Xem mẫu

TIẾNG CƯỜI TRONG VĂN XUÔI VŨ BÃO
TRƯƠNG CÔNG HOÀI PHONG
Trường THCS Lê Thánh Tông, Tuy An, Phú Yên
LÊ THỊ HƯỜNG
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Vũ Bão là nhà văn có hành trình sáng tác khá dài. Trong sự nghiệp
sáng tác của mình, ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị, phong phú
về thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, kịch bản điện ảnh, nhưng đặc sắc hơn
cả là tiểu thuyết và truyện ngắn. Điều đáng chú ý là ở thể loại nào, trào lộng
luôn là cảm hứng chủ đạo trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Tiếng cười
của nhà văn đi vào các ngõ ngách của cuộc sống, các lĩnh vực văn hóa, đạo
đức, chính trị, kinh tế, giáo dục, ngoại giao… Tiếng cười của Vũ Bão là tiếng
cười phản ánh cuộc sống, mang hơi thở cuộc sống, có tính thời sự. Cảm hứng
trào lộng trở thành một phong cách nghệ thuật của Vũ Bão.
Từ khóa: tiếng cười, văn xuôi Vũ Bão, cảm hứng trào lộng, phong cách
nghệ thuật

1. MỞ ĐẦU
Vũ Bão là nhà văn có hành trình sáng tác khá dài. Từ cuốn tiểu thuyết đầu tay Sắp cưới
(1957) đến cuốn tiểu thuyết cuối cùng Utopi-một miếng để đời (2007) – cùng với nhiều
tập truyện ngắn và kịch bản phim, nửa thế kỉ cầm bút, hành trình sáng tác của Vũ Bão
khá gập ghềnh, có cay đắng lẫn vinh quang. Điều đáng chú ý là ở giai đoạn nào, trào
lộng luôn là cảm hứng chủ đạo trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Chú trọng sự chân
thực, Vũ Bão quan niệm dùng tiếng cười để thẳng thắn vạch trần những điều khuất tối
của xã hội cũng như của con người: “Người đời cười những chuyện vô lý mà có thật
trong cuộc đời, cười những chuyện nhảm nhí, nhố nhăng của thiên hạ. Những chuyện
đó diễn ra hàng ngày, nhưng quan trọng là có ai dám phê phán nó hay không, và tôi đã
thẳng thắn viết ra những điều đó” [3].
2. TIẾNG CƯỜI TRONG VĂN XUÔI VŨ BÃO - SỰ BIỂU HIỆN CỦA TƯ DUY
NGHỆ THUẬT MỚI
Cảm hứng trào lộng trở thành một phong cách nghệ thuật của Vũ Bão. Gần năm mươi
năm cầm bút, Vũ Bão “vẫn đeo đẳng sự cười trong tác phẩm”. Từ tác phẩm đầu tay Sắp
cưới đến những tập truyện ngắn và cuốn tiểu thuyết cuối cùng Utopi- một miếng để đời,
tiếng cười không bao giờ vắng mặt trong thế giới nghệ thuật của Vũ Bão. Tiếng cười đã
khơi nguồn cảm hứng - là vũ khí đấu tranh chống lại cái phi lí, nghịch lí, vênh lệch đang
tồn tại trong mọi phương diện của cuộc sống khiến cho nhà văn không thể không “lên
tiếng”. Vượt qua bao nhiêu thăng trầm trong cuộc đời cầm bút, tất cả cũng vì tiếng cười,
Vũ Bão đã khẳng định phong cách của mình. Cuộc đời cần tiếng cười; văn học cần tiếng

Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 02(30)/2014: tr. 48-55

TIẾNG CƯỜI TRONG VĂN XUÔI VŨ BÃO

49

cười; tiếng cười đa sắc thái trong văn xuôi Vũ Bão có ý nghĩa thanh lọc, hướng về chân
thiện mỹ.
Phong cách Vũ Bão định hình ngay từ tác phẩm đầu tay. Năm 1957, tiểu thuyết Sắp
cưới ra đời đem lại sóng gió cho đường văn của tác giả. Sắp cưới là những trang sách về
số phận cay nghiệt của nông dân trong thời cải cách ruộng đất. Sử dụng tiếng cười để
phơi lật những vấn đề xã hội đương thời, tác phẩm Sắp cưới không thuận chiều trong
tầm đón nhận của người đọc. Tuy vậy, ngay sau đổi mới, cuốn tiểu thuyết được tái bản
(1988) đánh dấu sự xuất hiện trở lại của Vũ Bão trên văn đàn. Từ đó, tên tuổi Vũ Bão
thật sự gắn với tiếng cười. Bùi Ngọc Tấn nhận xét về Vũ Bão: “Vũ Bão là người sinh ra
để cười. Và mỗi tế bào trong anh đều muốn được cười. Cười trong tác phẩm. Cười trong
cuộc đời. Cười như một đứa trẻ. Và cười như một ông lão lõi đời giễu tất cả” [1, tr.6].
Sau đổi mới, ngòi bút trào lộng của Vũ Bão được thăng hoa. Tiếng cười đi vào các ngõ
ngách của cuộc sống, các lĩnh vực văn hóa, đạo đức, chính trị, kinh tế, giáo dục, ngoại
giao… nơi nào cũng có bước chân của Vũ Bão.
Những năm sau chiến tranh, nhiều tác phẩm bắt đầu khai thác đề tài nông thôn với cái
nhìn mới. Nhiều nhà văn đã mạnh dạn đề cập những tiêu cực trong đời sống, trong quản
lí, trong nội bộ lãnh đạo ở nông thôn. Từ Cù Lao Tràm (Nguyễn Mạnh Tuấn) đến những
tác phẩm viết sau đổi mới như Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường),
Lão Khổ (Tạ Duy Anh),… các nhà văn đã đi vào những nghịch lí đáng cười của đời
sống. Nhưng có thể nói, Vũ Bão là người đầu tiên dùng tiếng cười để phê phán những
cái bất cập, những việc làm trái khoáy của cán bộ làng xã làm cuộc sống của người
nông dân “sống dở chết dở”. Những tập truyện ngắn Ông khóc tôi cũng khóc, Em đường
em, anh đường anh, Hiệp sĩ… bộc lộ rõ mặt mạnh và đổi mới tư duy nghệ thuật của nhà
văn. Cái cười trong tác phẩm Vũ Bão là cười ra nước mắt trước cái trớ trêu, sự thật bị
đánh tráo. Trong tập truyện Em đường em, anh đường anh, tiếng cười Vũ Bão phát lộ từ
sự bất cập trong cơ chế, bệnh tiêu cực, tham nhũng, sự xuống cấp về đạo đức của một
bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo các cấp, việc chạy chức chạy quyền, tranh giành
ngôi vị được phản ánh sâu sắc. Đồng tiền đã làm mờ mắt và suy thoái đạo đức cách
mạng của những người có chức có quyền. Mối quan hệ, tình đồng chí trở nên lỏng lẻo,
không còn “tình người”. Lối sống thực dụng ngụy trang trong cái vỏ văn hóa, lịch thiệp
dần ăn mòn đạo đức con người. Lực hút của đồng tiền làm xáo trộn các giá trị của cuộc
sống khiến ta ngạc nhiên. Ngòi bút nhà văn tả xung hữu đột, đề cập mọi vấn đề ngổn
ngang của đời sống với tiếng cười dí dỏm, thân ái. “Nhà văn đã phát hiện ra những điều
đáng cười, đáng phê phán ngay ở chung quanh ta mà nhiều khi ta cho qua. Ông nhặt
những điều này ra, thổi cho chúng những sắc thái cười khác nhau, khiến chúng sống
động trước mắt ta…” (Lời nói đầu tập truyện Hiệp sĩ). Đúng là nhà văn đã nhặt và lảy ra
nhiều vấn đề nho nhỏ nhưng tác hại khôn lường trong đời sống hàng ngày. Chuyện tiêu
cực trong Ngoại giao tổ tôm; chuyện mê tín trong Mùng Một, hướng Bắc, giờ Thìn;
chuyện lừa gạt xổ số, khuyến mãi trong truyện ngắn “Cái lộc” không dám khoe với ai;
chuyện dịch vụ thuê người trong Kiếp chủ… Mỗi truyện ngắn của Vũ Bão như một
phóng sự nhỏ, từng chuyện nhỏ kết nối, xâu chuỗi hiện ra toàn cảnh xã hội từ những
góc khuất đến phần sâu. Trong Nhà trẻ không có bô, tiếng cười Vũ Bão phát lộ hệ thống

