Xem mẫu

  1. Hội thảo khoa học Quốc gia Quản lý tài nguyên, môi trường và phát triển bền vững vùng Tây Bắc, Việt Nam TIẾP CẬN LÝ THUYẾT KHUNG SINH KẾ BỀN VỮNG DFID TRONG NGHIÊN CỨU SINH KẾ CỦA NGƯỜI DÂN XÃ PHIÊNG KHOÀI, HUYỆN YÊN CHÂU, TỈNH SƠN LA Tống Thanh Bình1, Lê Thị Thu Hòa1, Điêu Thị Vân Anh1, Chu Thị Mai Hương1, Asone Vongkhanpeun2 Trường Đại học Tây Bắc 1 Asone Vongkhanpeun, Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ tỉnh Hủa Phăn, Lào Email: binhtt@utb.edu.vn Tóm tắt: Xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La là xã vùng cao biên giới, giáp huyện Xiềng Khọ, tỉnh Hủa Phăn, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Xã có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên khá thuận lợi để phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp kết hợp loại hình du lịch trải nghiệm, nghỉ dưỡng. Tuy nhiên, hiện tại Phiêng Khoài vẫn là một xã nghèo, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Bằng phương pháp phân tích, phương pháp phỏng vấn, phương pháp điền dã, nhóm nghiên cứu đã vận dụng lý thuyết của khung sinh kế bền vững -DFID vào trường hợp xã Phiêng Khoài, từ đó đưa ra một số kiến nghị để cải thiện đời sống người dân địa phương. Từ khóa: Sinh kế bền vững, DFID, Phiêng Khoài, Yên Châu. 1. GIỚI THIỆU VỀ LÝ THUYẾT VỀ SINH KẾ VÀ SINH KẾ BỀN VỮNG Năm 1987, khái niệm sinh kế được giới thiệu lần đầu tại Ủy ban Thế giới về Môi trường và Phát triển. Trong nhiều năm trở lại đây, vấn đề sinh kế và phát triển sinh kế bền vững được rất nhiều học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Một số địa phương đã vận dụng lý thuyết này nhằm xóa đói giảm nghèo, cải thiện và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân. Sinh kế bền vững trở thành vấn đề toàn cầu bởi trong thế kỷ XXI, dân số thế giới sẽ tăng gấp 2 đến 3 lần hiện tại. Việc nghiên cứu sinh kế bền vững không chỉ để đối phó và phục hồi sau những căng thẳng, cú sốc mà còn đảm bảo cho thế hệ tương lai duy trì hoặc nâng cao mà không phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên và sự hỗ trợ từ bên ngoài [1]. Khái niệm sinh kế được sử dụng trong những nghiên cứu về hoạt động kinh tế của các tộc người chịu nhiều thiệt thòi, chủ yếu ở các quốc gia đang phát triển [2].Về sau, nhiều tổ chức và các cơ quan như Viện Quốc tế về Môi trường và Phát triển (IIED), Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Tổ chức Oxfam, Tổ chức Care, Viện Quốc tế về Phát triển bền vững (IISD), Bộ Phát triển Quốc tế Anh (DFID), Viện Nghiên cứu Phát triển (IDS) và một số cơ quan khác đã áp dụng các khái niệm để đáp ứng các mục tiêu, trọng tâm và những ưu tiên của mình. Dựa trên khung lý thuyết này, rất nhiều các nghiên cứu đã được triển khai và mở rộng các khung lý thuyết cho sinh kế nông thôn. Ở Việt Nam, lý thuyết về sinh kế đã được vận dụng nghiên cứu đối với cộng đồng dân cư ven đô, dân di cư tự do, lao động di cư nông thôn, dân tái định cư, dân sống khu vực rừng phòng hộ, khu bảo tồn, hay các hộ gia đình bị thu hồi đất cho dự án khu công nghiệp,... Địa bàn nghiên cứu tập trung ở các vùng đồng bằng Bắc Bộ, một số tỉnh khu vực Đông Bắc, Tây Nguyên. Các hộ dân được nghiên cứu khá đa dạng, bao gồm dân tộc Kinh ở các vùng đồng bằng, ven đô, đô thị và các dân tộc thiểu số ở Hương Hóa, Quảng Trị, dân tộc Mông ở Lâm Đồng,... Ở Tây Bắc, thời gian gần đây đã có nhiều chương trình, dự án hỗ trợ cộng đồng dân cư chuyển đổi và nâng cao sinh kế theo hướng bền vững. Tuy nhiên, nghiên cứu về thực trạng và sinh kế của người dân ở Tây Bắc nói chung, Sơn La nói riêng chưa nhiều. Việc vận dụng lý thuyết này đối với vùng cao biên giới xã Phiêng Khoài huyện Yên Châu là cơ sở quan trọng cho việc đề xuất các giải pháp hữu hiệu và có tính khả thi nhằm đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư, góp phần ổn định an ninh biên giới. Sinh kế bền vững (Sustainable livelihood - SL) là một cách nghĩ về các mục tiêu, phạm vi và các ưu tiên để phát triển, để tăng cường tiến bộ trong xóa đói giảm nghèo [3]. Sinh kế bao gồm năng lực, tài sản và các hoạt động cần có để đảm bảo phương tiện sinh sống [4]. Hanstad định nghĩa như sau: “Một sinh kế được coi là bền vững khi nó có khả năng ứng phó và phục hồi khi bị tác động, hay có thể thúc đẩy các khả năng và tài sản ở cả thời điểm hiện tại và trong tương lai không làm xói mòn nền tảng của các nguồn lực tự nhiên” [5]. Áp dụng vào trường hợp xã Phiêng Khoài, với ưu thế về vị trí địa lý, cảnh quan, di tích lịch sử, văn hóa,... sinh kế bền vững chính là việc khai thác hiệu quả các nguồn lực trên phục vụ phát triển nông nghiệp và du lịch song vẫn bảo vệ được nguồn lực ban đầu.
