Xem mẫu

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Interdisciplinary Sci., 2013, Vol. 58, No. 10, pp. 116-123 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÁT TRIỂN BA KHU KINH TẾ Ở DẢI VEN BIỂN THANH - NGHỆ - TĨNH Hoàng Phan Hải Yến Khoa Địa lí, Trường Đại học Vinh Tóm tắt. Kể từ khi khu kinh tế ven biển đầu tiên là Chu Lai được thành lập vào năm 2003, đến nay cả nước đã có 18 khu kinh tế được thành lập ở dải ven biển, trong đó, có 3 khu kinh tế nằm ở dải ven biển Thanh - Nghệ - Tĩnh là Nghi Sơn, Đông Nam và Vũng Áng. Đây được xem là những hạt nhân trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn dải, tạo sức mạnh trong thu hút đầu tư, lao động và khai thác có hiệu quả những lợi thế vốn có của Thanh - Nghệ - Tĩnh. Từ khóa: Dải ven biển Thanh - Nghệ - Tĩnh, khu kinh tế. 1. Mở đầu Dải ven biển Thanh - Nghệ - Tĩnh (DVBTNT) có vị trí giao thông thuận lợi cả về đường bộ, đường biển và đường hàng không cùng nhiều tiềm năng, thế mạnh: đất đai màu mỡ, có nhiều loại tài nguyên có trữ lượng lớn, nguồn lao động dồi dào với độ tuổi lao động trẻ, trình độ tay nghề ngày càng được nâng cao có thể đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH đất nước. Với sức hấp dẫn của mình, DVBTNT đã và đang trở thành điểm đến của các nhà đầu tư. Hiện nay, trên địa bàn dải đã xuất hiện nhiều khu công nghiệp và đặc biệt là xuất hiện ba khu kinh tế: Nghi Sơn, Đông Nam và Vũng Áng, hàng năm đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách của ba tỉnh và nâng giá trị sản xuất của toàn dải đứng vị trí cao của khu vực Bắc Trung Bộ. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái quát về ba khu kinh tế (KKT) - KKT Nghi Sơn: là một KKT được thành lập theo QĐ số 102/2006/QĐ-TTg ngày 15/5/1006 tại huyện Tĩnh Gia, phía Nam tỉnh Thanh Hóa. Toàn bộ KKT Nghi Sơn có diện tích 18.611 ha, bao trùm 12 xã của huyện Tĩnh Gia (Hải Bình, Xuân Lâm, Tĩnh Hải, Hải Yến, Mai Lâm, Hải Thượng, Hải Hà, Nghi Sơn, Trúc Lâm, Trường Lâm, Tùng Lâm, Tân Ngày nhận bài 02/10/2013. Ngày nhận đăng 12/12/2013. Liên lạc Hoàng Phan Hải Yến, e-mail: hoangphanhaiyen@yahoo.com 116
  2. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong phát triển ba khu kinh tế ở dải ven biển... Trường). Các ngành được chú trọng đầu tư phát triển trong KKT Nghi Sơn là: công nghiệp lọc hóa dầu, luyện cán thép, cơ khí đóng tàu, nhiệt điện, xi măng, vật liệu xây dựng, dệt may, da giày, chế biến thủy sản. - KKT Đông Nam: thành lập theo quyết định số 85/2007/QĐ-TTg, ngày 11/6/2007, có diện tích rộng 18.826 ha. Phạm vi của khu kinh tế gồm 18 xã, phường thuộc các huyện Nghi Lộc, Diễn Châu và Thị xã Cửa Lò. Các ngành được chú trọng đầu tư phát triển trong KKT Đông Nam là: sản xuất nhiên liệu ethanol, chế biến gỗ, sản xuất phân bón tổng hợp, lắp ráp và sữa chữa máy nông nghiệp, sản xuất vật liệu và thiết bị điện, dệt may. - KKT Vũng Áng: được thành lập theo QĐ số 72/2006/QĐ-TTg ngày 3/4/2006 tại huyện Kỳ Anh, phía Nam tỉnh Hà Tĩnh, có diện tích rộng 22.781 ha. Phạm vi của khu kinh tế gồm các xã Kỳ Nam, Kỳ Phương, Kỳ Lợi, Kỳ Long, Kỳ Liên, Kỳ Thịnh, Kỳ Trinh, Kỳ Hà và Kỳ Ninh thuộc huyện Kỳ Anh, Tỉnh Hà Tĩnh. Các ngành được chú trọng đầu tư phát triển trong KKT Vũng Áng là: công nghiệp luyện kim gắn với lợi thế về tài nguyên, nguồn nguyên liệu (mỏ Sắt, mỏ Titan. . . ); các ngành