Xem mẫu
- pgs,ts nguyễn văn mạnh - ths. nguyễn thị mỹ lộc 43
TIẾP CẬN VĂN HÓA KINH DOANH VIỆT NAM
DƯỚI GÓC ĐỘ NHÂN HỌC
PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh,
ThS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc
Đại học khoa học Huế
TÓM TẮT
Sau khi phân tích các học thuyết về văn hóa kinh doanh trong Nhân học, báo cáo
tập trung trình bày những đặc điểm nổi bật của văn hóa kinh doanh Nhật Bản, đất
nước đã tạo dựng cho mình một thương hiệu văn hóa kinh doanh mà những giá trị
của nó đáng để chúng ta học tập và suy ngẫm. Tiếp đến, báo cáo nêu lên những đặc
điểm văn hóa kinh doanh của Việt Nam trong lịch sử và những thành tựu của nó, như
sự thông minh, cần cù, khéo léo, tinh thần học hỏi, sáng tạo không ngừng, tinh thần
dũng cảm, dám mạo hiểm, ý chí quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, tinh thần
quyết đoán trong công việc... cũng như những hạn chế trong văn hóa kinh doanh
của nước ta, như làm ăn nhỏ lẻ, thiếu chuyên nghiệp, thiếu học hỏi/ tiếp nhận kinh
nghiệm thế giới một cách bài bản, tầm nhìn hạn chế, xem nhẹ chữ tín, thiếu tính liên
kết, nặng về lợi ích cá nhân…
V
ăn hóa kinh doanh là việc sử văn hóa kinh doanh mà những giá trị của
dụng các nhân tố văn hóa vào nó đáng để chúng ta học tập và suy ngẫm,
hoạt động kinh doanh, là cái mà và cuối cùng là văn hóa kinh doanh của Việt
các chủ thể kinh doanh áp dụng hoặc tạo ra Nam trong lịch sử.
trong quá trình hình thành nên những giá trị
1. Một số lý thuyết về trao đổi và kinh
có tính ổn định và đặc thù trong hoạt động
doanh trong Nhân học.
kinh doanh của mình. Đây là một phạm trù
rộng lớn, có nhiều mối quan hệ tác động qua Với Nhân học Âu – Mỹ, các học thuyết
lại hết sức đa dạng, phức tạp, và việc tìm hiểu tiếp cận đến việc phân phối, trao đổi và kinh
nó được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. doanh trong lịch sử đã hình thành từ rất sớm.
Đạo đức học tiếp cận văn hóa kinh doanh ở Chúng ta có thể xem xét một số học thuyết
những chuẩn mực giá trị làm người; Kinh tế sau:
học tiếp cận nó dưới dạng cách ứng xử để có - Thuyết Kinh tế Tân cổ điển (Neoclassical
được lợi nhuận cao trong kinh doanh; Nhân economics) của Adam Smith: Thuyết này
học tiếp cận nó theo một tiến trình phát triển ra đời vào những năm đầu sau khi nền công
trong sự đối sánh văn hóa kinh doanh giữa nghiệp tư bản phát sinh ở Tây Âu. Các nhà
dân tộc này với dân tộc khác. Với nhận thức kinh tế Tân cổ điển cho rằng, một trong
đó, chúng tôi bài viết này qua tập trung tiếp những nhân tố cơ bản tạo nên sự khác biệt
cận văn hóa kinh doanh Việt Nam dưới góc giữa xã hội phong kiến và xã hội TBCN là
độ Nhân học: Từ những lý thuyết về trao đổi, vấn đề trao đổi và kinh doanh. Theo họ trong
kinh doanh đến những bài học kinh nghiệm xã hội phong kiến, việc kinh doanh và phân
về văn hóa kinh doanh của Nhật Bản - đất phối hàng hóa chỉ tập trung vào nhóm có địa
nước đã tạo dựng cho mình một thương hiệu vị xã hội cao vì họ có quyền được hưởng
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
44 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
nhiều hàng hóa, còn người dân ở địa vị thấp Thuyết này ra đời vào thập niên 60-70 của
việc tiếp nhận phân phối hàng hóa ít hơn. Rõ thế kỷ XX; Karl Polanyi và những người theo
ràng, văn hóa kinh doanh trong xã hội phong luận thuyết này không đồng tình với những
kiến không dựa trên sự trao đổi phân phối nhà nhân học theo Chủ nghĩa hình thức –
sòng phẳng, mà dựa trên quyền lực địa vị xã những người đã lấy cấu trúc phân phối trao
hội. Trong khi đó, ở xã hội tư bản, hoạt động đổi và kinh doanh phương Tây áp đặt cho
kinh doanh và trao đổi sản phẩm được thương các xã hội bên ngoài phương Tây. Các nhà
lượng giữa người mua và kẻ bán trên thương nhân học theo thuyết Bản thể luận cho rằng
trường, văn hóa kinh doanh ở đây là sự tác quan hệ trao đổi trên thị trường TBCN chỉ là
động giữa người bán – người mua một cách một trong nhiều kiểu trao đổi hàng hóa khác
tự do, nhưng đảm bảo “các nhà cung cấp đưa nhau tồn tại trong lịch sử xã hội loài người.