  2. 606 Tống Thanh Bình, Lê Thị Thu Hòa, Điêu Thị Vân Anh, Chu Thị Mai Hương, Asone Vongkhanpeun Hình 1. Phân tích khung sinh kế của DFID (2001). Theo khung phân tích sinh kế bền vững của Bộ Phát triển Quốc tế Anh DFID (Department For International Development) đã đề cập đến các yếu tố cấu thành sinh kế bao gồm [6]: (1) Vốn tự nhiên: bao gồm các nguồn tài nguyên thiên nhiên để tạo dựng sinh kế như: đất đai, khí hậu, cảnh quan, rừng, khoáng sản,... (2) Vốn nhân lực: thể hiện các kỹ năng, kiến thức, khả năng lao động và sức khỏe mà sự kết hợp các yếu tố này có thể làm cho nông hộ theo đuổi các mưu sinh và đạt mục tiêu mưu sinh của họ khác nhau,... (3) Vốn xã hội: thể hiện mạng lưới giao tiếp, thành viên của các tổ chức hội, đoàn và các quan hệ tin cậy. (4) Vốn vật chất: cơ sở hạ tầng (giao thông, đường xá, chỗ ở và nhà cửa, đủ nước cung cấp và vệ sinh, tiếp cận thông tin) và các phương tiện nông hộ cần cho hoạt động sống. (5) Vốn tài chính: thể hiện nguồn tài chính mà nông hộ sử dụng để đạt được mục tiêu mưu sinh của họ. Khung phân tích sinh kế đóng vai trò cốt lõi, con người dựa trên năm nguồn vốn để đảm bảo cuộc sống của mình. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Phỏng vấn: Nhóm tác giả đã phỏng vấn đại diện chính quyền xã Phiêng Khoài 17 để nắm thông tin và lấy số liệu lưu trữ phục vụ bài viết. Chúng tôi tiếp cận đại diện chính quyền để hiểu rõ hơn chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. - Điền dã: Nhóm nghiên cứu đã di chuyển từ thành phố Sơn La tới xã Phiêng Khoài qua một số xã lân cận. Tại Phiêng Khoài, nhóm di chuyển từ trung tâm xã tới một số vùng phụ cận, khai thác thông tin, quan sát, đánh giá các tiềm năng của địa phương, đối chứng với lý thuyết về sinh kế bền vững DFID. - Phân tích: Nghiên cứu được tiến hành dựa trên việc sử dụng khung sinh kế bền vững (DFID, 2001) để phân tích thực trạng đời sống của dân cư xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La, đặc biệt là các bản giáp ranh Lào. Nghiên cứu chỉ tập trung vào năm yếu tố sinh kế (vốn): tự nhiên, con người, vật chất, xã hội và tài chính của địa bàn nghiên cứu. 3. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH KHUNG SINH KẾ CỦA XÃ PHIÊNG KHOÀI, HUYỆN YÊN CHÂU, TỈNH SƠN LA Khái quát khu vực nghiên cứu: Phiêng Khoài là xã vùng cao biên giới của huyện Yên Châu. Xã có vị trí giáp ranh như sau: phía Bắc giáp các xã: Yên Sơn, Chiềng Pằn, Viêng Lán, Chiềng Khoi; phía Đông giáp: Chiềng Khoi, Lóng Phiêng; phía Nam giáp CHDCND Lào; phía Tây giáp xã Chiềng On và CHDCND Lào. Xã gồm 5 dân tộc: Kinh, Thái, Mông, Xinh Mun, phân bố ở 30 bản. Là xã vùng III, đặc biệt khó khăn của huyện Yên Châu, cách trung tâm huyện 40 km, cách thành phố Sơn La 70 km theo Quốc lộ 6. Xã có 6 bản giáp biên giới với 21 km đường biên với bản Na Khạng, Keo Lôm, Pha Lóng; cụm bản Phiêng Xa, của CHDCND Lào. 17 Phỏng vấn ông Đặng Văn Cương, Chủ tịch UBND Xã Phiêng Khoài, ông Bùi Văn Quân, Phó Chủ tịch UBND Xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu.
