viên lúc chưa đến giờ học hay giờ trống đến ngồi gặp gỡ nhau. Các giảng viên cũng không bắt buộc những bài tập làm theo nhóm, chấm điểm theo nhóm. 3.3 Đội ngũ giảng viên. Nếu học vị tiến sĩ là điều kiện chuẩn có khả năng dạy đại học thì hiện nay số lượng giảng viên có học vị này còn quá thấp so với khu vực ASEAN cũng như các nước phát triển trên thế giới. Dĩ nhiên cũng có các trường hợp ngoại lệ chỉ có bằng cử nhân nhưng vẫn là người giảng viên đại học giỏi, đầu ngành, được phong hàm giáo sư hay phó giáo sư. Đối với các nước trên thế giới, người có
  12. học vị cử nhân chỉ có thể làm trợ giảng mà không được phép dạy lý thuyết. Điều này ta chưa làm được, rõ ràng đã phản ánh chất lượng yếu kém của đội ngũ giảng viên đại học ở Việt Nam. Đội ngũ giảng viên đại học tại Việt Nam còn rất yếu kém về nghiên cứu sáng tạo, hiện chỉ mang tính đối phó, mang tính phong trào, làm lấy lệ, rất ít người say mê nghiên cứu và giành nhiều thời gian cho công tác nghiên cứu ngay cả những người có khả năng nghiên cứu Các giảng viên phải lo kiếm sống, nên việc lo tròn trách nhiệm của một người giảng viên bình thường đã là điều rất khó, chứ chưa thể nghĩ tới trách nhiệm nghiên cứu hay đi xa hơn nữa là hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc ngay như những người có tinh thần trách nhiệm cao nhất. Hiện tượng đấu đá không những phổ biến trong giới lãnh đạo để tranh quyền lực mà ngay trong các cán bộ giảng viên bình thường để tranh giành các danh hiệu thi đua, đã tạo ra một môi trường làm việc không được lành mạnh, làm sao công tác giảng dạy và nghiên cứu có thực chất. 3.4 Sinh viên Rất ít các SV chọn học được ngành học và trường đại học thích hợp với sở trường và sở thích đích thực của mình và trường cũng không chọn được sinh viên mà mình muốn đào tạo. SV chỉ học đối phó, cốt lấy điểm, học cho qua, trở thành bệnh thành tích, bệnh hình thức, thiếu thực chất… ngay cả SV khá giỏi cũng sẵn sàng quay cóp nhất là đối với những môn học khó nhớ, lại quá nhiều giờ học, mà không phải ngành nào cũng như nhau khiến SV không thích học. Theo PGS.TS Nguyễn Công Khanh, mỗi SV lớn lên trong môi trường văn hoá, xã hội khác nhau, hình thành những thói quen, cách suy nghĩ, các năng lực nhận thức, hứng thú cũng khác nhau. Điều này tạo nên sự đa dạng và sự phong phú về phong cách học, một số SV học tập tích cực, chủ động, một số khác lại tỏ ra thụ động, thích im lặng ngồi nghe hơn là tranh cãi.