ra các mặt hàng được ưa chuộng với giá đủ Theo họ ở các xã hội tư bản phương Tây tồn
cao để có lời nhưng lại vừa túi tiền người tại quan hệ phân phối của cải theo cách phù
mua”1. Ở đây văn hóa kinh doanh/ quan hệ hợp với những giá trị cơ bản trong xã hội đó;
kinh doanh có một tầm quan trọng mang tính còn ở những xã hội phi tư bản ngoài phương
quyết định đến sự kích cầu sản xuất trong xã Tây, lại có những quan hệ trao đổi hàng hóa
hội tư bản, điều mà trước đó trong thời đại theo cách phù hợp với những giá trị cơ bản
phong kiến, không thể có được. của xã hội đó. Có nghĩa là, theo thuyết này,
hình thức kinh doanh trao đổi hàng hóa bắt
- Thuyết Phân phối và trao đổi theo Chủ
rễ, sản sinh trong xã hội mà chúng xuất hiện.
nghĩa hình thức (Formalism): Thuyết này
Nó là sản phẩm của một môi trường văn hóa
hình thành sau chiến tranh thế giới II nhằm
nhất định, không nên đồng nhất phương thức
giải thích quan hệ trao đổi và kinh doanh
kinh doanh trao đổi hàng hóa của phương Tây
trong các xã hội ngoài phương Tây, ở các
với các nước ngoài phương Tây như những
dân tộc thuộc địa. Theo thuyết này các xã
nhà Nhân học theo Chủ nghĩa hình thức đề
hội ngoài phương Tây không có “thị trường
xướng. Karl Polanyi đã trình bày ba phương
tự do” như ở phương Tây, việc trao đổi ở
thức trao đổi hàng hóa trong lịch sử nhân loại:
các xã hội ngoài phương Tây này thường theo
đó là Tương hỗ, Phân phối lại và Thị trường.
mô thức quan hệ thân tộc, láng giềng, bạn bè
thân thiết2, nó bị gò bó bởi nhiều giới hạn của Phương thức quan hệ trao đổi Tương hỗ
xóm làng. Rõ ràng thuyết theo chủ nghĩa hình xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người.
thức đã lấy mô hình của phương Tây về phân Trong quan hệ này có ba hình thức: 1. Tương
phối, trao đổi và kinh doanh áp dụng cho các hỗ gián tiếp/ tương hỗ không cân xứng - hình
xã hội ngoài phương Tây. Theo thuyết Chủ thức trao đổi mà hai bên có liên quan không
nghĩa hình thức, ở các xã hội ngoài phương cần một sự trao đổi tương xứng (đây thường
Tây, “nền kinh doanh tự do đã bị bóp nghẹt là sự trao đổi giữa những người trong dòng
và ràng buộc bởi các định chế xã hội mang tộc, gia đình, anh em và là một hình thức trao
tính truyền thống, những định chế này đã rút đổi chủ yếu trong xã hội sống bằng săn bắn,
tỉa lợi nhuận cá nhân để làm lợi cho tập thể”3. đánh cá, hái lượm); 2. Trao đổi tương hỗ cân
xứng - loại trao đổi mà trong đó những người
- Thuyết Bản thể luận (Substantialism): tham gia được đáp ứng những vật phẩm cùng
1
Emeily A. Schultz , Robert H. Lavenda 2001, tr.421 giá trị; 3. Tương hỗ tiêu cực là quan hệ trao
2
Ở đây, việc trao đổi mua bán trong hôn nhân thông đổi hàng hóa mà theo đó một bên trao đổi
qua đồ sính lễ cũng được coi là một trường hợp đặc
biệt của quan hệ phân phối trao đổi diễn ra theo mô
không nhận được những giá trị tương xứng
thức bị gò bó bởi nhiều giới hạn. (hình thức trao đổi này chịu ảnh hưởng của
3
Emeily A. Schultz , Robert H. Lavenda, 2001, tr.423 những định chế xã hội, được coi là sự tước
- pgs,ts nguyễn văn mạnh - ths. nguyễn thị mỹ lộc 45
đoạt công khai sản phẩm của người khác dựa trường, để cạnh tranh và thu hút người mua.