  3. Tiếp cận lý thuyết khung sinh kế bền vững DFID trong nghiên cứu sinh kế 607 của người dân xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La Xã Phiêng Khoài được thành lập năm 1959, đến năm 1960 xã tiếp nhận dân khai hoang vùng kinh tế mới từ huyện Kim Động và Mai Động, tỉnh Hưng Yên. Tính đến 30/12/2016, xã có 30 bản, 4 dân tộc (Kinh, Thái, Mông, Xinh Mun), với 2.693 hộ, tương ứng 10.783 nhân khẩu. Trong đó dân tộc Kinh có 1.079 hộ với 4.085 nhân khẩu chiếm 40,5%; dân tộc Thái 423 hộ với 1.980 nhân khẩu chiếm 15,6 %; dân tộc Mông 356 hộ với 1.827 nhân khẩu chiếm 13,1 %; dân tộc Sinh Mun 835 hộ với 3.043 nhân khẩu chiếm 30,8 %. Hộ nghèo 1.426 hộ chiếm 53,36 %; hộ cận nghèo 83 hộ chiếm 0,76 %. Có 16 bản đặc biệt khó khăn, có 06 bản giáp biên giới, có 02 bản tái định cư là bản Cha Lo (Quỳnh Liên), bản Hóc Thông (Quỳnh Chung). Để ghi nhận những đóng góp của đồng bào dân tộc Mông ở bản Lao Khô, đặc biệt là gia đình cụ Tráng Lao Khô trong việc có công giúp đỡ, nuôi giấu Chủ tịch Kaysone Phomvihane, ngày 03/4/2012, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ký Quyết định số 1240/QĐ-BVHTTDL về việc công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia [7]: Vốn tự nhiên là một yếu tố đặc biệt quan trọng ảnh hưởng tới sinh kế của người dân bởi nó gắn liền đời sống sinh hoạt và sản xuất của họ. Phiêng Khoài là xã vùng cao, xã biên giới, điểm cao nhất so với mặt nước biển 1.339 m, điểm thấp nhất 773 m, độ cao trung bình 1.000 m. Với đặc điểm địa hình như trên, khí hậu Phiêng Khoài thuộc kiểu khí hậu Á nhiệt đới, khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình thấp hơn vùng lòng chảo của huyện Yên Châu. Kiểu khí hậu này rất phù hợp với các loại cây ưa lạnh như mận, đào, táo, lê, chè, chăn nuôi đại gia súc và có thể phát triển du lịch nghỉ dưỡng. Về hệ thống thủy văn, suối Nậm Pàn là nguồn nước chính cung cấp cho hai xã Phiêng Khoài, Chiềng On, tuy nhiên chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất và sinh hoạt, đặc biệt vào mùa khô. Bên cạnh đó, Phiêng Khoài cảnh quan độc đáo, hệ thống hang động đẹp, đặc biệt xã có đường biên giới với nước CHDCND Lào. Không chỉ vậy, lân cận xã Phiêng Khoài có một số danh lam, thắng cảnh như hồ Chiềng Khoi thuộc xã Chiềng Khoi, hang Chi Đảy thuộc xã Yên Sơn,hang Nhả Nhung xã Chiềng On,... Việc kết hợp các danh thắng này với Di tích lịch sử cách mạng Quốc gia Việt - Lào nằm trên địa bàn xã sẽ tạo thành tour du lịch hấp dẫn. Về đất: Trên địa bàn xã Phiêng Khoài có các nhóm đất chính sau: Nhóm đất đỏ vàng trên núi, Nhóm đất đỏ nâu, Nhóm đất đen. Bảng 1. Diện tích các loại đất và loại hình sản xuất của xã Phiêng Khoài năm 2014 TT Loại đất Diện tích (ha) Loại hình sản xuất 1 Tổng diện tích tự nhiên 9.156,4 2 Đất thổ cư 90,31 Trồng cây ăn quả 3 Đất chuyên dùng 160,25 4 Đất nông nghiệp 4.037,05 Trồng lúa, ngô, hoa màu 5 Đất lâm nghiệp 4.343,68 Trồng rừng 6 Đất chưa sử dụng 389,93 Bỏ hoang Nguồn: Theo kết quả tổng hợp từ bản đồ thổ nhưỡng tỉnh Sơn La tỷ lệ 1/100.000, năm 2012 Đối với người dân Phiêng Khoài, đất đai là tài sản vô cùng quan trọng trong hoạt động mưu sinh bởi hầu hết người dân sống bằng hoạt động sản xuất nông nghiệp. Kỹ thuật canh tác mới như thâm canh tăng vụ, bón phân trừ sâu bệnh, làm thủy lợi được thực hiện và khuyến khích. Việc canh tác lúa gồm lúa xuân, lúa mùa, lúa nương, ngoài ra còn có ngô xuân hè, trồng sắn, rong riềng, mía, lạc, cây vụ đông. Cây công nghiệp dài ngày và cây ăn quả, điển hình có cây chè, cà phê, cây ăn quả (nhãn, xoài, hồng, táo, mơ, đào, cam, mận hậu, chanh leo) cho hiệu quả kinh tế cao. Lĩnh vực chăn nuôi, thú y: duy trì và phát triển tổng đàn gia súc, gia cầm, sản phẩm chăn nuôi đáp ứng nhu cầu trong xã và xuất ra thị trường bên ngoài. Về lâm nghiệp: Hiện nay, dân số khu vực xã Phiêng Khoài ngày một tăng, việc đảm bảo quỹ đất cho các hộ gia đình đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết. Nhiều hộ gia đình sau khi tách ra ở riêng do thiếu đất đã phá rừng làm nương. Rừng vốn là nguồn sống của cộng đồng cư dân trước đây nay càng bị cạn kiệt do việc khai thác không tuân thủ pháp luật và luật tục. Tình trạng phá rừng không chỉ ảnh hưởng đến hệ động thực vật mà còn dẫn đến đất đai bị rửa trôi, bạc màu và các hiện tượng thời tiết cực đoan và nhiều hệ lụy khác.
