Xem mẫu

  1. TIÊU CHUẨN SIÊU DỮ LIỆU ÁP DỤNG TỔ CHỨC TRI THỨC Ở THƯ VIỆN SỐ Hoàng Yến* - Nguyễn Thị Hòa** 1 Tóm tắt: Môi trường kinh tế và thông tin đang thay đổi nhanh chóng hàng ngày. Tổ chức tri thức đã trở thành một công cụ mạnh mẽ để thúc đẩy và hiện thực hóa các ý tưởng đổi mới trong nhiều tầng lớp khác nhau của thư viện. Do đó, chuẩn hóa nghiệp vụ thư viện dựa trên các tiêu chuẩn đóng vai trò quan trọng nhất đối với việc sử dụng hiệu quả thông tin nối mạng cũng như sự phát triển của thư viện số. Bài viết trình bày các khái niệm, vai trò của tiêu chuẩn hóa nói chung và tiêu chuẩn hóa hoạt động thư viện nói riêng, đồng thời tập trung phân tích các tiêu chuẩn siêu dữ liệu trong tổ chức tri thức ở thư viện số. Từ khóa: Thư viện số; Tri thức; Tổ chức tri thức; Tiêu chuẩn nghiệp vụ; Siêu dữ liệu; Tiêu chuẩn siêu dữ liệu. MỞ ĐẦU Đại văn hào Victor Hugo đã từng nói: “Ngày tháng cho chúng ta kinh nghiệm, đọc sách cho chúng ta kiến thức”, trong những năm gần đây, vai trò của thư viện đại học Việt Nam đã và đang được nhìn nhận như là một bộ phận cấu thành quan trọng của trường đại học, góp phần thiết thực vào nâng cao chất lượng của trường đại học, và trở thành một tiêu chí đánh giá chất lượng trường đại học. Việc áp dụng tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng trong hoạt động thư viện đại học cũng trở nên phổ biến trong những năm qua. Chuẩn hóa đã và đang trở * Thạc sĩ, Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội. ** Trung tâm Thông tin – Thư viện, Đại học Quốc gia Hà Nội.
  2. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 880 thành một yêu cầu khách quan của bất cứ ngành nghề và hoạt động nào trong xã hội. Thư viện là một trong những thiết chế văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức góp phần đặc biệt trong việc nâng cao dân trí giúp cho mỗi cá nhân có thể không ngừng mở mang hiểu biết thực hiện việc học suốt đời. Để hướng tới việc hội nhập quốc tế cũng như phục vụ và cung cấp cho người đọc, người dùng tin một cách có hiệu quả và chất lượng, các thư viện không thể không quan tâm đến việc chuẩn hóa. 1. KHÁI QUÁT VỀ TIÊU CHUẨN HÓA HOẠT ĐỘNG THƯ VIỆN 1.1. Tiêu chuẩn hóa Tiêu chuẩn là hướng dẫn hoặc quy tắc đối với sản phẩm, quy trình, phương pháp thử nghiệm hoặc vật liệu. Chúng được tạo ra để đánh giá mức độ đồng nhất, khả năng thay thế cho nhau, độ tin cậy hoặc phương tiện so sánh. Tiêu chuẩn hóa công việc hay chuẩn hóa quy trình làm việc là các quy trình và hướng dẫn sản xuất được quy định và truyền đạt rõ ràng đến mức chi tiết  nhằm tránh sự thiếu nhất quán và tự suy diễn cách thức thực hiện công việc. Qua đó, mỗi một công việc được bố trí thực hiện theo cách hiệu quả nhất và bất cứ ai là người thực hiện chất lượng công việc đó luôn được đảm bảo. 1.2. Tiêu chuẩn hóa trong hoạt động thư viện Trong lĩnh vực thư viện thông tin, theo định nghĩa của Từ điển trực tuyến về thư viện và thông tin học (ODLIS): “Tiêu chuẩn là các tiêu chí do các hội nghề nghiệp, các