50

TRƯƠNG CÔNG HOÀI PHONG – LÊ THỊ HƯỜNG

nhà trẻ mà trẻ em là “cậu ấm cô chiêu”. Đó là cơ quan sinh ra để cán bộ gửi con cái
mình vào hưởng lương nhà nước, còn công việc chính là ăn chơi nhảy múa. “Chẳng qua
các ông ấy lập ra cái trung tâm thông tin ấy chỉ là để gửi con cháu trú chân chờ đi nước
ngoài chuyến nữa hoặc nhảy sang chỗ khác lắm mầu hơn”. Đây cũng là vấn đề được
nhiều nhà văn quan tâm. Trong Cơ hội của chúa, Nguyễn Việt Hà cũng châm biếm,
giễu nhại khi nói về “kiểu nhà trẻ này”: “Một thứ vườn trẻ để gửi con ông cháu cha.
Hơn nửa là thanh niên. Những tiểu thư và công tử trang trí đường diềm cuộc đời bằng
cách đi làm Nhà Nước (Cơ hội của chúa, tr 89).
Đặc biệt trong tiểu thuyết cuối cùng của đời mình Utopi- một miếng để đời, tiếng cười
của Vũ Bão ngày càng thâm thuý của một kẻ cao tay, lõi tay nghề. Ở đó, mọi phương
diện của cuộc sống, mọi quan hệ được tác giả phơi bày theo lối viết hoạt kê. Theo Phạm
Xuân Nguyên: “Quả là Vũ Bão đã dồn cả tâm huyết đời văn của mình vào cuốn sách
này. Một tác phẩm chất chứa nhiều điều, nói được nhiều điều. Nhưng vẫn là rất Vũ Bão:
văn rất hoạt, đọc rất gây cười, rất lôi cuốn, chuyện như đùa, như giỡn, như chơi, để đọc
xong rồi, cười rồi thì thấy thấm cùng nhà văn một nỗi buồn trầm lặng” [4]. Là nhà văn
từng sống và viết trong giai đoạn đất nước có chiến tranh, ngòi bút Vũ Bão bộc lộ thế
mạnh khi khai thác mảng đề tài này. Ở đó nhà văn vẫn có chỗ đứng riêng. Viết về đề tài
chiến tranh, một thời gian dài văn học thiếu chỗ cho tiếng cười trào lộng. Trong cuộc
chiến tranh vệ quốc, tưởng chừng tất cả mọi thứ đều chuẩn xác, tất cả đều cao cả. Thế
nhưng Vũ Bão vẫn lôi ra những hài kịch thật cay đắng, xót xa vẫn còn lẩn khuất đâu đó
trong và sau chiến tranh. Viết về hài kịch thời chiến, Vũ Bão quan tâm đến những người