  4. 608 Tống Thanh Bình, Lê Thị Thu Hòa, Điêu Thị Vân Anh, Chu Thị Mai Hương, Asone Vongkhanpeun Bảng 2. Các vụ vi phạm chặt phá rừng Biểu đồ thể hiện số vụ chặt phá rừng tại xã Phiêng Khoài, huyện Yêu Châu, tỉnh Sơn La giai đoạn 2015 - 2018 Số vụ 7 6 5 4 3 2 1 0 2015 2016 2017 2018 Năm Phát nương làm nương Chặt phá rừng Nguồn: Báo cáo của UBND xã Phiêng Khoài Vốn con người: Con người là yếu tố quyết định thành bại của việc cải thiện sinh kế. Nguồn lực này đã có những thay đổi đáng kể so với thời kỳ trước, thể hiện ở trình độ dân trí và dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người dân. Trình độ dân trí của người dân Phiêng Khoài đã thay đổi rõ rệt. Xã có hệ thống trường Mầm non, Tiểu học, THCS, THPT, các trường có thêm hình thức bán trú giúp học sinh vùng khó khăn. Hiện tại xã có 9 trường học: THPT Phiêng Khoài, THCS Liên Chung, THCS Phiêng Khoài, TH Lao Khô, TH Kim Chung, TH Cồn Huốt, TH Liên Chung, trường mầm non Hoa Mai, trường mầm non Hoa Huệ. Năm học 2013 - 2014, xã có tổng số 182 cán bộ giáo viên với 2.301 học sinh ở các cấp mầm non, tiểu học và trung học cơ sở [8]. Trước đây, đa phần dân số không biết đọc biết viết, người dân chịu nhiều thiệt thòi nhưng hiện nay, lĩnh vực giáo dục đã có những chuyển biến. Nhờ có giáo dục, người dân đã biết vận dụng kiến thức đã học phục vụ việc tổ chức đời sống và sản xuất. Bảng 3. Dân số các dân tộc xã Phiêng Khoài theo Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01/4/2009 Thứ tự Dân tộc Nam Nữ Tổng cộng 1 Kinh 1.827 1.666 3.493 2 Thái 877 886 1.763 3 Mường 32 30 62 4 Mông 727 670 1 397 5 Dao 1 1 2 6 Sán Chay - 1 1 7 Mnông - 1 1 8 Khơ Mú 9 7 16 9 Xinh Mun 1.168 1.198 2.366 10 Lào 1 - 1 11 La Chí 1 - 1 Tổng cộng 4.643 4.460 9.103 Nguồn: Số liệu từ UBND xã Phiêng Khoài
  5. Tiếp cận lý thuyết khung sinh kế bền vững DFID trong nghiên cứu sinh kế 609 của người dân xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La Trong những năm gần đây, Phiêng Khoài nhận được sự quan tâm của Chính phủ và Tỉnh trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng và hỗ trợ người dân cải thiện sinh kế. Hiện nay, xã đã có trạm y tế xã và phòng khám đa khoa đảm bảo tiêu chuẩn với đội ngũ cán bộ y tế có trình độ, ngày càng nâng cao về năng lực cùng hệ thống trang thiết bị. Về cơ bản, người dân Phiêng Khoài và một số cư dân Lào dọc biên giới được hưởng chế độ khám bảo hiểm y tế, được hỗ trợ thuốc theo chương trình 139 của Chính phủ. Tuy nhiên, do thói quen, một bộ phận dân cư đặc biệt ở những vùng xâu xa người dân vẫn chữa bệnh bằng cúng bái, thầy lang. Số người tiếp cận thông tin của các cơ hội được chữa bệnh còn hạn chế. Vốn xã hội: là một dạng tài nguyên tái tạo đặc biệt, thể hiện bởi sức lao động chân tay và trí óc, khả năng tổ chức và chế độ xã hội, tập quán, tín ngưỡng của các cộng đồng người. Phiêng Khoài là xã có nhiều dân tộc sinh sống, 4 dân tộc chính gồm: Kinh, Mông, Xinh Mun, Thái. Các dân tộc đều giữ được giá trị truyền thống của dân tộc mình, mối quan hệ dòng họ là yếu tố kết nối tạo nên sự hỗ trợ lẫn nhau trong đời sống và sản xuất. Bên cạnh đó, Hội nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Mặt trận tổ quốc,... đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ người dân giúp họ cải thiện sinh kế. Sự kết hợp giữa chính quyền và các tổ chức, hội, đoàn thể,... đã hỗ trợ người dân đoàn kết, giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, giữ vững an ninh trật tự, xây dựng đời sống văn hóa. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục được thực hiện và đạt chất lượng tốt. Tổng số gia đình đạt danh hiệu văn hóa năm 2018 là 1.417/2.767 hộ, 05 bản đạt danh hiệu Bản văn hóa: (ÁI II; Ten Luông; Quỳnh Liên; kim Chung 3; Hang Mon 2) [9]. Vốn vật chất: Vốn vật chất bao gồm cơ sở hạ tầng, công cụ lao động, phương tiện vật chất thuộc sở hữu công cộng, sở hữu hộ và cá nhân giúp đáp ứng nhu cầu căn bản và tăng năng suất lao động. Trước đây, cơ sở hạ tầng của xã rất hạn chế, hệ thống điện, đường, trường, trạm cũng như nhà ở, tiện nghi của mỗi gia đình còn ở mức thấp. Đầu những năm 2000 trở lại đây, việc triển khai các dự án giảm nghèo tới các tỉnh miền núi đã góp phần thay đổi diện mạo xã, điển hình là lĩnh vực giao thông, thủy lợi, trường học, trạm xá, hỗ trợ phát triển nông nghiệp,... Nhờ các chương trình 134, 135, giao thông kết nối giữa trung tâm huyện với xã, giữa xã đi các bản và sang Lào trở nên thuận tiện hơn trước. Đặc biệt, cùng việc xây dựng khu Di tích lịch sử cách mạng Việt Nam - Lào, tuyến đường từ Quốc lộ 6 vào trung tâm xã tới di tích đã được nâng cấp và mở rộng. Đây chính là một yếu tố thúc đẩy sự giao lưu, thông thương giữa các vùng trong và ngoài xã. Với sự hỗ trợ từ nguồn vốn Nhà nước, một số công trình đã và đang được xây dựng như nhà văn hóa, công trình nước sạch, trường học, hỗ trợ các bản khó khăn,... giúp đời sống người dân khu vực vùng cao có những thay đổi theo hướng tích cực. Toàn xã hiện có 21 công trình thuỷ lợi đầu mối (4 công trình kiên cố hóa, còn lại 17 công trình là đập, phai tạm), phục vụ tưới tiêu 178,86 ha ruộng lúa và rau màu các loại. Ngoài ra, còn có hệ thống kênh mương các bản: Bản Thanh Yên 2 có 1,0 km kênh đất, bản Cổn Huốt 1 có 1,0 km kênh đất, bản Hang Căn 4 mương đất, bản Lao Khô 1 có 5 mương đất, bản Co Mon có 1 km kênh đất. Về cơ bản hệ thống thủy lợi đã đáp ứng nhu cầu tưới tiêu trên địa bàn xã, góp phần cho khuyến khích thâm canh tăng vụ, khai hoang phục hóa, tăng năng suất và chuyển đổi cây trồng trên địa bàn xã. Trên địa bàn xã có tuyến tỉnh lộ 103 có chiều dài 17,512 km, toàn bộ là đường nhựa. Đường tuần tra biên giới có tổng chiều dài 13,765 km. Đường liên bản, trục bản trên địa bàn xã có tổng chiều dài 63,452 km. Phương tiện vận tải để lưu chuyển hàng hóa tại xã có các loại ô tô, xe máy. Xã có 1 bưu điện văn hóa xã, tổng số máy điện thoại công cộng: 1 máy, số máy gia đình 2.400 máy. Ngoài ra, xã có 1 trạm truyền thanh, 2.000 số hộ gia đình có ti vi, radio. Điện lưới quốc gia về xã năm 2001, có 80 %số hộ gia đình dùng điện [10]. Với nguồn vốn vật chất nêu trên, xã Phiêng Khoài có những thuận lợi trong việc tạo sinh kế bền vững cho người dân hiện tại và trong thời gian tới. Vốn tài chính: Nguồn lực tài chính hay còn được gọi là vốn tài chính, bao gồm các nguồn lực tài chính mà hộ gia đình có thể tiếp cận và sử dụng để đạt được mục đích sinh kế của họ. Nguồn vốn chính người dân Phiêng Khoài có thể tiếp cận, chuyển đổi và phát triển thành sinh kế gia đình là nguồn tiền vay từ các ngân hàng. Để hỗ trợ người dân Phiêng Khoài, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đã có nhiều chương trình hỗ trợ người dân. Đáng chú ý là hiệu quả từ hoạt động cho vay của NHCSXH đã giúp các hộ nghèo được tiếp cận với nguồn vốn với tín dụng ưu đãi. Việc cho vay với lãi suất thấp đã tạo điều kiện cho người dân có cơ hội khai thác những nguồn lực có sẵn để phát triển kinh tế. Số tiền vay ngân hàng được đầu tư cho sản xuất nông nghiệp như mua giống cây trồng vật nuôi, chuồng trại, vật tư nông nghiệp,... giúp người dân từ thoát nghèo đến vươn lên làm giàu. Tổng dư nợ đến 31/8/2019 là 55.436 triệu đồng, số hộ được vay vốn là 1.372 hộ. Với sự phối hợp giữa Ngân hàng với Chi bộ, các Đoàn, Hội, việc cho vay và sử dụng vốn ngày càng được nâng cao về số lượng và chất lượng, không có nợ quá hạn, chất lượng hoạt động tại các điểm giao dịch đạt tỷ lệ 99 %. Từ vốn vay đã giúp các hộ nghèo và đối tượng