cơ quan có thẩm quyền về đánh giá, kiểm định, hoặc các cơ quan chính phủ xây dựng nhằm đo lường và đánh giá các dịch vụ thư viện, vốn tài liệu, và các chương trình hoạt động”. TS. Vũ Dương Thuý Ngà đã khái quát: “Chuẩn hoá trong lĩnh vực thông tin - thư viện là việc xác lập và áp dụng chuẩn mực nhằm kiểm soát, đánh giá các hoạt động thông tin - thư viện, đảm bảo cho hoạt động thông tin - thư viện có thể tiến hành đạt chất lượng, hiệu quả, thực hiện và duy trì các mục tiêu đã đặt ra. Tiêu chuẩn, quy định
  3. TIÊU CHUẨN SIÊU DỮ LIỆU ÁP DỤNG TỔ CHỨC TRI THỨC Ở THƯ VIỆN SỐ 881 kỹ thuật, quy phạm thực hành và văn bản pháp quy là các công cụ đảm bảo sự chuẩn hoá trong lĩnh vực thông tin - thư viện được thực hiện. Phổ biến, triển khai áp dụng và có kiểm tra, đánh giá là những biện pháp thực hiện chuẩn hoá” [3]. Các thư viện ở một vị trí độc nhất để tận dụng các tiêu chuẩn so với nhiều tổ chức khác. Không giống như các ngân hàng, nhà sản xuất hoặc doanh nghiệp bán lẻ, các thư viện không cạnh tranh với nhau. Và không giống như các trường học, chính quyền thành phố, hoặc các tổ chức phi lợi nhuận nói chung, các thư viện có mối liên hệ chuyên môn chặt chẽ để ban hành các tiêu chuẩn. Các tiêu chuẩn tạo ra hiệu quả cho cả thư viện và các nhà cung cấp phục vụ chúng. Chúng giúp tất cả các thư viện có thể là khách hàng của cùng một thiết kế hệ thống thư viện. Chúng cũng giúp các thư viện có thể chia sẻ dữ liệu. Các tiêu chuẩn không chỉ tạo ra hiệu quả về mặt thời gian và chi phí, mà còn mang lại sự đồng nhất của sản phẩm, điều quan trọng đối với khách hàng. Nhiều tiêu chuẩn trong khu vực sản xuất đảm bảo với khách hàng rằng thực sự một bóng đèn mới sẽ phù hợp với bóng đèn cũ và ít nhất trong một quốc gia, tất cả các mặt hàng điện được mua sẽ có phích cắm phù hợp với ổ cắm trên tường của các tòa nhà. Thư viện có lịch sử lâu dài trong việc sử dụng các tiêu chuẩn và công cụ được chia sẻ trong các cộng đồng thư viện. Quy tắc đầu tiên được xuất bản và phát triển vào năm 1852 bởi một thủ thư người Mỹ: Smithsonian Charles Coffin Jewett (Jewett, 1852). Đến năm 1908, Hiệp hội Thư viện Hoa Kỳ và Hiệp hội Thư viện đã hợp tác với nhau về mã biên mục quốc tế đầu tiên, được xuất bản ở Hoa Kỳ với tên gọi: Quy tắc Danh mục, tác giả và tên sách. Tiếp đó là sự ra đời của Quy tắc biên mục Anh-Mỹ (AACR) được xuất bản vào năm 1967. AACR được duy trì bởi một cam kết quốc tế và sửa đổi vào các năm 1988, 1998 và 2002. Năm 2004, công việc bắt đầu sửa đổi toàn diện và đúc kết lại các quy tắc, RDA: Mô tả và Truy cập Tài nguyên. RDA đã được xuất bản trong Bộ công cụ RDA vào tháng 6 năm 2010. Nguồn chính của các giá trị từ