công nghiệp gắn với khai thác cảng biển; các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động; các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu. Các KKT ở DVBTNT được thành lập dựa trên cơ sở điều kiện thuận lợi về vị trí địa lí gần các tuyến đường giao thông huyết mạch nối liền cả nước như quốc lộ 1A, gần các tuyến đường quốc lộ nối liền với Lào và Thái Lan, trên các tuyến đường biển nối với Trung Quốc, Nhật Bản, các nước Đông Nam Á. . . ; trên cơ sở các KCN, các cảng biển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trong khu vực Bắc Trung Bộ, tạo sự liên kết phát triển giữa các tỉnh trong cả nước, đặc biệt phát triển vùng Nam Thanh Hóa - Bắc Nghệ An, Nam Hà Tĩnh - Bắc Quảng Bình. Các KKT bao gồm hai tiểu khu vực là khu phi thuế quan và khu thuế quan. Khu phi thuế quan gắn với các cảng biển như Nghi Sơn, Cửa Lò, Vũng Áng. Khu thuế quan bao gồm các KCN, khu chế xuất, khu cảng và dịch vụ hậu cần cảng, khu đô thị, khu vui chơi giải trí, khu du lịch - dịch vụ, khu dân cư và khu hành chính... 2.2. Thực trạng phát triển 2.2.1. Sử dụng đất Theo thống kê của chúng tôi (Bảng 1), hiện trạng sử dụng đất có sự khác nhau giữa các KKT ở DVBTNT. Bảng 1. Hiện trạng sử dụng đất của các KKT ở DVBTNT đến năm 2011 [1, 2, 3, 4] Chỉ tiêu ĐVT Nghi Sơn Đông Nam Vũng Áng Diện tích đất quy hoạch ha 18.611,0 18.826,0 22.781,0 Diện tích đất đã thu hồi ha 18.611,0 18.826,0 22.781,0 Diện tích đất công nghiệp dành cho thuê ha 2.050,0 9.177,0 12.851,2 Diện tích đất công nghiệp đã cho thuê ha 804,3 610,2 5.654,5 Diện tích đất công nghiệp chưa cho thuê ha 1.245,7 8.566,8 8.634,1 Tỉ lệ lấp đầy % 39,2 6,6 44,0 117
  3. Hoàng Phan Hải Yến Trong tổng diện tích đất quy hoạch, tỉ lệ thu hồi đất của cả 3 KKT đều đạt 100%, nhưng diện tích đất công nghiệp dành cho thuê có sự khác nhau, KKT Vũng Áng có diện tích lớn nhất, tiếp đến là KKT Đông Nam và cuối cùng là KKT Nghi Sơn; tỉ lệ lấp đầy lớn nhất ở KKT Vũng Áng với 44%, tiếp theo là KKT Nghi Sơn với 39,2%, trong khi đó KKT Đông Nam mới chỉ đạt 6,6%. 2.2.2. Thu hút đầu tư và lao động - Số dự án sản xuất kinh doanh đến năm 2011 của các KKT DVBTNT là 161 (chiếm 35,1% tổng số dự án của các KKT ven biển Việt Nam), trong đó có 38 dự án nước ngoài, 123 dự án trong nước (chiếm tuơng ứng 36,5% và 34,6% tổng số dự án của các KKT ven biển Việt Nam), trong số này có 9 dự án nước ngoài và 41 dự án trong nước đang sản xuất kinh doanh. + Tổng số vốn đăng kí dự án sản xuất kinh doanh của các KKT DVBTNT là 15.229,5 triệu USD của nước ngoài và 112.596,3 tỉ đồng của trong nước (chiếm tương ứng là 45,4% và 19,5% tổng số vốn đăng kí của các KKT ven biển Việt Nam), trong đó vốn đầu tư thực hiện nước ngoài là 347,3 tỉ USD và của trong nước là 15.222,9 tỉ đồng. + Quy mô vốn đầu tư trung bình trên một dự án nước ngoài đạt 400,8 tỉ USD/dự án, trên một dự án trong nước đạt 915,4 tỉ đồng/dự án. + Trên cơ sở nguồn vốn đầu tư trong nước và FDI vào các KKT DVBTNT tính đến 2011, có thể thấy mức độ đầu tư vào các KKT DVBTNT tương đối nhanh, mặc dù quá trình thành lập và phát triển của các KKT này mới chỉ 6 năm trở lại đây. Không tính các dự án đang hoàn thiện thủ tục đầu tư, nếu dựa trên số diện tích đã cho thuê thực hiện các dự án thì các KKT DVBTNT có tỉ lệ vốn đầu tư trên một đơn vị diện tích đạt 15,9 tỉ đồng/ha; đây là tỉ lệ tương đối cao so với các KKT khác trong vùng BTB. + Các KKT ở DVBTNT thu hút ngày càng nhiều lao động. Nếu năm 2008, số lao động làm việc trong các KKT chỉ có 3.689 người thì đến năm 2011 đã là 10.776 người, tăng gấp 2,9 lần, chiếm 45,6% tổng số lao động làm việc trong các KKT ven biển Việt Nam. Trung bình mỗi năm tăng 1.771,8 lao động. 2.2.3. Sản xuất kinh doanh + GTSX: Như Bảng 2, GTSX của các KKT ở DVBTNT ngày càng tăng. Năm 2008, GTSX là 3.473,6 tỉ đồng, đến năm 2011 đạt 5.880,5 tỉ đồng, tăng gấp 1,7 lần, tốc độ gia tăng GTSX trung bình giai đoạn 2008 - 2011 là 19,2%/năm. Trong tổng GTSX, KKT Nghi Sơn có tỉ trọng lớn nhất, chiếm 65,1%. Đó là do các doanh nghiệp hoạt động trong KKT đã tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước (vật liệu xây dựng, xi măng, thủy sản. . . ), tạo nguồn doanh thu và lợi nhuận lớn cho KKT; tuy nhiên, năm 2011 so với 2010 GTSX có giảm đi do các sản phẩm công nghiệp như: ống cốt sợi thủy tinh, gạch, xi măng, bia chịu sự cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại trên thị trường, khả năng tiêu thụ giảm. KKT Đông Nam có GTSX tương đối cao và tăng nhanh qua các năm, từ 201,9 tỉ đồng năm 2008 lên 1.225,5 tỉ đồng năm 2011, chiếm 20,8% tổng GTSX của các KKT DVBTNT. Nguyên nhân do các sản phẩm như: vật liệu xây dựng, đá vôi trắng, hải sản, 118
  4. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong phát triển ba khu kinh tế ở dải ven biển... gỗ, thức ăn gia súc... đạt doanh thu lớn trong những năm vừa qua. Bảng 2. Thực trạng sản xuất kinh doanh của các KKT ở DVBTNT giai đoạn 2008 - 2011 [1, 2, 3, 4] Tiêu chí Năm 2008 Năm 2010 Năm 2011 1. GTSX (tỉ đồng) 3.473,6 5.710,5 5.880,5 - KKT Nghi Sơn 3.057,6 4.180,2 3.828,6 - KKT Đông Nam 201,9 871,0 1.225,5 - KKT Vũng Áng 214,1 659,3 826,4 2. Doanh thu (tỉ đồng) 2.822,1 6.148,7 8.405,0 - KKT Nghi Sơn 2.446,1 4.114,1 5.152,1 - KKT Đông Nam 200.8 1.398,9 2.432,4 - KKT Vũng Áng 175,2 635,7 820,5 3. Xuất khẩu (triệu USD) 69,9 639,2 680,3 - KKT Nghi Sơn - 9,9 36,3 - KKT Đông Nam 62,6 619,7 634,2 - KKT Vũng Áng 7,3 9,6 9,8 4. Nộp ngân sách (tỉ đồng) 245,7 426,4 478,0 - KKT Nghi Sơn 191,4 228 251 - KKT Đông Nam 52,2 195,2 222,9 - KKT Vũng Áng 2,1 3,2 4,1 GTSX của KKT Vũng Áng mặc dù có xu hướng tăng qua các năm từ 214,1 tỉ đồng năm 2000 lên 826,4 tỉ đồng năm 2011 nhưng vẫn chiếm tỉ trọng thấp nhất, chiếm 14,1%. Do trong những năm vừa qua, việc khai thác mỏ sắt Thạch Khê và sa khoáng Titan kém hiệu quả nên các dịch vụ thông qua cảng Vũng Áng đạt hiệu suất thấp, đồng thời nhiều doanh nghiệp hoạt động trong KKT tự động rút vốn hoặc thu hẹp quy mô sản xuất. Năng suất lao động của các KKT DVBTNT tương đối cao nhưng lại có xu hướng giảm. Năm 2008 năng suất lao động đạt 941,6 triệu đồng/lao động, đến năm 2011 giảm xuống còn 545,7 triệu đồng/lao động do ảnh hưởng của khủng khoảng kinh tế và sự ổn định trong sản xuất chưa cao. + Doanh thu: Tốc độ gia tăng doanh thu của các KKT ở DVBTNT khá nhanh và đều qua các năm, giai đoạn 2008 - 2010 tăng 47,6%, giai đoạn 2010 - 2011 tăng 36,7%, đạt 8.405,0 tỉ đồng vào năm 2011, chiếm 6,1% doanh thu của các KKT Việt Nam. Tỉ lệ doanh thu/GTSX tăng nhanh từ 81,2% năm 2008 lên 142,9% năm 2011. Điều này do sự gia tăng của các dịch vụ bổ trợ trong các KKT. + Giá trị xuất khẩu: Tăng liên tục qua các năm. Năm 2008, giá trị xuất khẩu đạt 69,9 triệu USD đến năm 2011 tăng lên 680,3 triệu USD; tốc độ tăng trung bình giai đoạn 2008 - 2011 đạt 113,5%/năm. Có được tốc độ tăng trưởng cao như vậy là do một số sản phẩm trong KKT có mức xuất khẩu tăng vọt như đá trắng, bột đá, thủy sản, dăm gỗ, bột gỗ, linh kiện điện tử. . . Mặc dù có GTSX và doanh thu đứng đầu trong 3 KKT, nhưng KKT Nghi Sơn có giá trị xuất khẩu thấp nhất, chỉ chiếm 5,3% giá trị xuất khẩu năm 2011 do sản phẩm làm 119