  6. 610 Tống Thanh Bình, Lê Thị Thu Hòa, Điêu Thị Vân Anh, Chu Thị Mai Hương, Asone Vongkhanpeun chính sách đầu tư chăn nuôi được 1.211 con trâu, bò, trồng được 168 ha cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, xây dựng 340 công trình nước sạch vệ sinh môi trường, góp phần xóa được 151 nhà tạm, giúp 11 gia đình có con em đang học đại học, cao đẳng, trung học được vay vốn trang trải học phí 18. Có thể thấy, hiệu quả của NHCSXH sau 15 năm hoạt động tại xã Phiêng Khoài là một nguồn lực quan trọng hỗ trợ người dân nghèo và các đối tượng chính sách. Trong thời gian tới, vốn tài chính này vẫn là một yếu tố không thể thiếu trong sinh kế bền vững của người dân. 4. THẢO LUẬN Từ việc phân tích trên cho thấy, người dân Phiêng Khoài đã bước đầu khai thác năm nguồn vốn sinh kế phục vụ cuộc sống, tuy nhiên việc tiếp cận các nguồn vốn trên chưa thực sự bài bản nên hiệu quả khai thác vốn chưa cao. Từ năm 2014 đến nay, hơn 850 hộ nghèo DTTS được hỗ trợ cây giống, nông cụ cầm tay, kinh phí gần 1,2 tỷ đồng. Nhiều hộ DTTS đã cải tạo vườn tạp, trồng các loại cây ăn quả giá trị kinh tế cao, như nhãn, xoài, mận hậu, chanh leo,...; duy trì thâm canh cây chè, cà phê kết hợp đầu tư, mở rộng quy mô chăn nuôi... Toàn xã hiện có 1.950 ha cây ăn quả, trên 350 ha cây chè, cà phê; 10.700 con gia súc và gần 56.000 gia cầm; 4 HTX nông nghiệp chế biến chè và sản xuất hoa quả sạch, an toàn. Theo số liệu báo cáo kinh tế, xã hội của xã năm 2018, tổng thu nhập đạt: 186.593.000.000 đồng, trong đó, ngành nông, lâm nghiệp, chăn nuôi chiếm 62 % tổng thu nhập, ngành dịch vụ thương mại, vận tải và thu nhập khác chiếm 31 %, ngành xây dựng cơ bản chiếm 7 %. Thu nhập bình quân theo đầu người năm 2018:16.642.000 đ/người/năm; 1.387.000đ/người/ tháng [9]. Những hạn chế của địa phương trong nhiều năm qua còn tồn tại: Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản chưa bền vững, chịu ảnh hưởng, thiệt hại do tình hình thời tiết diễn biến phức tạp, dịch bệnh hại cây trồng, vật nuôi; sản xuất công nghiệp gặp khó khăn. Việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội khảo sát dự báo chưa sát với tình hình sản xuất của nhân dân, dẫn đến một số chỉ tiêu cây trồng đạt kế hoạch thấp. Công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quản lý đất đai còn hạn chế việc quản lý đất 5 %, đất quy hoạch xây dựng còn chưa chặt chẽ tại một số bản dẫn tới tình trạng lấn chiếm đất. Tình trạng ô nhiễm môi trường chưa có biện pháp xử lý kiên quyết. Tình trạng vi phạm pháp luật trong quản lý, bảo vệ rừng số hộ phá rừng làm nương tuy có giảm so với năm 2017 nhưng vẫn còn xảy ra chưa có biện pháp ngăn chặn dứt điểm. Điều đó cho thấy sinh kế người dân Phiêng Khoài vẫn có nguy cơ bị tổn thương. Với đặc điểm một xã vùng cao biên giới, người dân xã Phiêng Khoài đến nay vẫn còn rất nhiều khó khăn. Sự cách biệt giữa dân cư khu vực trung tâm và dọc đường tỉnh lộ với dân cư các vùng còn lại khá rõ rệt. Trong khi người dân những khu vực giao thông thuận tiện, địa hình bằng phẳng tập trung vào việc trồng cây ăn quả, cây công nghiệp hay buôn bán, thu nhập ổn định, đa số người dân vùng sâu vùng xa - chủ yếu là các dân tộc ít người và dân tộc rất ít người đời sống bấp bênh, nguy cơ tái nghèo cao. Họ vẫn duy trì lối canh tác lạc hậu, năng suất thấp, sống dựa vào rừng. Xã biên giới Phiêng Khoài có 30 bản với gần 3.000 hộ, trên 60 % là đồng bào DTTS, địa hình lại chia cắt, trình độ dân trí vùng sâu vùng xa còn hạn chế, việc giải quyết bài toán sinh kế cho người dân còn gặp nhiều khó khăn. Theo số liệu của UBND xã Phiêng Khoài, hết năm 2018, thu nhập bình quân đầu người của xã mới đạt 16 triệu đồng/người/năm. Thu nhập thấp nên tỷ lệ hộ nghèo ở Phiêng Khoài hiện vẫn còn 46,8 %. Ngay tại bản Lao Khô vùng giáp biên giới với Lào, dù đã có nhiều thay đổi rõ nét so với trước nhưng hiện tỷ lệ hộ nghèo của bản vẫn còn xấp xỉ 50 %. Vì thế, để tạo sự cân bằng trong phát triển giữa các