trên quyền lực xã hội). Bên cạnh đó, văn hóa kinh doanh còn bao
Quan hệ trao đổi thứ hai là Phân phối lại: gồm những đặc tính văn hóa dân tộc để thúc
Hình thức trao đổi này tồn tại trong những đẩy một cách có hiệu quả quá trình giao lưu
thiết chế xã hội mang tính cộng đồng; những hàng hóa. Người Nhật đã tạo nên một kiểu
người giữ địa vị chủ chốt trong cộng đồng văn hóa kinh doanh như vậy - kiểu văn hóa
nhận những sản phẩm kinh tế của các thành kinh doanh bắt nguồn từ văn hóa dân tộc, đặc
viên trong xã hội và “họ có trách nhiệm phân tính, tâm lý dân tộc Nhật.
phối lại những gì họ nhận được để cung cấp Trước hết, văn hóa kinh doanh của người
cho mọi thành viên trong nhóm”4. Nhật bắt nguồn từ đặc tính “để ngỏ” trong sự
kết hợp hài hòa, thiện cảm, giữa truyền thống
Quan hệ trao đổi thứ ba là Trao đổi thị
với cái lạ, cái mới5. Điều này dẫn đến một yêu
trường, ra đời trong xã hội TBCN, “chủ nghĩa
cầu nội tại thúc trong xã hội Nhật Bản là phải
tư bản bao hàm sự trao đổi hàng hóa (tức
hòa nhập với thế giới bên ngoài để học hỏi
thương mại) được tính toán trên cơ sở một
những cái hay cái đẹp. Nhưng không giống
phương tiện trao đổi đa năng và là tiêu chuẩn
như người Việt Nam, nói như Phan Ngọc,
đo lường giá trị (là tiền) và được tiến hành
người Nhật đã từ bỏ con đường cũ, chuyển
theo cơ chế giá – cung cầu (tức thị trường)”5.
toàn bộ tài năng và nghị lực sang con đường
Nhưng, theo thuyết Bản thể luận, quan hệ
kinh tế doanh nghiệp theo kiểu bricolagie
kinh doanh trao đổi hàng hóa “là một hoạt
(cấu trúc lại) cái bên ngoài (phương Tây),
động bén rễ trong các định chế văn hóa khác
nhưng cách cấu trúc lại của họ là một sự thâm
nhau”5. Vì vậy, quan hệ kinh doanh trao đổi
nhập vào khoa học, kỹ thuật và dùng “mực,
hàng hóa cũng không phải là mẫu số chung
nước mắt và máu” (trí tuệ, đau đớn và chết
cho tất cả các quốc gia/ dân tộc trên thế giới,
chóc), còn ta về cơ bản cấu trúc lại vẫn dựa
vì rằng các định chế văn hóa ở dân tộc này trên chất liệu dân dã và biện pháp thủ công6.
trong sự đối sánh với dân tộc khác lại luôn tồn Chính văn hóa ham học hỏi và “để ngỏ” đó
tại những điểm tương đồng và dị biệt. đã giúp cho người Nhật kiềm chế được cái tôi
2. Văn hóa kinh doanh Nhật Bản. của mình, để học hỏi, chiếm lĩnh được những
thành tựu khoa học, kỹ thuật của nhân loại,
Nhật Bản là một quốc gia thuộc khu vực
tạo nên được những sản phẩm công nghệ cao,
Đông Á, chịu nhiều ảnh hưởng của văn minh
sánh vai với các nước Âu - Mỹ và đáp ứng
Trung Hoa, nhưng đến thời cận đại lại tiếp
những nhu cầu của người tiêu dùng/của nhu
nhận/ học hỏi nhanh chóng văn minh phương
cầu thị trường.