  4. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 882 vựng hoặc dữ liệu được kiểm tra là Hệ thống tiêu đề chủ đề của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ (LCSH). Sự kiện ra đời của MARC (Machine- readable cataloging) vào những năm 1960 cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi mục tiêu chuẩn hóa dữ liệu giữa các thư viện cho phép họ chia sẻ thông tin của mình trên nhiều hệ thống. Sự phát triển của lược đồ MARC XML trong những năm 1990 cho phép thư viện tổng hợp tận dụng các hệ thống mạng hiện đại như giao thức Z39.50 / SRU (Search / Truy xuất thông qua URL) và SRW (Dịch vụ Web Truy xuất tìm kiếm) và OAI. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi tập trung phân tích tiêu chuẩn siêu dữ liệu áp dụng trong tổ chức tri thức ở thư viện số. 2. VAI TRÒ CỦA SIÊU DỮ LIỆU TRONG TỔ CHỨC TRI THỨC Ở THƯ VIỆN SỐ 2.1. Khái niệm siêu dữ liệu và tổ chức tri thức Siêu dữ liệu là bất kỳ loại mô tả chính thức nào của tài nguyên, bất kể định dạng nào. Siêu dữ liệu phục vụ nhiều mục đích quan trọng như mô tả dữ liệu, duyệt dữ liệu, truyền dữ liệu, siêu dữ liệu có vai trò quan trọng trong quản lý tài nguyên số. Tổ chức tri thức là các hoạt động liên quan đến việc mô tả tài liệu, lập chỉ mục và lập danh mục, phân loại và tổ chức các tài nguyên tri thức như cơ sở dữ liệu, lưu trữ, bản đồ và các nguồn kiến ​​thức khác theo các định dạng khác nhau. Nó được thực hiện bởi các chuyên gia thông tin, nhà lưu trữ, chuyên gia môn học, cũng như các thuật toán máy tính. Kiến thức bắt đầu dưới dạng dữ liệu sự kiện thô và thông tin số là dữ liệu được đưa vào ngữ cảnh. Thông tin được thu thập trong tài liệu hoặc cơ sở dữ liệu khi thông tin được kết hợp với kinh nghiệm sự hiểu biết, nó sẽ trở thành tri ​​thức. Tổ chức tri thức đóng vai trò là cầu nối giữa nhu cầu thông tin của người dùng và tài liệu trong bộ sưu tập. Dữ liệu được xử lý mới thành thông tin. Thông tin được xử lý mới thành tri thức.
  5. TIÊU CHUẨN SIÊU DỮ LIỆU ÁP DỤNG TỔ CHỨC TRI THỨC Ở THƯ VIỆN SỐ 883 Sơ đồ: Dữ liệu - Thông tin - Tri thức 2.2. Vai trò của siêu dữ liệu trong tổ chức tri thức Trong thư viện số đối tượng để mô tả là các siêu dữ liệu. Phát triển dữ liệu tiêu chuẩn để mô tả các thư mục tài liệu chứng minh rằng bằng cách sử dụng các công cụ và tiêu chuẩn chung, thông tin có thể được phân phối rộng rãi và hệ thống có thể được thiết kế để nâng cao mục tiêu chia sẻ tài nguyên, giảm chi phí và tăng khả năng truy cập. Siêu dữ liệu được sử dụng để mô tả kiến ​​thức theo các thuộc tính của nó và để cung cấp bối cảnh, chất lượng, tình trạng hoặc các đặc điểm khác của tài sản kiến ​​thức. Trong các thư viện và kho lưu trữ, việc tạo siêu dữ liệu là một nhiệm vụ được thể chế hóa. Biên mục viên, lưu trữ viên và các chuyên gia thông tin được giao trách nhiệm tạo siêu dữ liệu. Tạo siêu dữ liệu cũng là trách nhiệm chính đối với những người làm việc với tư cách là người quản lý dữ liệu trong kho dữ liệu. Biên mục là một tập hợp con của lĩnh vực lớn hơn được gọi là tổ chức thông tin. Nó có thể được định nghĩa là, “Quá trình tạo siêu dữ liệu cho tài nguyên bằng cách mô tả tài nguyên, chọn điểm truy cập tên và tiêu đề, tiến hành phân tích chủ đề, gán tiêu đề chủ đề và số phân loại, và duy trì hệ thống thông qua đó dữ liệu danh mục được cung cấp ”[7].
