Xem mẫu

Tiến trình côngtác xã hội nhóm Khoa tâm lý nhóm cho biết nhóm cũng như con người có khởi đầu, trải qua giai đoạn ấu thơ, trưởng thành và kết thúc. Điều này thấy rõ ở một ủy ban đặc nhiệm được thành lập để giải quyết một vấn đề, xong việc thì kết thúc. Các tổ nhóm ở một trại hè đến cuối trại cũng chia tay nhau. Một nhóm bạn học rất thân nhưng sau khi tốt nghiệp mỗi người đi một ngã, nhóm coi như tứ tán. Cũng có thể một số nhỏ kết bạn suốt đời, cũng có thể không. Khi đi làm các bạn này lại có thể tìm ra bạn mới và lại kết thành một nhóm bạn đồng nghiệp. Đáng quan tâm tìm hiểu hơn là diễn tiến phát triển của nhóm về mặt tâm lý. Khi nhóm bắt đầu, các cá nhân còn xa lạ, các mối quan hệ rời rạc, mục đích chung chưa thông suốt. Khi nhóm trưởng thành, có mâu thuẫn vì người ta cởi mở, thẳng thắn với nhau hơn, nhưng một khi hiểu nhau thì các mối quan hệ mới sâu sắc hơn. Có sự thông cảm hơn thì sự thống nhất ý kiến về mục tiêu cũng cao hơn. Và từ đó năng suất của nhóm cũng cao hơn. Một nhóm hành động có thể kết thúc ở đây, khi mục tiêu đạt được. Họ có thể tiếp tục quan hệ như một nhóm bạn nếu trong quá trình làm việc tình bạn đã phát triển. Đối với các nhóm tự nhiên hay sẵn có như gia đình, nhóm bạn, băng nhóm khó xác định bước khởi đầu và sự kết thúc rõ rệt. Các nhóm huấn luyện về năng động nhóm có thể sống từ một ngày đến vài tuần. Nhóm giải trí có thể sống một ngày trong khuôn khổ một ngày cắm trại. Nếu quan sát kỹ ta cũng thấy từ rời rạc nhóm viên đi tới gắn bó lẫn nhau. Một nhà trị liệu nhóm có thể căn cứ trên tình hình cụ thể của thân chủ có thể dự trù 3, 5, 8 hay 10 buổi sinh hoạt (hay nhiều hơn nữa). Như đã nêu ở phần trên, trong CTXH với cá nhân, phương pháp hay công cụ giúp cho đối tượng tự khắc phục dần những khó khăn của họ là khả năng tạo mối quan hệ tốt của NVXH đối với đối tượng (đó mới là chính, còn công ăn việc làm, tiền trợ cấp, v.v... là các công cụyểm trợ) là công cụ tạo sự tăng trưởng hay thay đổi hành vi của các đối tượng. NVXH nhóm vẫn tiếp xúc với cá nhân, vẫn phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, nhu cầu, vấn đề của cá nhân nhưng chính tiến trình sinh hoạt nhóm là trọng tâm, là công cụ giúp đỡ cá nhân. CTXH nhóm có thể nhằm vào 2 loại nhóm: nhóm sẵn có hay nhóm được thành lập có mục đích. Nhóm sẵn có, có thể là gia đình, một băng nhóm đường phố, bịnh nhân cùng một phòng ở bịnh viện, một ủy ban công tác ở cộng đồng. Nhưng các ngành khoa học về nhóm cũng thường thành lập nhóm theo kiểu họp - tan, nhằm một mục đích cụ thể như huấn luyện, xã hội hóa hay trị liệu. Hiện nay công tác phổ biến nhất, đặc biệt trong giới thanh thiếu niên, nhằm mục đích xã hội hóa hay tái xã hội hóa. Đối với trẻ em, nhân viên xã hội có ảnh hưởng nhiều hơn trong tiến trình nhóm so với nhóm người lớn, có nhiều cơ hội hơn để hướng dẫn nhóm hoàn thành mục tiêu. Nội dung sau đây về các bước trong diễn tiến nhóm liên hệ nhiều tới mục đích này. 2. Bốn bước trong tiến trình công tác xã hội nhóm Bước 1: Thành lập nhóm. Bước 2 : Khảo sát nhóm 1 Bước 3: Duy trì nhóm. Bước 4 : Kết thúc. Bước khởi đầu : Bước thành lập nhóm Trước hết chúng ta đánh giá tình hình, vấn đề, nhu cầu của cá nhân Nhóm trong cơ sở dễ làm việc hơn vì họ cùng vấn đề, mục tiêu và các hoạt động phải khớp với phương hướng, mục tiêu của cơ sở. NVXH phải tìm hiểu cơ sở trước khi lập nhóm. Mục đích thành lập nhóm phải rõ ràng, được mọi người hiểu và cùng chia sẻ, nếu không sự hợp tác hai bên (nhân viên xã hội và nhóm viên) và sự tham gia sẽ bị giới hạn. Hợp đồng là hai bên thỏa thuận để đạt mục tiêu trong một thời hạn nhất định. Trước khi bắt tay vào việc, NVXH phải biết tại sao mình muốn sử dụng phương pháp nhóm, và những đặc tính - nhu cầu chung nhất của đối tượng. 