Tây, đặc biệt là tiếp nhận các giá trị đặc trưng
của kinh tế hàng hóa. Tuy nhiên, cái đáng nói Một trong những yếu tố cơ sở của văn
ở đây là Nhật Bản đã tiếp nhận kinh tế thị hóa kinh doanh Nhật Bản cần phải nói đến ở
trường phương Tây trên nền các giá trị văn đây là nền tảng tính cách dân tộc Nhật. Đó là
hóa truyền thống, để làm hình thành văn hóa tính cách lao động quên mình, điềm tĩnh đến
kinh doanh theo kiểu Nhật Bản. Văn hóa nhẫn nại, hứng thú đến say mê, nghiêm khắc
kinh doanh theo kiểu Nhật Bản suy cho cùng với chính mình, đến tính kỷ luật cao trong
bắt nguồn từ quy luật của kinh tế thị trường: công việc. Những đặc tính đó tập hợp trong
Hàng hóa – Giá – Cung cầu, có nghĩa là, cái
quyết định đầu tiên là phải cung cấp được 5
Văn hóa Nhật Bản là một hệ thống văn hóa vững
chãi, nhưng để ngõ, khác với kiểu Ấn Độ, Trung Quốc,
các sản phẩm hàng hóa có giá trị cao cho thị
vững chãi theo kiểu khép kín, chịu ảnh hưởng nước
ngoài một cách khiên cưỡng.
4
Emeily A. Schultz , Robert H. Lavenda, 2001, tr.425 6
Dẫn theo Trần Ngọc Vương, 2005, tr.5
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
46 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
các nguyên tắc sống của người Nhật là: hãy thân, tinh thần tự trọng và đề cao Phật giáo để
chấp nhận hoàn cảnh dù hoàn cảnh đó nghiệt giáo dục tinh thần nhẫn nại, khắc kỷ; tóm lại
ngã thế nào chăng nữa; hãy tìm cơ hội để học cái gì có lợi thì họ không bỏ11.
hỏi; hãy kiềm chế mình; hãy coi chính mình là Một nhân tố tạo nên sự thành công trong
nguyên nhân của sự nghèo đói và bất hạnh7. kinh doanh của người Nhật phải nói đến ở
Ở Nhật phổ biến câu thành ngữ: “Samurai đây nữa là tâm lý liên kết hiệp hội cộng đồng.
lạnh lùng như thanh kiếm của chàng, mặc dù Ở Nhật Bản tồn tại phổ biến các tổ chức gọi là
chàng không quên ngọn lửa đã rèn nên thanh kyodotai (liên hiệp cộng đồng). Các tổ chức
kiếm đó”8. Quả vậy, tính điềm tĩnh, nhẫn nại này phần lớn ra đời do nhu cầu liên kết/hợp
và nhiệt huyết say mê sáng tạo, ham học hỏi tác tập thể các công việc, nhất là công việc
là những phẩm chất trong con người Nhật, kinh doanh, một liên hiệp bao gồm cả một
giúp họ gặt hái được những thành công trong địa phương nhất định, có thể liên kết cả đơn
sáng tạo ra các sản phẩm hàng hóa công nghệ vị làng và các xí nghiệp. Trong tổ chức đó
cao “có độ chính xác và hoàn hảo đáng kinh có người đứng đầu bảo trợ các thành viên
ngạc”9. khác theo quy chế người đứng đầu hiệp hội
Một yếu tố khác tạo nên sự thành công Oyabun, như vai trò người cha, người chủ gia
trong kinh doanh của người Nhật bắt nguồn đình và các nhóm là Kobun, như sự liên kết
từ văn hóa trọng Tín để tạo nên uy tín và niềm của từng thành viên, từng cá nhân của hiệp
tin trong cuộc sống nói chung và trên thương hội. Quan hệ Oyabun – Kobun ở Nhật Bản
trường nói riêng. Tín để tự mình nghiêm khắc gần giống với quan hệ các phường hội để liên
trong sáng tạo ra sản phẩm hàng hóa mang tên kết hỗ trợ nhau trong sản xuất hàng hóa. Theo
Made in Japan, tín để cho người khác/ khách đó từ ông chủ/ người cha - Oyabun đến nhân
hàng tin mình, tín để cho quan hệ buôn bán viên/ người con - Kobun đều cần cù, nghiêm
được bền vững/ lâu dài. Văn hóa trọng tín ở túc trong công việc. Những công nhân Nhật
người Nhật bắt nguồn từ sự giáo dục nghiêm vì vậy có truyền thống gắn bó suốt đời với
ngặt trong gia đình và ngoài xã hội. Bao giờ công ty của mình, quen đặt cái tôi của mình
người Nhật cũng giáo dục con em mình hướng dưới lợi ích nhóm12. Kiểu hình thức quan hệ
đến những giá trị cao cả của người có uy tín, kinh doanh theo kiểu gia tộc này đã mang
và cho đến nay, “tôn kính người có uy tín vẫn đến những thành công đáng kể cho kinh tế
còn được duy trì bằng các cách khác nhau và Nhật Bản13. Với sự lựa chọn khôn ngoan đó,
được coi là một chuẩn tắc xã hội”10. Thêm người Nhật đã làm cho văn hóa kinh doanh
vào đó, văn hóa trọng tín của người Nhật còn hòa nhập với bản sắc văn hóa dân tộc, từ đó
được bồi đắp bằng đạo Khổng. Nói như GS. sáng tạo ra hệ thống văn hóa kinh doanh độc
Lương Ninh, người Nhật rất thực tế. Họ đã đáo kiểu Nhật Bản.