  6. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 884 Hệ thống tri thức được cấu trúc trên siêu dữ liệu và phân loại để có thể truy cập và sử dụng được. Siêu dữ liệu để gắn thẻ và phân loại dựa trên các tiêu chuẩn. Một dạng siêu dữ liệu thông thường là danh mục trực tuyến của thư viện. Trong lĩnh vực điện tử, siêu dữ liệu về nội dung được thu thập bởi các công cụ tìm kiếm, được điều chỉnh bởi các tiêu chuẩn, chẳng hạn như Sáng kiến ​​siêu dữ liệu lõi Dublin, Mô tả lưu trữ được mã hóa và giao thức Z39.50 để phân phối và chia sẻ siêu dữ liệu. Đây là những công cụ để khám phá tài nguyên. Thủ thư tạo các nhãn và thẻ cho phép tìm thấy tài liệu. Người dùng trong tương lai dự kiến ​​sẽ sử dụng cùng một ngôn ngữ gắn thẻ thông thường và cùng một kỹ thuật tìm kiếm và truy xuất mà họ sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Họ sẽ sử dụng các phương pháp gắn thẻ, chẳng hạn như phương pháp dân gian, để mô tả việc phân loại thông tin mà họ sử dụng. Một lần nữa, phân loại là lĩnh vực chuyên môn của các chuyên gia thông tin. Do đó, tri thức có tổ chức dễ dàng được truy cập và sử dụng bởi bất kỳ ai khác ngoài người tạo ra tri thức. 2.3. Các tiêu chuẩn siêu dữ liệu trong tổ chức tri thức Tiêu chuẩn mô tả dữ liệu là việc định ra một trật tự nhất định cho các yếu tố mô tả và cách thức quy ước ghi ký hiệu dấu cho từng yếu tố mô tả đó. Tiêu chuẩn siêu dữ liệu bao gồm: tiêu chuẩn cấu trúc dữ liệu, tiêu chuẩn nội dung dữ liệu, tiêu chuẩn giá trị dữ liệu, định dạng dữ liệu (tiêu chuẩn trao đổi) và lược đồ phân loại. Hình ảnh minh họa Tiêu chuẩn Thư viện Cấu trúc dữ liệu MARC
  7. TIÊU CHUẨN SIÊU DỮ LIỆU ÁP DỤNG TỔ CHỨC TRI THỨC Ở THƯ VIỆN SỐ 885 Nội dung dữ liệu AACR2, RDA Định dạng dữ liệu Dublin Core Trao đổi dữ liệu Z.39.50 Bảng 1. Các tiêu chuẩn cơ bản được nhiều cộng đồng thư viện sử dụng 2.3.1. Tiêu chuẩn cấu trúc dữ liệu “Cấu trúc dữ liệu” là tổ chức hoặc nhóm các trường dữ liệu. Cấu trúc dữ liệu trả lời câu hỏi, các trường dữ liệu được sắp xếp như thế nào thành một bản ghi? Có nghĩa là, các trường dữ liệu là các đơn vị thông tin mà một tiêu chuẩn cung cấp cho dữ liệu chiếm lấy. Trường dữ liệu là các đơn vị thông tin được đặt tên, thường còn được gọi là “phần tử” hoặc “danh mục”, được tổ chức thành một bản ghi theo cấu trúc dữ liệu. Về mặt ẩn dụ, các trường dữ liệu và tiêu chuẩn cấu trúc giống như những cái chai đang chờ được lấp đầy. Tiêu chuẩn cấu trúc