  13. Có tới 64% SV chưa tìm được phương pháp học phù hợp với bản thân. Có 55,9% SV thường suy ngẫm để tìm ra các phương pháp học phù hợp và hiệu quả khi học các loại tài liệu khác tuỳ theo mục đích và hoàn cảnh cụ thể. Có 68,2% SV thường suy nghĩ về cách học, cách thức tự quản lí việc học của mình sao cho hiệu quả. Có 50,9% SV cho rằng mình tự học hiệu quả nhờ biết kết hợp các phương pháp học khác nhau phù hợp với nhiệm vụ học tập cụ thể. Nhưng chỉ có 29,2% SV cho rằng mình đã lập thời gian biểu học tập và cố gắng thực hiện đúng thời gian biểu; có 36% SV được khảo sát cho rằng mình đã tìm được những phương pháp học phù hợp với đặc điểm nhận thức của cá nhân và tất nhiên 64% sinh viên còn lại là mơ hồ về phương pháp học. Về tinh thần tích cực và năng động của sinh viên, ông Khanh cũng cảm thấy rất đáng tiếc khi có tới 36,1% biểu lộ phong cách học thụ động: ngại nêu thắc mắc, ngại nói ra ý tưởng riêng của mình trong các cuộc thảo luận trên lớp; Có 22,9% SV chỉ thích giáo viên giảng cho mình nghe hơn là chủ động hỏi, nêu thắc mắc (chưa kể 42,7% SV cũng có quan điểm gần gần như vậy); 41,1% cho rằng mình học chủ yếu từ vở ghi, giáo trình và ít có thời gian tìm Hơn 50% SV được khảo sát không thật tự tin vào các năng lực/ khả năng học của mình. Hơn 40% cho rằng mình không có năng lực tự học; Gần 70% SV cho rằng mình không có năng lực tự nghiên cứu;
  14. 31,4% số SV được khảo sát cho rằng các chiến lược học của mình hướng vào việc nắm kiến thức hơn là phát triển các năng lực tư Gần 55% SV được hỏi cho rằng mình không thực sự hứng thú học tập. SV yếu nhất ở các nhóm: Kĩ năng thuyết trình, kĩ năng sử dụng máy vi tính, kĩ năng viết báo cáo tham luận, kĩ năng vận dụng vào thực tế. SV mạnh hơn ở các nhóm kĩ năng: Phân tích và giải thích, giải quyết vấn đề, nghe ghi và hiểu bài giảng. (PGS.TS Nguyễn Công Khanh). 3.5 Trương trình đào tạo. Định hướng, mục tiêu, phương pháp dạy học và phương thức lượng giá hầu như không thấy ghi trong chương trình hoặc rất sơ sài, phản ảnh sự thiếu chuyên môn trong việc soạn các chương trình dạy học, chưa được thiết thực, đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong thời kỳ đổi mới, hội nhập vào thế giới . Cấu trúc chương trình nhiều điểm chưa hợp lý, chiếm quá nhiều thời gian lên lớp về lý thuyết, rất ít giờ bài tập, rất ít giờ hoạt động ngoại khoá tự học, tự nghiên cứu. Nhiều nội dung chương trình lạc hậu hay nặng nề, không còn phù hợp, tạo sự chán nản cho sinh viên, khiến sinh viên không đi sâu vào ngành học, nhất là năm đầu tiên có quá ít môn của ngành học. 3.6 Cơ sở vật chất. Cơ sở vật chất đại học ở Việt Nam kể cả công lập và dân lập đều rất yếu kém, từ quy mô đến chất lượng, tính hiệu quả phục vụ sự giảng dạy cũng như học tập, nghiên cứu …, nhất là các trường đại học dân lập thì hầu như chưa có, bởi một vài trường có rồi chỉ là tạm bợ, chưa có thể là quy mô hay chất lượng của một trường đại học, nếu chưa muốn nói chưa được là một trường trung học phổ thông trung bình. Cũng có thể chỉ ở Việt Nam mới xảy ra tình trạng cơ sở vật chất trường đại học như vậy.