1. Chọn nhóm viên 2. Số lượng nhóm viên phải phù hợp với mục đích. ví dụ như trong trị liệu không nên đông hơn 6 - 8 người để nhóm viên có điều kiện bộc lộ, diễn đạt cảm xúc của mình. Một nhóm giải trí của trẻ em có thể lên tới 15 - 20 em. Một đội banh 11 người, một đội kịch tùy theo số vai trong vở diễn và các động tác hỗ trợ vở diễn. Ít quá không đạt mục tiêu, đông quá sẽ có người không tham gia trọn vẹn và cảm thấy dư thừa. 3. Một trong các tiêu chuẩn định nghĩa nhóm nhỏ là có quan hệ mặt đối mặt, do đó quá đông thành viên sẽ không có được mối quan hệ này. Tóm lại, các yếu tố quy định số lượng nhóm viên là: • Đặc điểm nhóm viên • Mục tiêu chuyên môn : Ví dụ : Nhóm phụ nữ nghèo cần vay vốn, nhóm thanh thiếu niên gặp khó khăn trong học tập, nhóm phụ nữ bị bạo lực, nhóm phụ nữ có chồng nghiện rượu… • Chương trình hoạt động • Sự tham gia tối đa của mỗi người • Đặc điểm của nhóm viên cần được quan tâm Trước tiên là sự tương đồng về nhu cầu hay vấn đề cần giải quyết. Không thể để chung một phụ nữ độc thân mà có con và một phụ nữ đang ly dị chồng. Vấn đề của họ hoàn toàn khác nhau. Vấn đề giống nhau mà quá khác nhau về tâm lý, tuổi tác, trình độ văn hóa cũng không được. Giữa cô gái mới lớn, không chồng mà có con, với một phụ nữ 40 trong cùng trường hợp cũng rất khác biệt. Nên quan tâm đến những trường hợp rất cá biệt không đưa vào nhóm được như người bị tâm thần nặng, trẻ có quá nhiều hấn tính giữa một nhóm trẻ có vấn đề nhưng ở mức độ vừa. Hoặc một người có xu hướng khống chế mạnh cùng với những người quá thụ động. Yếu tố bổ sung rất quan trọng: trong đội CLB văn học nên có nam lẫn nữ, một nhóm chơi của trẻ có mạnh có yếu, một đội thi đua nấu cơm ngoài trời phải có vài trẻ đã có kinh nghiệm nấu cơm trong gia đình. 2 Tránh đưa vào một nhóm nhỏ 2 người hay 2 nhóm người ở ngoài đời đang xung khắc trầm trọng, hoặc 2 - 3 bạn rất thân cùng sinh hoạt với 5 - 6 người còn xa lạ với nhau. Tất yếu họ sẽ phân ra thành nhiều tiểu nhóm, khó xây dựng một nhóm đoàn kết. Do đó, việc tìm hiểu nhóm viên rất quan trọng. Một giáo dục viên phụ trách nội trú có thể biết rõ các em trong phòng mình phụ trách. Nhưng một nhóm NVXH ở cộng đồng sẽ không nắm được đặc điểm của các em thiếu niên tới đăng ký sinh hoạt đội nhóm ngay từ đầu. Do đó phải có quá trình tìm hiểu thông qua đăng ký sinh hoạt (phiếu xã hội - vấn đàm - vãng gia, nếu cần). Đối với nhóm sẵn có như các nhóm tự nhiên trong khu phố, băng nhóm lang thang bụi đời, NVXH phải nhập cuộc một cách từng bước và khéo léo để nhóm chấp nhận. ở đây, NVXH không những tìm hiểu từng nhóm viên mà quan trọng hơn nữa là các mối quan hệ và sự phân công (quyền lực) trong nhóm. Ai là lãnh vụ, ai liên kết với lãnh tụ, ai trung lập, ai chống. Trong băng có tiểu nhóm hay không? Những giá trị xã hội, qui chuẩn (luật không thành văn) của nhóm là gì? Những hành vi tích cực và tiêu cực đối với xã hội? Mục đích ở đây là tái xã hội hóa, nghĩa là tác động từ từ tới cấu trúc quyền lực của nhóm, hướng nhóm dần tới các mục tiêu xây dựng. Ví dụ như biến thành một đội banh, một đội sản xuất có qui cũ, có thu nhập, được xã hội đánh giá cao. Trẻ từ từ sẽ phục hồi lại niềm tin, tự tin và tự trọng. 