dữ liệu thường được gọi là lược đồ siêu dữ liệu. Một lược đồ siêu dữ liệu xác định cấu trúc và ý nghĩa (ngữ nghĩa) của các phần tử. Bộ yếu tố siêu dữ liệu lõi Dublin (DCMES) là một tiêu chuẩn siêu dữ liệu được quốc tế công nhận, bao gồm 15 yếu tố cơ bản được sử dụng để mô tả nhiều loại tài nguyên kỹ thuật số. MARC - Biên mục đọc máy (Machine Readable Cataloguing): chủ yếu được sử dụng
  8. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 886 bởi cộng đồng thư viện, MARC là một cấu trúc dữ liệu số để mô tả thư mục, thẩm quyền, phân loại và dữ liệu lưu giữ, MARC được sử dụng để mô tả tài liệu thư mục nhằm tạo điều kiện hợp tác biên mục và trao đổi dữ liệu giữa các hệ thống thư viện tích hợp. VRA Core (Danh mục cốt lõi của Hiệp hội tài nguyên trực quan) ban đầu được xây dựng dựa trên Dublin Core, bổ sung các yếu tố và cấu trúc cần thiết cho việc mô tả và quản lý tài nguyên trực quan. Nó cho phép mô tả riêng biệt hình ảnh, tác phẩm và bộ sưu tập, tạo sự phân biệt giữa tác phẩm và hình ảnh của những tác phẩm đó, với các bản ghi riêng biệt cho từng tác phẩm được liên kết với nhau. Chủ yếu cộng đồng bảo tàng sử dụng VRA Core, nhưng đôi khi nó được sử dụng để mô tả các tài nguyên trực quan trong các bộ sưu tập bên ngoài bảo tàng. 2.3.2. Tiêu chuẩn nội dung dữ liệu Tiêu chuẩn nội dung dữ liệu là các hướng dẫn nhân viên cách nhập dữ liệu vào các phần tử của lược đồ siêu dữ liệu. Ví dụ, một tiêu chuẩn nội dung có thể hướng dẫn cách soạn một tiêu đề gốc, hoặc cách sử dụng hoặc không sử dụng các chữ viết tắt. Sử dụng một tiêu chuẩn nội dung đảm bảo tính nhất quán trong việc nhập dữ liệu. Dưới đây là danh sách các tiêu chuẩn nội dung dữ liệu thường được sử dụng với các liên kết để biết thêm thông tin về từng tiêu chuẩn. Các phương pháp hay nhất về siêu dữ liệu cốt lõi của CDP Dublin Phiên bản 2.1. CCO (Lập danh mục các đối tượng văn hóa) được tài trợ bởi Hiệp hội tài nguyên hình ảnh, sổ tay này được nhân viên chuyên nghiệp sử dụng trong các bộ sưu tập bảo tàng, bộ sưu tập tài nguyên hình ảnh, kho lưu trữ và thư viện nghệ thuật và kiến ​​trúc để mô tả các tác phẩm văn hóa và các tác phẩm thay thế hình ảnh của chúng (ví dụ: tranh, tác phẩm điêu khắc , bản in, bản thảo, ảnh và các phương tiện trực quan khác). DACS (Mô tả tài liệu lưu trữ) được sử dụng để mô tả tài liệu lưu trữ, giấy tờ cá nhân và bộ sưu tập bản thảo và có thể được áp dụng cho tất cả các loại tài liệu.