từng có Nho học, theo Nho giáo để giáo dục ý Như vậy, tính “để ngỏ” trong tiếp nhận
thức bổn phận và sự ứng xử trọng tín hợp lý, văn hóa, cách lao động quên mình, điềm tĩnh
đồng thời duy trì yếu tố Thần đạo để giáo dục đến nhẫn nại, hứng thú đến say mê, nghiêm
ý thức phục tùng, võ sĩ đạo để rèn luyện bản khắc với chính mình, đến tính kỷ luật cao
trong công việc, trọng tín trong kinh doanh,
7
V. A Pronnikov và I.D. Ladanov,trong: Phân tâm học
và tính cách dân tộc, tr. 332.
8
V. A Pronnikov và I.D. Ladanov, trong: Phân tâm học 11
Lương Ninh, 2009, tr. 45
và tính cách dân tộc, tr. 331 12
V. A Pronnikov và I.D. Ladanov, trong: Phân tâm
9
V. A Pronnikov và I.D. Ladanov, trong: Phân tâm học học và tính cách dân tộc, tr.326, 327
và tính cách dân tộc, tr.335 13
Nhật Bản đã biết gạt bỏ chủ nghĩa cá nhân và chủ
10
V. A Pronnikov và I.D. Ladanov, trong: Phân tâm nghĩa tự do vốn là cơ sở kinh doanh Âu - Mỹ để giữ lại
học và tính cách dân tộc, tr. 328 văn hóa kinh doanh kiểu gia tộc.
- pgs,ts nguyễn văn mạnh - ths. nguyễn thị mỹ lộc 47
thói quen liên kết thành các hiệp hội… là hàng hóa giản đơn, hoặc vật đổi vật, hoặc vật
những đặc điểm chủ yếu của văn hóa kinh ngang giá, hoặc thông qua tiền tệ, với hình
doanh Nhật Bản. Những đặc điểm văn hóa thức chợ làng/ chợ quê, chợ phiên… trong
đó đã góp phần tạo nên sự thành công nổi bật phạm vi làng, liên làng, vùng miền là chính.
trong nền kinh tế của đất nước này, sự thành Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc
công đáng để cả thế giới suy ngẫm. hình thành văn hóa kinh doanh ở nước ta.
3. Văn hóa kinh doanh Việt Nam Phải thừa nhận rằng trong gần 30 năm
Như vậy văn hóa kinh doanh không phải (từ năm 1986), sau ngày đất nước ta chuyển
là mẫu số chung áp đặt cho mọi quốc gia. đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, một
Mỗi dân tộc trên cơ sở truyền thống văn hóa đội ngũ đông đảo, gần 400.000 doanh nghiệp
của mình, cùng kết hợp với những nhịp điệu Việt Nam đã hình thành và ít nhiều đạt được
chung của kinh tế thị trường để tạo dựng cho những thành tựu đáng kể trong hoạt động
mình một sắc thái văn hóa kinh doanh riêng14. kinh doanh, góp phần đưa nền kinh tế đất
Văn hóa kinh doanh Việt Nam vì vậy phải bắt nước hội nhập với thế giới. Hoạt động kinh
nguồn từ văn hóa dân tộc kết hợp với những tế của đội ngũ doanh nghiệp ở nước ta đã làm
nhu cầu chung của kinh tế thị trường. Trước hình thành dần đặc tính văn hóa kinh doanh
hết, văn hóa kinh doanh phải được hiểu là Việt Nam. Văn hóa kinh doanh Việt Nam
tổng hòa các giá trị đạo đức, tính cách, lối được thể hiện trước hết ở nền tảng tính cách
sống của một dân tộc, kết hợp với triết lý kinh dân tộc, được đúc kết trong tính cách của đội
doanh. “Văn hóa kinh doanh lấy việc phát ngũ doanh nghiệp. Đó là sự thông minh, cần
triển toàn diện con người làm mục tiêu cuối cù, khéo léo; là tinh thần học hỏi, sáng tạo
cùng. Cốt lõi của văn hóa kinh doanh là tinh không ngừng; là lòng dũng cảm, dám mạo
thần doanh nghiệp và quan điểm giá trị của hiểm, chấp nhận rủi ro; là tính quyết đoán
doanh nghiệp”15. trong công việc,… Nhờ đó, không ít doanh
nghiệp Việt Nam đã trưởng thành, trụ vững
Phải nói rằng, kinh doanh và văn hóa
và phát triển mạnh mẽ.