2. Mục tiêu sinh hoạt Cần phân biệt mục đích cuối cùng của CTXH (cá nhân, nhóm, cộng đồng) là sự thay đổi, phục hồi, tăng trưởng về mặt tâm lý xã hội của (hệ thống) thân chủ, và mục têu của hoạt động mà nhóm đề ra: thi đấu, trình diễn, cải thiện nhà ở, liên hoan cuối năm, chuẩn bị xuất viện, học kỹ năng... Đối với một nhóm tới CLB đăng ký học kỹ năng hùng biện chẳng hạn thì không có gì phải bàn cãi. Một nhóm trẻ từ 5 - 8 tuổi chỉ cần chơi và thông qua chơi, được xã hội hóa thì chủ yếu tạo điều kiện chơi phù hợp với lứa tuổi. Nhưng đối với các nhóm người lớn liên kết để hành động chung, một nhóm thiếu niên nội trí cần đóng góp một tiết mục cho cuộc liên hoan cuối năm thì mục đích phải được trao đổi và thông qua. Có sự thống nhất ý kiến càng cao thì sự tham gia từng người càng được bảo đảm. Càng tham gia càng tạo sự thỏa mãn và kết quả tích cực về mặt xã hội hóa. NVXH ở đây không áp đặt cho dù đã dự trù trước, càng ít áp đặt thì nhóm càng tích cực có sáng kiến. Vấn đề ở đây là NVXH phải sử dụng tiến trình tâm lý nhóm để tạo sự thảo luận càng nhiều càng tốt trước khi thông qua quyết định chung. Đối với mục đích xã hội hóa, điều quan trọng không phải là thành quả mà tiến trình tăng trưởng của nhóm viên. Nhưng độc đoán hay dân chủ không phải hai phạm trù loại bỏ nhau mà là các mức độ của một quá trình hướng dẫn. Người bịnh tâm thần, trẻ em rất nhỏ không thể tự quyết về mọi mặt. Do đó, sinh hoạt nhóm là để tập tành dân chủ nhưng phải đi từ thấp tới cao tùy hoàn cảnh và trình độ của nhóm viên. Ngược lại trước một nhóm thụ động, trông chờ, NVXH phải dày công hơn nhiều để khơi dậy tiềm năng tự lực của nhóm. 3 Do đó, mục tiêu hoạt động không chỉ được áp đặt một cách hành chánh, hay bỏ mặc cho nhóm viên mà cần được giáo dục. Mục tiêu không cứng ngắt mà linh động theo sự trưởng thành của nhóm và khả năng của nhóm viên. Ví dụ ở một trung tâm nội trú, có một nhóm trẻ tự lực chuẩn bị đóng góp cho cuộc liên hoan cuối năm, nhóm A chỉ có khả năng hát một bài đồng ca, tuy nhiên nhờ sự giúp đỡ bên ngoài và sự gắn bó lẫn nhau, mấy tháng sau các em có thể dựng một vở kịch tự biên tự diễn. 4. Cơ cấu tổ chức nhóm 5. a) Cơ cấu chính thức Tất cả các nhóm để đạt đến một mục tiêu đều phải có phân công trách nhiệm. Có nhóm viên trội hơn, có tinh thần trách nhiệm cao, được trao vai trò trưởng nhóm, có nhóm viên khéo tay được phân công dạy kỹ năng. Cơ cấu ít nhiều mang tính hình thức và cố định tùy thuộc vào chức năng của nhóm. Ví dụ một tổ chức ở địa phương có Trưởng ban cán sự khu phố, các tổ trưởng - tổ phó tổ dân phố hay một nhóm hành động có chủ tịch, thư ký, thủ quỹ. Ngay cả một nhóm CLB cũng có trưởng - phó. Đó là chức vụ chính thức ai cũng biết và phải thông qua đó để làm việc với nhóm. b) Cơ cấu phi chính thức Là các mối liên hệ cá nhân và mức độ ảnh hưởng thật sự giữa các nhóm viên. Cơ cấu phi hình thức này rất quan trọng đối với bầu không khí nhóm và cả năng suất của nhóm về lâu về dài. Mối tương tác giữa hai cơ cấu hình thức và phi hình thức rất quan trọng. Lý tưởng nhất là sựăn khớp của chúng. Ví dụ trưởng nhóm chính thức cũng là người được nhóm viên ưa thích và nể nang nhất vì sự vận động sẽ suông sẻ dễ dàng và tâm lý nhóm thoải mái. Nếu trưởng nhóm tự áp đặt bằng sức mạnh (đại ca, đại bàng, tú bà,...), hay vì tinh thần gia trưởng thì có sự tuân thủ để hành động theo mục tiêu chung nhưng không có sự thỏa mãn tinh thần. Bước thành lập nhóm là bước chọn nhóm viên, thảo luận mục đích và chương trình sinh hoạt, phân công tổ chức. ở giai