  9. TIÊU CHUẨN SIÊU DỮ LIỆU ÁP DỤNG TỔ CHỨC TRI THỨC Ở THƯ VIỆN SỐ 887 Quy tắc biên mục Anh Mỹ - AACR2 (Anglo-American Cataloguing Rules), là mã biên mục quốc tế thiết yếu được sử dụng để biên mục mô tả các loại tài nguyên thông tin khác nhau của các thư viện ở Hoa Kỳ, Anh, Canada và Úc cũng như ở nhiều quốc gia khác. Các quy tắc bao gồm mô tả tiêu chuẩn về các lĩnh vực như: tiêu đề, nhà xuất bản, ấn bản, bộ truyện,... cũng như cung cấp sự lựa chọn và hình thức điểm truy cập (đề mục) cho tất cả các tài liệu mà thư viện có thể chứa hoặc có thể truy cập, bao gồm sách, loạt bài, tài liệu bản đồ, tài nguyên điện tử,... AACR2 cũng cung cấp các quy tắc cho xây dựng các dạng tiêu chuẩn của tên và chức danh để cung cấp quyền truy cập và nhóm các mô tả đó. RDA (Mô tả và truy cập tài nguyên) RDA được phát triển như một bộ hướng dẫn mới để mô tả và cung cấp quyền truy cập vào các tài nguyên bao gồm tất cả các loại nội dung và phương tiện. Nó thay thế ấn bản thứ hai của Quy tắc biên mục Anh-Mỹ (AACR2) làm tiêu chuẩn cho việc biên mục. Nó cung cấp một khuôn khổ linh hoạt để mô tả tất cả các tài nguyên (in ấn, kỹ thuật số), dữ liệu tương thích với các bản ghi hiện có trong danh mục thư viện trực tuyến. RDA là một gói phần tử dữ liệu, hướng dẫn để tạo siêu dữ liệu tài nguyên thư viện và di sản văn hóa được hình thành tốt theo mô hình quốc tế cho các ứng dụng dữ liệu liên kết tập trung vào người dùng. 2.3.3. Tiêu chuẩn giá trị dữ liệu Tiêu chuẩn giá trị dữ liệu là danh sách các thuật ngữ hoặc mã tiêu chuẩn được sử dụng khi nhập các phần tử dữ liệu. Ví dụ bao gồm các tệp thẩm quyền cho tên, tiêu đề chủ đề cho các thuật ngữ chủ đề và tên địa lý, và các thuật ngữ loại tài nguyên. Sử dụng danh sách thuật ngữ đã thiết lập (từ vựng được kiểm soát) đảm bảo tính nhất quán khi mô tả tài liệu vật lý hoặc đối tượng kỹ thuật số và có thể cải thiện chất lượng tìm kiếm và duyệt kết quả của người dùng cuối. Từ điển nghệ thuật và kiến ​​trúc (AAT) do Viện nghiên cứu Getty tạo ra và duy trì, danh sách này bao gồm các thuật ngữ liên quan đến mỹ thuật, kiến ​​trúc, nghệ thuật trang trí, tài liệu lưu trữ và văn hóa vật chất. Nó được sử dụng bởi các nhà biên mục và / hoặc các nhà lập chỉ
  10. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 888 mục để mô tả các tác phẩm nghệ thuật, kiến ​​trúc, văn hóa vật chất, tài liệu lưu trữ, đại diện hình ảnh hoặc tài liệu thư mục. Từ vựng loại siêu dữ liệu Dublin Core danh sách thuật ngữ đa miền chung có thể được sử dụng làm giá trị cho phần tử Dublin Core Type để xác định thể loại của tài nguyên. Ví dụ về các thuật ngữ bao gồm ảnh tĩnh, văn bản và ảnh chuyển động. Ứng dụng nhiều mặt của thuật ngữ chủ đề (FAST) được phỏng theo Tiêu đề chủ đề của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, FAST là một từ vựng được kiểm soát đơn giản mà từ đó các thuật ngữ có thể được chỉ định và sử dụng bởi các nhà biên mục và/ hoặc chỉ mục không chuyên nghiệp. Cơ sở dữ liệu từ vựng Getty cung cấp thuật ngữ về các địa điểm quan trọng đối với các lĩnh vực khác nhau chuyên