kinh doanh ở nước ta hình thành khá muộn.
Mãi đến những năm 90 của thế kỷ XX nước Tuy vậy, do xuất phát điểm là một nền
ta mới chuyển đổi sang cơ chế thị trường và kinh tế tiểu nông, với lối làm ăn nhỏ lẻ, manh
cũng từ dó kinh doanh, văn hóa kinh doanh mún, tiểu ngạch... nên nó ảnh hưởng không
mới dần được hình thành. Điều đáng quan nhỏ đến tâm lý, tính cách của đội ngũ doanh
tâm là văn hóa kinh doanh ở nước ta được nghiệp và tồn tại nhiều mặt trái trong văn hóa
hình thành trên nền nông dân – nông nghiệp – kinh doanh Việt Nam. Những mặt trái đó có
nông thôn, hay như GS Trần Quốc Vượng đã thể được đề cập đến ở đây như:
từng nói “Dân dã – dân cơ – dân làng (3D)”16.
- Làm ăn nhỏ lẻ và thiếu tính chuyên
Vì vậy, trong các nghề lập thân nghề buôn
nghiệp
bán không được ông cha ta coi trọng - họ
xếp thứ tự: “sĩ, nông, công, thương”; buôn Do người Việt Nam không quen hạch
bán ở nước ta trước đây cũng chỉ là trao đổi toán và lường tính xa; bình quân/ chia đều
đã trở thành một phương thức hữu hiệu duy
14
Ví dụ, suy tôn tự do, chú trọng tính hiệu quả, khuyến
khích năng lực cá nhân là đặc trưng của văn hóa kinh
trì mối quan hệ hòa đồng trong làng xã. Vì
doanh nước Mỹ. vậy, các doanh nghiệp Việt Nam vốn kém
15
Đinh Công Tuấn, TC. Cộng Sản, 10/2012. thế cạnh tranh trên thương trường quốc tế do
16
Trần Quốc Vượng, 2000, trong: Tâm lý người Việt
cung cách làm ăn manh mún, chạy theo lợi
Nam, nhìn từ nhiều góc độ, tr. 114.
- Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
48 định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
nhuận trước mắt, nên liên kết doanh nghiệp ra nước ngoài để tiếp nhận nền khoa học kỹ
chỉ xuất hiện ở giai đoạn đầu, sau đó, các thuật tiên tiến của thế giới với lời hiệu triệu
doanh nghiệp thường tìm cách xé lẻ, giành “Đuổi kịp và vượt phương Tây”; họ học hàng
riêng hợp đồng cho mình, dẫn đến tình trạng hải Anh, buôn bán của Hà Lan, đường sắt của
giành giật quyền lợi cá nhân. Đức, giáo dục phổ thông của Pháp và giáo
dục đại học của Mỹ.