bản trong xã là mục tiêu đòi hỏi xã Phiêng Khoài phải lựa chọn những giải pháp phù hợp với tình hình địa phương để có sinh kế bền vững cho người dân dựa trên tiềm năng của xã. Trong những năm gần đây, huyện Yên Châu đã có những quyết sách nhằm hỗ trợ người dân khu vực vùng cao biên giới phát triển kinh tế xã hội, ổn định an ninh chính trị. Điển hình là ba vấn đề: Một là: Quyết định về việc phê duyệt quy hoạch chi tiết đô thị tỷ lệ 1/500 ngã 3 Kim Chung, xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La (số 1442/QĐ-UBND). Hai là tiến hành khảo sát nội bộ và đề xuất chủ trương đầu tư xây dựng dự án: Đường giao thông từ Chiềng Khoi - Phiêng Khoài, huyện Yên Châu giai đoạn 2021 - 2025. Ba là: Quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 khu du lịch văn hóa tâm linh Chi Đảy, xã Yên Sơn, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. Tuy nhiên, hầu hết các chủ trương, đề xuất trên đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai. Hiện tại, những tài nguyên của Phiêng Khoài chưa thực sự phát huy giá trị, một số còn ở dạng tiềm năng. Từ những phân tích trên, chúng tôi xin nêu một số kiến nghị như sau: - Các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà hoạch định chính sách các cấp của địa phương cần quyết liệt hơn nữa trong việc tìm ra giải pháp phù hợp cho sinh kế bền vững của người dân Phiêng Khoài. Hiện nay, với thế mạnh 18 Số liệu từ Ngân hàng Chính sách Xã hội huyện Yên Châu năm 2019
  7. Tiếp cận lý thuyết khung sinh kế bền vững DFID trong nghiên cứu sinh kế 611 của người dân xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La của địa phương trong việc trồng cây ăn quả, chính quyền cần đầu tư hơn nữa cho người dân về vốn, kỹ thuật, quảng bá để người dân tăng thu nhập, ổn định cuộc sống từ mô hình này. Việc nâng tầm thương hiệu nông sản hướng đến xuất khẩu sẽ đảm bảo tiêu thụ đầu ra. Không chỉ vậy, cần có chính sách và biện pháp hỗ trợ phát triển du lịch cho địa phương, khai thác hiệu quả thế mạnh về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, khí hậu, cảnh quan, văn hóa,... Cần sớm có quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp, vùng phát triển du lịch,... - Với lợi thế của một khu vực có đường biên giới với Lào, xã cần khai thác hiệu quả hoạt động trao đổi buôn bán giữa nhân dân hai nước. Cần tổ chức định kì hoặc mở các phiên chợ hoặc chợ biên giới thu hút người dân địa phương và khách du lịch để thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển, tiêu thụ sản phẩm cho người dân, vừa giúp người dân có cơ hội được giao lưu với bên ngoài. - Xã cần xúc tiến việc khảo sát tiềm năng du lịch, kiến nghị lập hồ sơ công nhận các danh lam thắng cảnh thành các di tích cấp tỉnh, cấp quốc gia để thu hút đầu tư và xã hội hóa việc nâng cấp cơ sở hạ tầng. Địa phương cần khai thác di tích lịch sử cách mạng Việt Nam - Lào gắn với khai thác cảnh quan, đặc biệt là hệ thống hang động trong và ngoài xã (Chi Đảy, Tà Ẻn, Nhả Nhung,...), kết nối vùng sản xuất nông nghiệp để tạo thành tour du lịch trải nghiệm, du lịch khám phá. Nguồn vốn tự nhiên thực sự là một lợi thế của xã Phiêng Khoài, kiểu khí hậu và cảnh quan có nhiều điểm khá tương đồng với huyện Mộc Châu. Muốn triển khai những công việc trên, việc nâng cao trình độ cán bộ quản lý của địa phương và nhân dân là điều hết sức cần thiết. Cần có sự giao lưu, học hỏi những địa phương lân cận như Mộc Châu, Hòa Bình, Quỳnh Nhai,... để nhân rộng mô hình nông, lâm nghiệp kết hợp du lịch giúp họ thấy được tiềm năng của địa phương và hiệu quả từ mô hình kinh tế mới. - Đặc biệt, cần nâng cấp hệ thống giao thông và cơ sở vật chất phục vụ phát triển các loại hình kinh tế. Hệ thống dịch vụ còn nhiều bất cập, chưa xứng tầm với thế mạnh của địa phương. Trước khi có sự đầu tư lớn, xã cần huy