về nghệ thuật, kiến​​ trúc và văn hóa vật chất. Hệ thống tiêu đề chủ đề của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Library Of Congress Subject Headings-LCSH là hệ thống từ vựng đa ngành bao gồm các tiêu đề trong tất cả các chủ đề, từ khoa học đến tôn giáo, lịch sử, khoa học xã hội, giáo dục, văn học và triết học. Nó cũng bao gồm các tiêu đề cho các đối tượng địa lý, dân tộc, sự kiện lịch sử, tên tòa nhà,... LCSH hệ thống từ vựng chủ đề được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Nó là mô hình cho nhiều từ vựng khác bằng tiếng Anh và các ngôn ngữ khác và đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Điểm mạnh nhất của LCSH là nó đại diện cho các tiêu đề chủ đề của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, thư viện quốc gia của Hoa Kỳ, một trong những thư viện quốc gia phong phú nhất trên thế giới. Tệp Cơ quan Tên của Thư viện Quốc hội. Sau khi nhấp vào liên kết ở trên, hãy giới hạn tìm kiếm của bạn bằng cách chọn “Tiêu đề Cơ quan Tên” từ trình đơn thả xuống. Thư viện Nông nghiệp Quốc gia, Từ điển Nông nghiệp. Hơn 110.000 thuật ngữ nông nghiệp do Thư viện Nông nghiệp Quốc gia cung cấp. Từ điển đồng nghĩa dành cho tài liệu đồ họa do Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ biên soạn và duy trì, từ điển đồng nghĩa này chứa hơn
  11. TIÊU CHUẨN SIÊU DỮ LIỆU ÁP DỤNG TỔ CHỨC TRI THỨC Ở THƯ VIỆN SỐ 889 7.000 thuật ngữ chủ đề và thể loại / định dạng được sử dụng để mô tả tài liệu trực quan. 2.3.4. Định dạng dữ liệu (Tiêu chuẩn trao đổi ) Định dạng dữ liệu hoặc các tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu là các đặc điểm kỹ thuật để mã hóa siêu dữ liệu cho quá trình xử lý và trao đổi máy. EAD (Mô tả lưu trữ được mã hóa) Mô tả Lưu trữ được Mã hóa (EAD) là một tiêu chuẩn mã hóa dành cho các công cụ hỗ trợ tìm kiếm có thể đọc được bằng máy như bản kiểm kê, sổ đăng ký, chỉ mục và các tài liệu khác được tạo bởi các kho lưu trữ, thư viện, bảo tàng và kho bản thảo. EAD được sử dụng trong các kho lưu trữ, viện bảo tàng và các bộ sưu tập đặc biệt. MARC (Danh mục có thể đọc được MAchine) MARC là một tiêu chuẩn siêu dữ liệu được sử dụng như một cách để trao đổi dữ liệu thư mục giữa các hệ thống thư viện tích hợp. MARC cũng là một tiêu chuẩn cấu trúc dữ liệu được sử dụng để mô tả các tài liệu thư mục. Chủ yếu cộng đồng thư viện sử dụng định dạng MARC. Thông tin thêm về MARC có thể được tìm thấy trên trang Web Tiêu chuẩn Mã hóa Danh mục. METS (Tiêu chuẩn truyền và mã hóa siêu dữ liệu) Các “Metadata encoding” và “Transmission standard” (METS) là một mã hóa dữ liệu và truyền đặc điểm kỹ thuật thể hiện trong XML. Nó cung cấp phương tiện để truyền tải siêu dữ liệu cần thiết cho việc quản lý các đối tượng kỹ thuật số trong một kho lưu trữ và để trao đổi các đối tượng giữa các kho lưu trữ kỹ thuật số. MODS (Lược đồ mô tả đối tượng siêu dữ liệu) Các siêu dữ liệu đối tượng mô tả Schema (MODS) là một đánh dấu XML cho siêu dữ liệu từ biểu ghi MARC hiện có cũng như mô tả nguồn gốc. Vì MODS được thể hiện bằng XML nên nó phổ biến hơn MARC, đặc biệt là bên ngoài thế giới thư viện. Tiêu chuẩn này được duy trì bởi Văn phòng Phát triển Mạng và Tiêu chuẩn MARC của Thư viện Quốc