  5. Hoàng Phan Hải Yến ra chủ yếu tiêu thụ trong nước, các sản phẩm thực sự có chất lượng còn ít để có thể cạnh tranh được với các KKT khác của Việt Nam cũng như nước ngoài; đồng thời cũng do ảnh hưởng ít nhiều của khủng khoảng kinh tế. Trong khi đó, KKT Đông Nam có giá trị xuất khẩu chiếm ưu thế tuyệt đối với 93,2% năm 2011, do trong thời gian qua, KKT Đông Nam với những chính sách hỗ trợ và ưu đãi trong sản xuất, chú trọng sản xuất những sản phẩm có chất lượng dựa vào lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và lao động, làm tốt khâu quảng bá và tiếp thị sản phẩm. + Nộp ngân sách: Trong thời gian qua, việc nộp ngân sách của các KKT DVBTNT đang có sự chuyển biến rõ rệt. Giá trị nộp ngân sách của các KKT không ngừng tăng qua các năm từ 245,7 tỉ đồng năm 2008 lên 478,0 tỉ đồng năm 2011. Đây là dấu hiệu tích cực trong việc chấp hành tốt quy định nộp thuế của các doanh nghiệp hoạt động trong các KKT. 2.3. Một số vấn đề đặt ra Nhìn chung, các KKT ở DVBTNT bước đầu đi vào hoạt động đã khẳng định được vị trí của mình, làm thay đổi không gian công nghiệp, góp phần gắn kinh tế biển với công nghiệp và dịch vụ, tạo việc làm cho hơn 10,7 nghìn lao động, nâng cao trình độ KH - CN, chất lượng nguồn lao động. Ở chừng mực nhất định, sự phát triển của các KKT cũng góp phần đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá tại các khu vực quy hoạch. Các doanh nghiệp đã được cấp phép và đi vào hoạt động trong KKT, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp đã tạo ra được một số sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị truờng trong và ngoài nước: đá trắng, bột đá siêu mịn, gỗ ép... đây cũng là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của KKT, đem lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể. Tuy nhiên, sự hình thành và phát triển các KKT ở DVBTNT còn thiếu sự hợp tác, liên kết giữa các địa phương trong dải nhằm phát huy thế mạnh của từng địa phương và chưa tạo được sự phát triển tổng thể theo định hướng quy hoạch chung của toàn dải. Chính điều này đã dẫn đến sự cạnh tranh, dàn trải, phân tán trong thu hút nguồn lực. Các KKT ở DVBTNT đều có những đặc điểm đầu tư gần giống nhau về các ngành và gắn với xây dựng cảng nước sâu. Đặc biệt, các cảng nước sâu ở đây đều là các cảng nhỏ, năng lực và trình độ chuyên môn còn hạn chế, thị trường giới hạn trong phạm vi địa phương. Tất cả những điều đó ảnh hưởng lớn đến đầu tư các ngành mũi nhọn, các lĩnh vực đột phá của từng KKT. Cơ sở hạ tầng kĩ thuật thiết yếu, quan trọng như: Cảng biển, đường giao thông, cấp điện, cấp nước phục vụ cho KKT nhìn chung còn yếu và thiếu đã ảnh hưởng không nhỏ đến công tác vận động thu hút đầu tư hiện nay. Các dự án xây dựng các tuyến đường giao thông chất lượng cao, đặc biệt như hệ thống đường cao tốc chưa được triển khai cụ thể. Còn thiếu những dự án động lực lớn để đẩy nhanh sự phát phát triển của KKT trên địa bàn. Những chính sách đầu tư thời gian qua quá dàn trải theo kiểu “dàn hàng ngang mà tiến”, chủ yếu là dựa vào nguồn ngân sách nhà nước. Tình trạng đầu tư phân tán cộng với việc chưa có cơ chế chính sách ưu đãi mang tính đột phá, cụ thể, nhất quán áp dụng cho phát triển KKT cũng là nguyên nhân khiến KKT phát triển chưa theo đúng mục tiêu 120