  15. Chương 2. Khái quát tình hình chung. 1. Những thành tựu. Trước hết là hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ đã góp phần tích cực nâng cao chất lượng đào tạo và phát triển kinh tế xã hội đất nước. Các đơn vị trực thuộc Bộ GD&ĐT đang triển khai thực hiện 20 đề tài độc lập cấp Nhà nước, 34 nhiệm vụ nghiên cứu thuộc các Chương trình KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước. Trong năm qua, các đơn vị cũng đã triển khai thực hiện 103 đề tài KH&CN trọng điểm cấp Bộ. Đã hỗ trợ gần 1.300 NCS thông qua các đề tài NCKH cấp cơ sở có nội dung gắn với luận án tiến sĩ từ nguồn kinh phí sự nghiệp KHCN. Đã có hơn 960 bài báo và CTKH đăng trên các tạp chí quốc tế, gần 4.100 bài báo, công trình đăng trên các tạp chí khoa học trong nước... Một thành tựu đáng kể đến là có rất nhiều SV Việt Nam du học ở nước ngoài và có rất nhiều người tốt nghiệp loại xuất sắc, nhiều CTNC được đánh giá rất cao đưa GD Việt Nam sánh ngang với thế giới. theo thống kê của hội du học thì số SV Việt Nam du học tại mỹ đứng thứ 9 thế giới. dưới đây là thống kê NCKH của một số nước trong khu vực: Bức tranh NCKH của 11 nước Đông Á (Hình 1) cho thấy không có bất cứ lý do nào để khước từ CBQT nếu chúng ta muốn đất nước sánh vai với các nước tiên tiến trong khu vực.
  16. Hình 1 Tính trên một triệu dân, Singapore đứng đầu khu vực về CBQT, gấp 170 lần Việt Nam. Theo sát sau Singapore là Đài Loan, Hàn Quốc, HongKong và Nhật Bản, năm nước này tạo thành nhóm tiên tiến nhất trong khu vực. Dưới cùng trở lên là Indonesia, Philippines và Việt Nam. Thái Lan, Trung Quốc và Malaysia thuộc nhóm giữa, nhưng vẫn vượt khá xa ba nước vừa nêu trong nhóm cuối. Năm 2008, 65 triệu dân Thái Lan công bố 3904 công trình, trong khi đó Việt Nam đông dân hơn (87 triệu) nhưng chỉ mới có 806 công trình. Thành tích CBQT của Việt Nam khá hơn Indonesia và Philippines, mặc dù thu nhập bình quân của hai nước này cao hơn ta gấp hai lần. Hơn nữa, trong nhiều năm liền, Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng cao về công bố quốc tế, 16%/năm, ngang với tốc độ của Thái Lan và Malaysia.
  17. 1.1 Đầu tư cho giáo dục Giáo sư Đào Trọng Thi, giám đốc Đại học Quốc gia HN đưa ra một so sánh : tỷ lệ đầu tư cho GD mới đạt 3 % GDP, trong khi tỉ lệ này ở Philippines là 4,2 %, ở Thái Lan là 5,4 % và ở Malaysia là 6,7 %. Một cách so sánh khác : Chính phủ hiện quy định mức trần thu học phí đối với các trường ĐH công lập là 2.9 triệu đồng/ năm/ SV, chỉ bằng khoảng 20 - 25 % định mức chi phí đào tạo thường xuyên cho một SV (định mức này ở hai ĐHQG là 9 360 000 đồng/ SV, các trường ĐH công lập khác vào khoảng 7 - 8,5 triệu đồng). 