  12. PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH TRUNG TÂM TRI THỨC SỐ CHO CÁC THƯ VIỆN VIỆT NAM 890 hội Hoa Kỳ. Nó chủ yếu được sử dụng bởi các thư viện và dành cho các ứng dụng thư viện. 2.3.5. Lược đồ phân loại Các lược đồ phân loại: Dewey, UDC, BSO,... đây là các lược đồ trí tuệ để sắp xếp kiến ​​thức và được sử dụng để chỉ định làm việc cho một lớp cùng với các tác phẩm có nội dung tương tự. Chúng cũng được sử dụng làm cơ sở cho thứ tự vật lý của các đối tượng vật lý (sách, băng, v.v.) trên kệ. Các lược đồ Dewey và UDC là những lược đồ phổ biến nhất của phân loại dành cho mô tả đối tượng dữ liệu kỹ thuật số. KẾT LUẬN Ngày nay, tính toàn vẹn dữ liệu và tiêu chuẩn hóa dữ liệu là những chủ đề quan trọng đối với các hệ thống truy xuất thông tin và cả đối với kỹ thuật số. Thư viện số và kho lưu trữ là cấu trúc quan trọng để truy cập các nguồn thông tin và duy trì các tài sản di sản văn hóa. Là thành phần thiết yếu của các hệ thống này, các trường siêu dữ liệu và dữ liệu được đại diện trong các trường này cung cấp khả năng truy xuất thông tin hiệu quả và hỗ trợ quá trình tư duy phản biện của người dùng. Các quy tắc/chuẩn mực cung cấp tính nhất quán của dữ liệu có một vai trò quan trọng đối với thư viện số và kho lưu trữ trong nhằm nâng cao hiệu quả của việc truy xuất thông tin. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn, Hoàng Sơn, Chủ biên (2019), Tối ưu hóa quản trị tri thức số: Chính phủ Doanh nghiệp-Thư viện, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. Phạm Thế Khang (2014), “Một số nhận thức cơ bản về chuẩn hoá trong hoạt động thư viện”, Tạp chí Thư viện Việt Nam, 5, tr 8-13. 3. Vũ Dương Thuý Ngà (2011), “Vấn đề chuẩn hoá trong hoạt động Thư viện- Thông tin hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Văn hoá, số 1. 4. Awad, E.M. and Ghaziri, H.M. (2004), Knowledge management, Upper Saddle River, NJ, Pearson Education Inc. 5. Karen Coyle (2007), Hiểu siêu dữ liệu và mục đích của nó, Bản tin thư viện và công nghệ thông tin, số tháng 10, tr. 29-38.
  13. TIÊU CHUẨN SIÊU DỮ LIỆU ÁP DỤNG TỔ CHỨC TRI THỨC Ở THƯ VIỆN SỐ 891 6. Mitchell, Nicole (2006), Metadata Basics: A Literature Survey and Subject Analysis, The Southeastern Librarian: Vol. 54: Iss. 3, Article 6. 7. Joudrey, Daniel N., Taylor, Arlene G., &  Miller, David P. (2015). Introduction to cataloging and classification, Eleventh edition, Libraries Unlimited, California. 8. Coyle, Karen. (2010), “Libraries and Standards”, The Journal of Academic Librarianship”, 31 (4), 373-376. 9. El-Sherbini, Magda., & Klim, George (2004), “Metadata and cataloging practices” The Electronic Library 22 (3), 238 - 248. doi: 10.1108/ 02640470410541633. 10. Hillman, Diane I., Marker, R., Brady, Chris (2008), “Metadata Standards and Applications“, The Serials Librarian, 54(1-2)  7-21. doi: https://doi. org/10.1080/03615260801973364.
nguon tai.lieu . vn