  6. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong phát triển ba khu kinh tế ở dải ven biển... đề ra và chưa thu hút được đầu tư nước ngoài cũng như trong nước vào KKT sản xuất kinh doanh, nhất là các dự án có quy mô lớn và quan trọng. Thực tế cho thấy, chính sách ưu đãi áp dụng đối với KKT mới chỉ quy định ở tầm Luật, Nghị định chuyên ngành nên chưa thực sự hình thành các cơ chế chính sách đặc thù đặc biệt, tạo môi trường đầu tư kinh doanh đặc biệt thuận lợi như mục tiêu ban đầu đề ra. Trong khi đó, việc thay đổi chính sách quá nhanh, như trong chính sách thuế khiến doanh nghiệp bị động trong đề ra chiến lược đầu tư sản xuất kinh doanh. Sự phát triển các KKT dẫn đến rất nhiều áp lực lên tài nguyên đất, nhất là đất nông nghiệp. Ví dụ như KKT Nghi Sơn lấy đất sản xuất nông nghiệp và đất nuôi trồng thủy sản của 12 xã thuộc huyện Tĩnh Gia, đây là những diện tích đất chuyển đổi vĩnh viễn, không có thể hồi phục lại thành đất nông nghiệp nữa. Điều này thấy rõ trong việc trải thảm đỏ về cơ sở hạ tầng, nhất là cung cấp các điều kiện hết sức thuận lợi cho các nhà đầu tư vào các KKT; trong đó, đặc biệt ưu tiên là về vị trí, đất đai, về khả năng cung ứng tài nguyên, vị thế khu vực và những ưu đãi về cơ sở hạ tầng, làm nảy sinh mâu thuẫn giữa phát triển công nghiệp và phát triển nông nghiệp. Ngoài ra, sự phát triển của các KKT đã dẫn đến rất nhiều hệ lụy về môi trường như môi trường đất, nước và không khí do tình trạng san lấp mặt bằng, chất thải từ các nhà máy sản xuất. . . Về nguồn nhân lực trong các KKT, so với tổng số người lao động thì số người được đào tào nghề còn quá ít, chất lượng lao động đã qua đào tạo nhìn chung còn thấp, nhất là chất lượng lao động trong nông nghiệp. Đào tạo ngắn hạn vẫn chiếm ưu thế hơn đào tạo chính quy, dài hạn; cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu của việc dạy và học. Tương quan giữa trình độ đại học, trung học chuyên nghiệp và công nhân kĩ thuật còn hết sức bất hợp lí: 1 đại học; 0,5 trung học chuyên nghiệp; 0,2 công nhân kĩ thuật (trong khi tỉ lệ này ở các nước phát triển là: 1 - 4 - 10). Mặt khác, nguồn nhân lực có trình độ cao chủ yếu tập trung ở các thành phố, trong các trường đại học, cao đẳng và các cơ quan ban ngành cấp tỉnh. Tỉ trọng nông nghiệp còn lớn trong cơ cấu kinh tế, nhưng lực lượng lao động qua đào trong nông nghiệp mới chỉ đạt 15,4%. 2.4. Một số giải pháp nhằm phát triển các KKT trong tương lai - Phát triển KKT phải gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng địa phương và của toàn dải theo hướng CNH - HĐH; lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cao nhất và bảo đảm phát triển bền vững; phát triển KKT phải hướng tới hiện đại; đảm bảo sử dụng một cách hiệu quả cả quỹ đất, mặt nước và không gian của KKT, phải hướng tới hình thành khu chức năng nòng cốt, chủ đạo và gắn kết chặt chẽ với phát triển vùng. Điều đó còn gắn liền với vùng lãnh thổ liền kề KKT, hệ thống