1.2 Tình hình du học Giáo sư Phạm Phụ, ĐH Quốc gia TPHCM đưa ra con số : VN hiện nay đã có trên 20 000 SV đang du học tự túc ở nước ngoài, chi phí ước tính không dưới 200 triệu USD/năm. Nhà nước cũng đã có chương trình học bổng du học từ ngân sách quốc gia với tổng kinh phí 1 000 tỉ đồng trong 5 năm. 2. Nguyên nhân. Do tư tưởng, con người, cách làm của thời bao cấp, thời chiến tranh không dễ gì một sớm một chiều có thể thay đổi ngay được. Do đời sống vật chất của giảng viên quá thấp, không ai sống bằng đồng lương, không ai có thể toàn tâm toàn ý và đủ thời gian hoàn thành trách nhiệm chuyên môn của họ Do từ lâu, quan niệm, định hướng giáo dục, mục tiêu giáo dục rất mơ hồ, có thói quen lượng giá, đánh giá… trong các hệ thống giáo dục rất sai lầm. Ít quan tâm đế những mục tiêu về kỹ năng, thái độ, nhân cách chuẩn bị vào đời, đáp ứng yêu cầu của xã hội Đồng thời do nhà nước áp dụng một hệ thống thi cử, thi đấu, thi đua hết sức nặng nề khắp các cấp, khắp các đối tượng, cán bộ, thầy và trò cùng một số nguyên nhân khác tạo ra tinh thần khoa cử, thi đấu rất nặng nề trong xã hội, tạo
  18. áp lực học sinh phải học thêm, học tủ để đạt kết quả trước mắt với bất cứ giá nào kể cả kiệt sức, quay cóp… đưa tới cách dạy đối phó, học đối 2.1 Cơ sở vật chất. Trang bị các phòng học, các thư viện, phòng thí nghiệm ở các Đại học rất yếu kém, vừa không cập nhật, vừa không có hệ thống. Vào mạng các Trường Đại học nước ngoài, chưa nói các nước Âu - Mỹ, chỉ riêng các Đại học lớn ở Nga, Trung Quốc - các nước vừa chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường, họ cũng có nhiều thư viện điện tử nhiều kho dữ liệu rất phong phú cho Sinh viên, Giảng viên sử dụng. Chúng ta không nên quên bài học về nông nghiệp. Từ một nước thiếu gạo, chỉ cần thay đổi chính sách hợp lý, chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới. Nhà nước cũng như xã hội chưa thật sự quan tâm đến việc xây dựng các trường học, tương xứng với chủ trương GD là quốc sách hàng đầu hay tinh thần hiếu học của người Việt Nam. Chưa quan tâm đến cơ sở vật chất phục vụ phương cách học tập hiện đại: học nhóm, phương pháp dạy và học giao tiếp… 2.2 Quản lý. Do tàn dư của cơ chế quản lý bao cấp, cơ cấu nhân sự bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu hiệu quả của thời kỳ đổi mới. Do chức năng chồng chéo, lẫn lộn, trách nhiệm không rõ ràng. Do thiếu chuyên môn, thiếu đào tạo, bồi dưỡng khoa học kỹ thuật quản trị mới từ cấp Bộ đến cấp trường đại học. 2.3 Phương pháp đào tạo. Do ảnh hưởng từ lâu của lối dạy học nặng lý thuyết, mang tính kinh viện. Do ảnh hưởng từ lâu cách kiểm tra, cách thi nặng về kiến thức, cách đánh giá về kết quả hơn về cách đánh giá quá trình học tập. Cách đánh giá, cách thi nào sẽ có cách học đó. Do ảnh hưởng từ lâu lối giáo dục đặt nặng về điểm số, đặt nặng thành tích, không quan tâm đến sự hứng thú và thực tiễn, trò lo học đối phó để kiếm điểm kể cả quay cóp tràn lan.