động những mô hình kinh doanh, dịch vụ du lịch nhỏ, sau đó nhân rộng mô hình thành công. 5. KẾT LUẬN Từ việc phân tích khung sinh kế bền vững DFID đối với trường hợp xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La có thể thấy: địa phương có khá nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế nông nghiệp và du lịch nghỉ dưỡng, trải nghiệm. Năm nguồn vốn: tự nhiên, con người, xã hội, vật chất, tài chính đã và đang được khai thác. Tuy nhiên, để kinh tế, xã hội xã Phiêng Khoài phát triển xứng với tiềm năng, để cải thiện cuộc sống người dân, việc chú trọng phát triển nông nghiệp và du lịch là những giải pháp phù hợp với địa phương trong hiện tại và tương lai. Sinh kế bền vững không chỉ đảm bảo cuộc sống của người dân mà còn góp phần ổn định chính trị, xã hội, tăng cường tình đoàn kết hữu nghĩ giữa hai quốc gia Việt Nam, Lào. Lời cảm ơn: Bài viết được hỗ trợ từ nguồn kinh phí đề tài cấp Bộ “Phát huy giá trị của các di tích lịch sử văn hóa trong phát triển du lịch Tây Bắc: Thực trạng và giải pháp”, Mã số B2019-TTB-05. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Robert Chambers (1992), Sustainable rural livelihoods: practical concepts for the 21st century, IDS Discussion Paper No 296. [2]. Solesbury, (2003), Sustainable livelihood, a case study of the evolution of DFID policy, Oversea Development Institute, London. [3]. Caroline Ashley and Diana Carney (1999), Livelihood lessons from early experience, Political Science. [4]. Ian Scoones, (1998), Sustainable rural livelihood a framework for analysis -, Institute of Development Studies, University of Sussex. [5]. Hanstad,TimandRobinNielsnandJenniferBrown(2004), Landand livelihoods: Minglnd rights rel for Indi’s rural poor, LSP working paper 12, Food and Agriculture Organization Livelihood Support Program. [6]. DFID, (1999), Sustainable livelihood guidance sheets. [7]. https://yenchau.sonla.gov.vn/1297/31378/58916/431414/xa-phieng-khoai/gioi-thieu-xa-phieng -khoai(cập nhật 01/9/2020). [8]. Số liệu từ UBND xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. [9]. Kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh và đối ngoại năm 2018; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo quốc phòng - an ninh và đối ngoại năm 2019. Số 347 /BC-UBND.
  8. 612 Tống Thanh Bình, Lê Thị Thu Hòa, Điêu Thị Vân Anh, Chu Thị Mai Hương, Asone Vongkhanpeun [10]. Số liệu từ UBND xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La. [11]. Kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh và đối ngoại năm 2018; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đảm bảo quốc phòng - an ninh và đối ngoại năm 2019. Số 347 /BC-UBND. THE THEORETICAL APPROACH TO DFID SUSTAINABLE LIVELIHOOD FRAMERWORK IN STUDYING LIVELIHOOD OF PEOPLE IN PHIENG KHOAI COMMUNE, YEN CHAU DISTRICT, SON LA PROVINCE Tong Thanh Binh, Le Thi Thu Hoa, Dieu Thi Van Anh, Chu Thi Mai Huong, Asone Vongkhanpeun Tay Bac University Abstract: Phieng Khoai commune, Yen Chau district, Son La province is a highland border commune, bordering Xieng Kho district, Hua Phan province, Lao People's Democratic Republic. The commune has a favorable geographical location and natural conditions for economic development, especially the agricultural economy, combing adventure travel and relaxation. However, at present, Phieng Khoai is still a poor commune with many difficulties in people's lives. By applying different research methods such as interviews, field work, the research team has applied the theory of the sustainable livelihood framework - DFID in the case of Phieng Khai commune, thereby giving some recommendations for the improvement of the local people's life. Keywords: sustainable livelihood, DFID, Phieng Khoai commune, Yen Chau district.
nguon tai.lieu . vn