lính vô danh. Họ là ai, là Chình hy sinh vì tổ quốc, nhưng trên bằng tổ quốc ghi công lại
là Trình. Sự nhầm lẫn cái tên của anh tân binh lúc đầu tưởng chừng như là sự sơ suất và
điều chỉnh là xong. Anh đề nghị chữa lại nhiều lần. Vậy mà trong thời gian dài tham gia
chiến đấu đến lúc hi sinh và báo tử về gia đình vẫn cái tên không phải của anh. Hỏi thử
có còn là thiếu sót nào mà đau hơn nữa hay không? Hay là sự vô trách nhiệm, quan liêu
của các cấp có thẩm quyền đến lúc chết vẫn còn (Người không có tên trong từ điển). Họ
là ai, là những người chưa có chiến công, nhưng “nhờ họ chiến công mới được lập, tự
điển mới có tên” (Người chưa có chiến công). “Tiếng cười hài hước của vũ Bão là tiếng
cười rất đặc biệt, thậm chí không giống ai. Nó là tiếng cười “xả láng”” [2]. Cái bi
chuyển hoá thành cái hài, tiếng cười hóm hỉnh của Vũ Bão khiến câu chuyện nhẹ nhàng
mà sâu cay.
Trong văn xuôi của Vũ Bão, hình tượng nhân vật tạo nên tiếng cười trào lộng giàu ý
nghĩa phê phán. Nhân vật trào lộng là loại nhân vật mang tính hài. Xây dựng nhân vật
trào lộng nhà văn phải làm sao cho người đọc bật lên tiếng cười về nhân vật. Trước hết
đó là kiểu nhân vật “lạc thời” xuất hiện với tần suất cao tạo nên tiếng cười với nhiều sắc
diện. Nhân vật lạc thời thể hiện ở hành vi, cách ứng xử không trùng khớp với hoàn
cảnh, môi trường (Danh hài thượng thặng, Utop- một miếng để đời). Nhà văn cũng khắc
họa thành công kiểu nhân vật nghịch dị. Đó là con người có hình thức bên ngoài bình
thường nhưng bên trong tâm hồn méo mó, dị biệt, đôi khi mất hết nhân tính, lời nói và
hành động không trùng khít với nhau: nói một đằng làm một nẻo. Đó là kiểu nhân vật
có chức có quyền nhưng lại suy thoái về đạo đức, lạm quyền. Nhân vật ít hiểu biết