trị trấn, thị tứ của quá trình CNH nông thôn, của vùng ngoại vi nông nghiệp của các đô thị ở DVBTNT. - Phải có sự liên kết chặt chẽ giữa các KKT ở DVBTNT, trong đó xác định chức năng của từng KKT; KKT Nghi Sơn chuyên về hóa lọc dầu và sản xuất xi măng; KKT Vũng Áng phát triển công nghiệp luyện kim và cơ khí; KKT Đông Nam tập trung vào công nghiệp đóng mới và sữa chữa tàu thuyền, công nghiệp hàng tiêu dùng, điện tử, vật liệu xây dựng, các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và các ngành công nghiệp 121
  7. Hoàng Phan Hải Yến định hướng xuất khẩu với chức năng phụ trợ cho KKT Vũng Áng và Nghi Sơn. - Cần nâng cao chất lượng, hiệu quả và bảo đảm tính hệ thống trong quy hoạch KKT và hệ thống đô thị ven biển đồng bộ trong không gian môi truờng - kinh tế - xã hội. Quy hoạch các KKT phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch đất đai, quy hoạch điểm dân cư, thành phố, khu đô thị. Quy hoạch KKT không chỉ nói chung về bố trí địa điểm, vị trí của khu, mà còn phải tính tới cả hướng bố trí ngành công nghiệp, sản phẩm sẽ sản xuất, phù hợp với đặc điểm dân cư, khả năng đất đai, tài nguyên, giá cả lao động và yêu cầu về môi trường của từng khu vực. Điều đáng nói ở đây là cần phải xác định rõ quy mô hợp lí của các KKT, xác định rõ có định lượng và dự báo quy mô cũng như chức năng hợp lí của các đô thị ven biển trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên và không gian của DVBTNT. - Không nên coi KCN nằm trong các KKT là chỉ có sản xuất công nghiệp và cần phải có hàng rào riêng. Đặc biệt là, xây dựng KCN hiện nay, không phải chỉ với mục tiêu thu hút bằng mọi cách vốn đầu tư, mà còn phải đặt ra những yêu cầu về tính hiệu quả, tính bền vững và khả năng lan toả cho các khu vực khác. - Phát triển các mô hình KKT mới phải gắn với cơ chế chính sách đặc thù theo hướng mở (ví dụ như: thành phố công nghiệp) để tạo bước đột phá phát triển cho các KKT; trước mắt, lựa chọn KKT Nghi Sơn và KKT Vũng Áng, có khả năng tạo sức phát triển lan toả mạnh để thí điểm theo định hướng cụ thể là: chuyển từ KKT mang tính tận dụng lao động, điều kiện tự nhiên để thu hút các nhà đầu tư thuộc nhiều ngành nghề sản xuất khác nhau với mục tiêu lấp đầy KKT thành những KKT mang tính sản xuất và chế biến chuyên môn hoá ngày càng cao và với mục tiêu hiệu quả kinh tế đặt ra là chủ yếu. - Cần phải có những chính sách cụ thể, triển khai xúc tiến đầu tư bằng mọi phương thức và phương tiện cụ thể. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đối với các dự án trọng điểm có sản phẩm chủ lực, mang tính quyết định đến sự thành công hay thất bại trong việc thực hiện mục tiêu quy hoạch như các dự án khai thác chế biến đá ốp lát, đá thủ công mỹ nghệ và bột đá siêu mịn, xây dựng cảng nước sâu, cảng container, xây dựng nhà máy sản xuất sản phẩm điện tử, vi điện tử, điện dân dụng, các thiết bị phụ trợ công nghệ cao, các dự án xây dựng khu du lịch sinh thái và nghĩ dưỡng. . . - Các KKT DVBTNT cần mở rộng và khai thác lợi thế “ba ven” của mình: ven biển, ven sông và ven biên giới nhằm góp phần vào sự hoàn thiện và phát triển công cuộc mở cửa. Bởi vùng ven biển có ưu thế về kĩ thuật, kinh tế, còn vùng ven sông và ven biên giới có ưu thế về tài nguyên thiên nhiên. Đối với ven biển cần hình thành một dải mở từ Bắc xuống Nam nhằm mục tiêu xây dựng cơ cấu