Theo báo cáo mới nhất của UNDP về 200
doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam, chúng ta - Tầm nhìn hạn chế
chưa có doanh nghiệp lớn tầm cỡ thế giới. Một hạn chế lớn khác đã bộc lộ rõ nét
Những doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam trong văn hóa kinh doanh của các doanh
cũng chỉ mới tương đương với những doanh nghiệp nước ta khi hội nhập là giới hạn về
nghiệp vừa và nhỏ của các nước phát triển. tầm nhìn cũng như khát vọng của các doanh
Cách làm ăn nhỏ lẻ, chạy theo lợi ích trước nghiệp, doanh nhân Việt Nam. Xuất thân từ
mắt và lợi ích của từng doanh nghiệp/ cá nền kinh tế tiểu nông, con người Việt Nam
nhân,… đang tồn tại và hoàn toàn không phù thường có tầm nhìn hạn chế, hay thay đổi và
hợp với môi trường kinh doanh văn minh, muốn đi đường tắt, thay vì kiên nhẫn chờ đợi
hiện đại. kết quả lâu dài. Vì không có tầm nhìn dài hạn
nên các doanh nhân Việt Nam thường không
Trong văn hóa kinh doanh Việt Nam,
xây dựng mục tiêu lâu dài và có kế hoạch đầu
nhiều thói quen, cung cách làm ăn cũ, lạc hậu,
tư thích hợp. Đa số doanh nhân khi lập doanh
tùy tiện vẫn đang tồn tại, trong khi phong
nghiệp ít khi nghĩ xa hơn tới việc xây dựng
cách làm việc chuyên nghiệp, sáng tạo, sẵn
các thương hiệu toàn cầu, tham gia vào giải
sàng hợp tác chưa định hình rõ nét. Sự gian
quyết các bài toán tiêu dùng cho toàn thế giới.
dối trong kinh doanh vẫn còn tồn tại, không
ít doanh nhân đã thẳng thắn bộc lộ; “Kinh Cũng vì thiếu tầm nhìn nên doanh nghiệp
doanh/ buôn bán không thể thật thà được”, không đầu tư vào những vấn đề cốt lõi, lâu
vì thế họ tìm mọi cách trốn thuế, phạm pháp, dài, mà theo xu hướng “ăn xổi”, thậm chí đầu
lách luật để làm ăn. tư cả vào những lĩnh vực không thuộc chuyên
môn của mình. Trong khi các doanh nghiệp
- Thiếu sự học hỏi/ tiếp nhận kinh nghiệm
nước ngoài nỗ lực tìm kiếm cơ hội đầu tư vì
thế giới một cách bài bản
lợi ích kinh doanh dài hạn tại Việt Nam thì
Người Việt Nam có truyền thống ham nhiều doanh nghiệp lớn của nước ta lại đang
học hỏi, tâm lý cởi mở, dễ dàng tiếp nhận tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản đầu tư mang
cái bên ngoài, tuy nhiên cách thức tiếp nhận tính đầu cơ như kinh doanh bất động sản,
cái khác của người Việt nặng chất dân dã, chứng khoán… mà quên đi các lĩnh vực kinh
thủ công, nửa vời, thiếu tính quyết liệt để doanh cốt lõi.
“bàn mọi điều cho ra nhẽ”, khi gặp cấu trúc
- Xem nhẹ chữ tín
khó thường buông xuôi. Hơn nữa, cách tiếp
nhận của người Việt Nam thiếu thâm nhập Buôn bán phải giữ chữ tín, đó chính là
vào khoa học kỹ thuật, mà thường tiếp nhận giá trị tốt đẹp trong văn hóa doanh nghiệp.
một cách chắp vá, không bài bản, thiếu tính Nhưng tập quán của người Việt Nam là du
hệ thống. Điều đó lý giải tại sao nền kinh tế di, “chín bỏ làm mười” của nền kinh tế tiểu
nước ta thiếu các mặt hàng sản phẩm có giá nông, chữ tín không được đề cao. Theo nhiều
trị công nghệ cao. Ở điểm này, bài học nước nhà kinh doanh nước ngoài, các doanh nhân
Nhật làm chúng ta phải suy nghĩ: Người Nhật Việt Nam không coi trọng chữ tín, hay viện
sau cải cách Minh Trị 1868, đã gửi con em dẫn các lý do khách quan để khước từ việc
- pgs,ts nguyễn văn mạnh - ths. nguyễn thị mỹ lộc 49
thực hiện cam kết, gây nhiều phiền toái trong Những cái lợi mà việc thân quen đem lại là
quan hệ với các đối tác nước ngoài. Đây là một cám dỗ lớn hơn rất nhiều so với sự cố
hiểm họa cho các cơ sở kinh tế Việt Nam về gắng phải đầu tư để đổi mới công nghệ, nâng
lâu dài, khi các hiệp ước kinh tế mở cửa thị cao năng lực cạnh tranh.