TIẾNG CƯỜI TRONG VĂN XUÔI VŨ BÃO

51

nhưng làm ra vẻ là trí thức. Kiểu nhân vật mưu cầu hạnh phúc bằng những việc làm bất
chính. Trong tiểu thuyết Sắp cưới là Độ - một cán bộ Đội cũng chỉ sự kém hiểu biết,
không nhạy bén và linh hoạt, giáo điều, chủ quan, duy ý chí nên anh đã làm những việc
ngớ ngẩn quy oan gia đình bà Khuyến. Hành vi, quan niệm máy móc của Độ khiến cho
gia đình người nông dân dở khóc dở cười, sống trong chuỗi ngày buồn đau, lo lắng, bất
an. Họ là những người góp phần làm nên lịch sử nhưng cũng chính họ đã nhào nặn lịch
sử, làm cho lịch sử bị méo mó, biến dạng.
Với phạm vi rộng hơn, trong tiểu thuyết Utopi - một miếng để đời, cái nghịch dị xuất
hiện ngay từ những con người ở làng Chè, nhà văn dẫn dắt người đọc đến với không
gian rộng lớn cả nước và nước ngoài là Balôđitxtan - đất nước trong tưởng tượng. Nhà
văn không ngần ngại phơi bày cho độc giả tất cả những cái quê mùa, thô kệch, sự kém
hiểu biết, học đòi… cũng tạo nên cái nghịch dị hài hước trong các nhân vật.
Trong văn xuôi Vũ Bão còn xuất hiện phổ biến kiểu nhân vật “sắm vai”, diễn trò tạo ra
tiếng cười trào lộng. Đó là những nhân vật đóng nhầm vai một cách xuất sắc. Cuộc
chiến vừa kết thúc để lại nỗi đau lẫn vinh quang chiến thắng. Thế nhưng, ở thời bình
vẫn còn có nhiều kẻ nhầm vai anh hùng. Đó là Vĩnh - người tham sống sợ chết, hèn
nhát, bỏ mặc đồng đội trong trận công đồn bốt Chè đến khi dựng lại bộ phim về trận
đánh vẫn ngang nhiên, báo cáo thành tích (Người vãi linh hồn); là ê-kíp Khai và Bế
trong truyện Khi nhà quan“diễn”. Cặp bài trùng này dìu nhau dần dần bước lên từng
bậc thang trong chốn quan trường bằng những vở diễn của mình. Ngòi bút nhà văn đầy
châm biếm khi dẫn câu chuyện mào đầu: “Ngày trước, một nhà vật lí nổi tiếng nuôi một
con mèo lớn và một con mèo con. Ông ta cẩn thận đến mức khoét một lỗ to cho con
mèo to chui ra và một lỗ nhỏ cho con mèo nhỏ chui vào, chui ra. Ở huyện tôi, Khai chủ
tịch và Bế - Trưởng phòng tổ chức cùng khoét hai lỗ, nhưng Khai cố tình chui bằng cái
lỗ của Bế và Bế cũng quyết tâm chui lên bằng cái lỗ của Khai” (Khi nhà quan“diễn”).
Trong tiểu thuyết Utopi- một miếng để đời, Phạm Thế Hệ là kiểu nhân vật sắm vai.
Chàng thanh niên làm thịt chó làng Chè được mời sang Vương quốc Balôđitxtan trở
thành “siêu đầu bếp”; từ một chàng thanh niên thất nghiệp trở thành người khách đặc
biệt của Thái tử. Diễn viên không chuyên này diễn trên sân khấu đầy đủ không gian, âm
thanh, ánh sáng và khán giả, với những hành động, cử chỉ, lời nói ngô ngố, quê mùa đối
lập với cuộc sống hiện đại và con người văn minh.
Trên sân khấu hài của Vũ Bão còn rất nhiều nhân vật đội mặt nạ để diễn trò, tạo ra tiếng
cười trào tiếu, hả hê. Kẻ dốt nát vào vai nhà khoa học tài ba (Phó tiến sĩ không hữu
nghị). Kẻ tham nhũng, tiêu cực nhưng hô cao khẩu hiệu chống tiêu cực. Kẻ vụng về
luôn tỏ ra khéo léo. Kẻ thực dụng vào vai hào phóng. Kẻ lạc hậu vào vai văn minh…
Những chiếc mặt nạ méo mó, nhem nhuốc ấy khiến các thang giá trị cuộc đời bị đảo
lộn. Con người được khám phá ở nhiều góc độ, khai thác nhiều chiều. Để làm rõ cái
chiều nghịch dị, xấu xa của con người nhằm phê phán, thanh lọc, Vũ Bão thường đặt
nhân vật trong những không gian méo mó, bị xô lệch. Trong không gian xô lệch đó cái
phần khuất lấp có cơ hội đã xuất đầu lộ diện (Biển mơ, Giấc mơ tiên, Bồng lai, Tắm
tiên, Tắm“ôm”). Để tạo ra tiếng cười, Vũ Bão còn đặt nhân vật vào thế giới mê cung,