ngành sản xuất và khai thác thị trường thế giới, thúc đẩy nâng cấp kĩ thuật. Đối với ven sông cần tiến hành khai thác trọng điểm một số khu vực ven sông như: khai thác cát, nguồn nước, khai thác thủy điện. Đối với ven biên giới, khai thác mối quan hệ với Lào, xa hơn nữa là vùng Đông Bắc của Thái Lan để tìm kiếm thị trường và tài nguyên. - Xây dựng các tuyến giao thông ven biển nối liền các KKT làm cơ sở để tạo mối liên kết, tương hỗ lẫn nhau giữa các KKT, làm tiền đề hình thành trục động lực phát triển ven biển, trong đó có sự phân công chặt chẽ trong phát triển ngành, lĩnh vực giữa các 122
  8. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong phát triển ba khu kinh tế ở dải ven biển... KKT. Huy động tổng hợp các nguồn vốn (ODA, FDI, Ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ) để tiếp tục đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu, quan trọng trong các KKT để tạo điều kiện đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển các KKT. Xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia cho các KKT trên tầm toàn DVBTNT tại nước ngoài vào thời điểm thích hợp, trước mắt có thể xây dựng trang Web chung cho các KKT để quảng bá thương hiệu KKT DVBTNT. 3. Kết luận Việc hình thành và phát triển các KKT DVBTNT trong thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tạo được “điểm nhấn” rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của DVBTNT, thể hiện những chính sách đúng đắn của ba tỉnh ven biển Thanh - Nghệ - Tĩnh trong thu hút đầu tư. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được thì KKT vẫn còn bộc lộ những nhược điểm, hạn chế sức cạnh tranh do cơ cấu, cơ chế, chất lượng nguồn nhân lực, hạ tầng, môi trường. . . Vì vậy, các giải pháp được đặt ra nhằm góp phần khắc phục những hạn chế và nhược điểm nêu trên. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Ban quản lí khu kinh tế Vũng Áng, 2012. Các số liệu tổng kết công tác hoạt động sản xuất kinh doanh của khu kinh tế Vũng Áng đến năm 2012. [2] Ban quản lí khu kinh tế Nghi Sơn, 2012. Báo cáo phát triển KKT Nghi Sơn giai đoạn 2008 - 2011. [3] Ban quản lí khu kinh tế Đông Nam, 2012. Báo cáo tổng kết hoạt động của Ban quản lí khu kinh tế Đông Nam Nghệ An năm 2012 và định hướng lế hoạch năm 2013. [4] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2012. Báo các kế hoạch phát triển khu công nghiệp, khu kinh tế năm 2013. Hà Nội. [5] Cục Thống kê các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, 2012. Niên giám thống kê 2011. Nxb Thống kê. [6] Nguyễn Quang Thái, 2010. Vấn đề phát triển các khu kinh tế mở hiện đại vùng ven biển Việt Nam. Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, 2010. ABSTRACT The current situation and concerns regarding the development of three economic zones in costal areas Thanh - Nghe - Tinh Since the establishment of the first coastal economic zone of Chu Lai in 2003, 18 economic zones have been established along the coast of Vietnam. Three of those were established on the coast of Thanh - Nghe - Tinh in Nghi Son, Dong Nam and Vung Ang. They are considered a nucleus in promoting economic and social development along of the entire coast line, improving the ability to attract investment, laborers and effectively exploit the inherent advantages of Thanh - Nghe - Tinh. 123
nguon tai.lieu . vn