đoạn này nếu nhóm viên còn xa lạ thì hoạt động còn rời rạc. Nhóm viên liên hệ nhiều với NVXH hơn là giữa họ với nhau. Nếu là trẻ em thì ở giai đoạn này các em rất bát nháo và chúng ta không nên đánh giá vội các hành vi của trẻ trong giai đoạn này vì theo kinh nghiệm, chúng ta nhận thấy trẻ sẽ dần dần có sự chuyển biến tích cực trong hành vi ở những giai đoạn sau. Thông thường ở giai đoản này trẻ muốn được chú ý nên có những hành vi chống đối, không chịu hợp tác để thử thách những giới hạn của nhóm và của nhân viên xã hội. Nếu là một băng nhóm có sẵn thì các mối quan hệ không thuận lợi cho sự phát triển nhân cách vì còn chia rẽ, hay có sự khống chế của một hay vài cá nhân. Mục tiêu nhóm chưa mang tính xây dựng. NVXH phát hiện thực trạng nhóm và khéo léo diều chỉnh các mối tương quan và lái mục tiêu theo hướng tích cực. Điều cần lưu ý là nội dung ở mỗi giai đoạn bao gồm 5 lãnh vực cần quan tâm : 1. Hiểu biết về những vấn đề ban đầu cần được giải quyết (cả cá nhân và nhóm) 2. Ghi nhận các cảm xúc và hành vi của các thành viên lúc sinh hoạt thông qua các vấn đề. 3. Hiểu rõ ý nghĩa nội dung của các cuộc thảo luận và của các hành vi 4 4. Hiểu các công việc chính yếu được thực hiện bởi tổng thể nhóm và bởi các cá nhân thành viên. 5. Quan tâm đến các cảm xúc và hành vi của các thành viên, công việc này cần thiết cho việc giúp đỡ nhóm và các thành viên hoàn thành nhiệm vụ. 6. Một số công việc mà nhân viên xã hội phải hoàn thành: 7. Trong buổi sinh hoạt nhóm đầu tiền, nhân viên xã hội làm gì ? 8. Các công việc mà nhân viên xã hội cần làm trong buổi họp đầu tiên với một nhóm mới được liệt kê theo thứ tự như sau : • Tổ chức giới thiệu nhau, giúp hình thành môi liên lạc quen biết ban đầu và thu hút nhau và làm cho sự tham gia tích cực hơn. • Trình bày lý do nhóm được thành lập và mục đích của nhóm theo cách nhìn của cơ sở và của nhân viên xã hội, cho phép nhóm viên trình bày quan điểm của họ. • Cùng với nhóm là rõ các mong đợi về việc tại sao họ đến đây, họ thích làm gì và hy vọng đạt được cái gì ở nhóm. • Thảo luận về một thỏa thuận về phương cách cùng nhau làm việc và đặt ra các quy tắc nhóm. • Thảo luận với nhóm về chương trình hoạt động và phương pháp thực hiện và dựkiến cho nội dung buổi họp tiếp sau. • Cho nhóm biết rõ nhân viên xã hội hy vọng làm việc với nhóm như thế nào và vai trò của mình sẽ ra sao. • Bắt đầu thiết lập văn hóa nhóm ( ví dụ : hệ thống tương thân tương ái và chia sẽtrách nhiệm) Nhân viên xã hội cùng với nhóm : • Thiết lập các quy tắc nhóm • Đặt ra những giới hạn • Xác định hệ tống thưởng phạt • Đặt ra một số tiêu chuẩn của công việc • Phân công và giao trách nhiệm Ngoài ra, nhân viên xã hội phải dự kiến phương hướng quản lý xung đột thường xuất hiện ở giai đoạn 2 của tiến trình phát triển của nhóm. Xung đột thường xuất phát từ : • Cạnh tranh quyền lực, ảnh hưởng để xác định vị trí của mình trong nhóm • Cơ cấu phi chính thức ( cơ cấu ngầm) song song với cơ cấu chính thức • Việc thực thi các quy tắc của nhóm (do chưa quen vào khuôn khổ của các quy tắc) • Thời khóa biểu làm việc (do cách thể hiện tính cách của từng cá nhân trong việc tuân thủ giờ giấc) Bước xung đột này chấm dứt khi mối quan tâm riêng từ từ trùng khớp với mối quan tâm chung của mọi người trong nhóm để rồi tạo sự gắn kết khi bước qua giai đoạn ổn định của cuộc sống của nhóm. Ví dụ như trường hợp: Trước khi vào nhóm, một thành viên có tên bí danh là “Ba Lé”, một 5 ... - tailieumienphi.vn
nguon tai.lieu . vn