52

TRƯƠNG CÔNG HOÀI PHONG – LÊ THỊ HƯỜNG

Không gian mê cung trong Utopi được Vũ Bão sắp xếp khá công phu. Cuộc sống hiện
lên thật ngổn ngang, phi lí, con người trong đó mất phương hướng, mất thăng bằng.
“Tôi cảm thấy mình chỉ là người thừa ở giữa thủ đô Utopi này”.
Văn Vũ Bão lôi cuốn ở cách kể chuyện “theo kiểu La Quán Trung trong Tam
Quốc”(chữ dùng của Vũ Nho). Đó là cách kể vào ngay truyện không cần vòng vo, rồi
thì chuyện này nối tiếp chuyện kia“chuyện này không nói nữa. Lại nói về…”. Cứ thế
tình tiết này, chuyện nọ dắt chuyện kia. Nhà văn sử dụng nhiều câu văn dài, nhưng
thanh thoát không vấp váp, khó đọc và kể một mạch là xong chuyện. Trong lời kể, để
làm bật ra tiếng cười trào lộng, Vũ Bão kết hợp giữa ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ
đời thường “thu lượm” trong dân gian. Có những từ ngữ vốn là của đường phố được
nhà văn sử dụng trở nên mới mẻ. Sự kết hợp ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ dân
gian, các câu thành ngữ, tục ngữ kết hợp đúng lúc đúng chỗ tạo nên một ngôn ngữ độc
đáo của Vũ Bão: “Bố tôi thường bảo: “Số mày là nước lòng đò”, “lè nhè như chè thiu”,
“vui duyên mới không quên nhiệm vụ”… Đôi khi nhà văn kết hợp ngôn ngữ chuyên
ngành, ngôn ngữ báo chí, của công chức văn phòng, của biên bản, ngôn ngữ nghị quyết,
ngôn ngữ sân cỏ dung hòa tạo nên ngôn ngữ kể chuyện độc đáo của Vũ Bão (trong
Người vãi linh hồn, Bố con là đàn bà, Bút bi hết mực, Ông khóc tôi cũng khóc).
Với lối hoạt kê, ngôn ngữ kể chuyện trong văn xuôi Vũ Bão rất gần gũi với ngôn ngữ
đời sống. Có lúc nghiêm túc, chiêm nghiệm, có lúc bỡn cợt suồng sã, nhưng đó là ngôn
ngữ không cầu kì, không lên gân, không đao to búa lớn, càng không xô bồ, thô lỗ, thiếu
văn hóa. Dù khi bực dọc khi miêu tả những trò nhảm nhí, nghịch dị, nhà văn cũng
không chửi rủa; trái lại giễu cợt, pha trò, bình luận một cách dí dỏm, hài hước. Trong
văn xuôi của Vũ Bão lời bình chiếm tần suất cao. Cảm hứng trào lộng cũng thể hiện rõ
qua lời bình của người kể chuyện. Lời bình trong truyện của Vũ Bão đan xen với lời kể,
lời tả nhưng thường xuất hiện cuối văn bản. Ở vị trí này, lời bình của người kể chuyện
có ý nghĩa làm bung phá tiếng cười. Tôi – nhà văn trong truyện Khi nhà quan“diễn” kết
thúc truyện xuất hiện và lời bình đầy hài hước:“Còn tôi từ nay không viết được truyện
cười nữa, vì các quan đầu huyện tôi đã diễn vở kịch cười hay đến thế”. Đó là lời văn
của tác giả nghi ngờ, không đáng tin của nhân vật, kẻ không đáng tin lại nói được những
điều hay ho tử tế, con người đáng tin lại làm nhiều trò nhảm nhí… “Hỡi ơi! rượu
Napoléon! Tây hơn Ta là cái chắc” (Chai rượu “ông” Napolé); “Đã trót đem thân làm
Bao Công thì đừng bao giờ đi buôn lậu thuốc lá Jet. Trong đời mỗi lần thằng người chỉ
đi được một cửa và chỉ có một mà thôi” (Đã trót làm Bao Công).
Ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm Vũ Bão cũng mang tính chất trào phúng và giễu cợt.
Ngôn ngữ nhân vật được thể hiện qua đối thoại, qua lời nói và tính cách của mỗi nhân
vật. Ngôn ngữ nhân vật là một trong những yếu tố cơ bản để cá biệt hóa nhân vật. Nhiều
truyện ngắn Vũ Bão chủ yếu được triển khai bằng đối thoại. Trong nhiều mẩu đối thoại
của nhân vật, rất nhiều lời thoại trật khớp được nhà văn đặt vào lời nhân vật để gây
cười. Khi giao tiếp, người tham gia đối thoại cùng hướng vào nội dung, một đề tài nhất
định nhằm đạt được mục đích giao tiếp. Lời thoại trật khớp là lời thoại mà nhà văn cố
tình vi phạm phương châm quan hệ, kiểu “ông nói gà bà nói vịt”, sự vênh lệch giữa

nguon tai.lieu . vn