  19. 2.4 Đội ngũ giáo viên. Do lịch sử thời bao cấp và thời chiến tranh để lại. Tình trạng thầy không ra thầy, trò không ra trò, trường không ra trường, lớp không ra lớp là chúng ta hiểu được và đành chấp nhận trong hoàn cảnh lịch sử đó, vì yêu cầu của đấu tranh, một mất một còn, không thể nào khác! Mà hiện nay trong thời kỳ đổi mới và hội nhập với khu vực và thế giới, yêu cầu hoàn toàn khác, cách làm phải theo quy luật hoàn toàn khác, nếu ta muốn tồn tại và phát triển. Do đời sống vật chất của giảng viên quá thấp, không ai sống bằng đồng lương, không ai có thể toàn tâm toàn ý và đủ thời gian hoàn thành trách nhiệm chuyên môn của họ. Không thể đòi hỏi nhiều hơn nữa nơi họ vì họ đã chịu đựng như thế là quá phi thường, quá sức chịu đựng của họ rồi, nhất là đối với những người có khả năng và trách nhiệm cao! 2.5 Sinh viên. Do từ lâu, quan niệm, định hướng giáo dục, mục tiêu giáo dục rất mơ hồ, có thói quen lượng giá, đánh giá, thi, kiểm tra trong các hệ thống giáo dục rất sai lầm, chỉ theo lối đánh giá kết quả bằng điểm số mà chỉ về kiến thức, không đánh giá theo quá trình học tập, ít quan tâm đế những mục tiêu về kỹ năng, thái độ, nhân cách chuẩn bị vào đời, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Ngay cách đánh giá đạo đức của sinh viên vừa mới ban hành cũng nặng về điểm số và không giao trách nhiệm cho các giảng viên đánh giá nhận xét! Đồng thời do nhà nước áp dụng một hệ thống thi cử, thi đấu, thi đua hết sức nặng nề khắp các cấp, khắp các đối tượng, cán bộ, thầy và trò cùng một số nguyên nhân khác tạo ra tinh thần khoa cử, thi đấu rất nặng nề trong xã hội, tạo áp lực học sinh phải học thêm, học tủ để đạt kết quả trước mắt với bất cứ giá nào kể cả kiệt sức, quay cóp… đưa tới cách dạy đối phó, học đối phó. Do giáo dục phổ thông chưa chuẩn bị tốt, hướng dẫn rèn luyện để học sinh lựa chọn ngành học, trường học phù hợp và chuẩn bị cách học ở đại học.
  20. 2.6 Chương trình đào tạo. Do chưa thật mạnh dạn đổi mới, còn ảnh hưởng tư duy giáo dục thời bao cấp. Do chưa đảm bảo những nguyên tắc về định hướng và mục tiêu, từ đó, nội dung và phương pháp giảng dạy và cách thức lượng giá phải thể hiện. Do Bộ và các trường đại học chưa chuẩn bị tốt, xây dựng, đào tạo đội ngũ các chuyên gia soạn chương trình và triển khai tốt kế hoạch soạn chương trình đào tạo đại học. 2.7 nguyên nhân khác Trong lĩnh vực GD&ĐT ở nước ta đang xảy ra một nghịch lý: Là một nước thuộc loại nghèo nhất thế giới, chúng ta đang có hàng nghìn sinh viên tự túc du học ở nước ngoài. Họ là những con nhà giàu có chăng? Chỉ đúng một phần. Có nhiều bậc cha mẹ đã và đang thế chấp nhà cửa, vay tiền và sống đạm bạc để cho con đi du học. Tại sao? Vì họ có nhu cầu cho con học đại học và thực tế con cái họ có khả năng học đại học ở nước ngoài. Nhưng ở ta, họ không được chấp nhận. Cái quy trình đi du học của nhiều người diễn ra như sau: Thi đại học - trượt - Thi lại - Thi lại trượt - Đi du học Điều đó cho thấy, đi du học đối với họ không phải là sự lựa chọn mà là sự bắt buộc. Nếu mỗi SV đi du học tự túc ở nước ngoài phải chi mỗi năm 10.000 USD thì số ngoại tệ của đất nước ta chảy ra ngoài hàng năm lên tới hàng chục triệu USD. Số tiền đó thật là đáng quý đối với một nước nghèo như nước ta. Nó có thể sẽ cao hơn số tiền ngân sách mà nhà nước chi cho ngành GD&ĐT. Chương 3. Gỉai pháp và kiến nghị Đã ít lâu nay, khi bàn về giáo dục ở nước ta hiện nay, hình như nhiều người thường thống nhất với nhau: Thôi, không nên nói tình hình nữa, tình hình giáo dục, những căn bệnh của giáo dục đang khiến cả xã hội không thể yên tâm, thì ai cũng biết và nhận ra cả rồi. Vấn đề bây giờ là cần tìm giải pháp nào để thay đổi được.Có thể nói rằng nguyên nhân đầu tiên, sai lầm đầu tiên và bao trùm là
nguon tai.lieu . vn