trường Việt Nam cho các cơ sở kinh tế của
Tóm lại, đẻ xác lập một hình thức văn
châu Âu, Mỹ như ngân hàng, bảo hiểm, tín
hoá kinh doanh Việt Nam, trước hết phải dựa
dụng, hàng không… ồ ạt vào kinh doanh tại
trên những giá trị văn hóa truyền thống của
Việt Nam. Ở điểm này bài học chữ tín trong
dân tộc, đó là sự thông minh, cần cù, khéo léo,
văn hóa kinh doanh Nhật Bản đáng để chúng
ham học hỏi, tinh thần sáng tạo không ngừng,
ta suy ngẫm và học hỏi.
thái độ dũng cảm, dám mạo hiểm, ý chí quyết
- Thiếu tính liên kết, nặng về lợi ích cá tâm vượt qua những khó khăn, thách thức,
nhân tính quyết đoán trong công việc... Những đức
Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài, tính đó phải được hội tụ trong phẩm chất của
như ở Nhật, từ rất sớm đã thành lập các hiệp các doanh nhân Việt Nam. Song song với
hội liên kết các gia đình – làng – xí nghiệp đó, họ phải từng bước loại bỏ những hạn chế
để hỗ trợ nhau trong kỹ thuật sản xuất và tìm trong văn hóa kinh doanh của mình, như làm
kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm, và các ăn nhỏ lẻ, thiếu chuyên nghiệp, thiếu học hỏi/
doanh nghiệp kết hợp với nhau để tạo nên tiếp nhận kinh nghiệm thế giới một cách bài
sức mạnh và tiềm lực lớn hơn, thì ở Việt Nam bản, tầm nhìn hạn chế, xem nhẹ chữ tín, thiếu
các doanh nghiệp vốn liếng chưa nhiều, năng tính liên kết, nặng về lợi ích cá nhân. Bên
lực cạnh tranh chưa cao nhưng lại ít liên kết cạnh đó, phải biết tiếp thu, chọn lọc những
với nhau, ít liên kết với các cơ sở sản xuất. giá trị tích cực từ những nền văn hóa kinh
Thực tế, tính cộng đồng của doanh nhân Việt doanh của các nước trên thế giới để áp dụng
Nam còn quá yếu, quá rời rạc, thiếu sự liên cho phù hợp, để biến chúng thành lợi thế cho
kết giữa các cụm, vùng nguyên liệu, liên kết mình. Hơn lúc nào hết, văn hoá kinh doanh
giữa doanh nghiệp với các cơ sở/ địa phương Việt Nam cần được cộng đồng doanh nghiệp
sản xuất …Hơn nữa ở nước ta, đặc tính coi nước ta coi trọng để bước vào hành trình mới
trọng quan hệ cá nhân, xu hướng cá nhân hóa đầy thách thức. Đó là động lực thành công
các mối quan hệ kinh doanh vẫn tồn tại khá và cũng là hành trang quý báu khi bước vào
phổ biến. Nhiều doanh nghiệp tập trung thời những “sân chơi” kinh tế lớn của thế giới. Xây
gian và tiền bạc cho các mối quan hệ cá nhân dựng văn hoá kinh doanh Việt Nam chính là
giữa người kinh doanh với người có thẩm nội dung, biện pháp quan trọng hàng đầu để
quyền quyết định của bên đối tác mua hoặc củng cố, phát triển nội lực, tạo tư thế mới làm
bán. Nhiều doanh nghiệp thành công nhờ vào tiền đề và điểm tựa cho việc hội nhập của nền
mối quan hệ rộng, hơn là nhờ vào năng lực. kinh tế Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Emeily A. Schultz , Robert H. Lavenda (2001), Nhân học, một quan điểm về tình trạng nhân sinh, NXB.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Lương Ninh (2009), Một con đường sử học, NXB. Đại học Sư phạm, Hà Nội.
3. Đinh Công Tuấn (2012), Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ hội nhập, Tạp chí Cộng Sản 10.
4. Đỗ Lai Thúy (2007), Phân tâm học và tính cách dân tộc, NXB. Tri thức, Hà Nội.
5. Trung tâm Nghiên cứu Tâm lý Dân tộc (2000), Tâm lý người Việt Nam nhìn từ nhiều góc độ, NXB. Thành
phố Hồ Chí Minh.
6. Trần Ngọc Vương (2005), Một nội lực văn hóa cho sự phát triển, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật.
nguon tai.lieu . vn