- Trang Chủ
- Giáo dục học
- Thực trạng và giải pháp phân luồng học sinh sau trung học cơ sở vào giáo dục nghề nghiệp
Xem mẫu
- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
PHÂN LUỒNG HỌC SINH SAU TRUNG HỌC CƠ SỞ
VÀO GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
Phan Văn Kha*
TÓM TẮT:
Phân luồng học sinh (PLHS) sau Trung học cơ sở (THCS) là định hướng phân bổ tỉ
lệ học sinh sau khi tốt nghiệp THCS đi vào các luồng, trong đó có luồng vào giáo dục nghề
nghiệp(GDNN) để tiếp tục học tập theo các chương trình giáo dục khác nhau hoặc tham gia
thị trường lao động; tùy thuộc vào năng lực, sở trường, nguyện vọng và đặc điểm tâm sinh
lí của bản thân học sinh và nhu cầu nhân lực của nền kinh tế, tạo cơ hội được học tập suốt
đời cho mọi người, hướng tới xây dựng xã hội học tập. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua,
PLHS sau THCS vào giáo dục nghề nghiệp (GDNN) gặp nhiều khó khăn, không đạt được
mục tiêu đặt ra, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Để thực hiện thành công
PLHS sau THCS vào GDNN, trước hết đòi hỏi phải thay đổi nhận thức của cộng đồng, xã
hội, của mọi người dân, của chính bản thân học sinh và phụ huynh học sinh về nghề nghiệp
và GDNN; có chính sách, giải pháp can thiệp và điều tiết của nhà nước, các giải pháp trực
tiếp của các trường, doanh nghiệp; đòi hỏi sự nỗ lực không chỉ của ngành Giáo dục và Đào
tạo và Lao động, Thương binh và Xã hội, mà của tất cả các cấp, các ngành, các địa phương
và của toàn xã hội.
Từ khóa: Phân luồng học sinh sau Trung học cơ sở; liên thông; hệ thống giáo dục; giáo
dục nghề nghiệp, hướng nghiệp.
Đặt vấn đề
Có nhiều ý kiến cho rằng phân luồng học sinh (PLHS) sau trung học cơ sở
(THCS) là trách nhiệm của riêng ngành giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), hướng nghiệp
là con đường duy nhất để thực hiện được điều đó. Tuy nhiên, lý luận và thực tiễn cho
thấy PLHS nói chung và PLHS sau THCS nói riêng là vấn đề hết sức phức tạp, không
chỉ là vấn đề của ngành GD&ĐT như nhiều ý kiến đã lầm tưởng, mà là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị, không chỉ là trách nhiệm điều tiết của nhà nước các cấp, của
Chính phủ, của các bộ ngành và địa phương, mà còn là nhiệm vụ của các trường phổ
thông, của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp (GDNN) và giáo dục đại học (GDĐH), của
các doanh nghiệp - đơn vị sử dụng nhân lực và của cả học sinh, phụ huynh học sinh.
Trong những năm qua, PLHS sau THCS đã có những kết quả bước đầu. Tuy nhiên,
trên thực tế việc PLHS sau THCS vẫn còn không ít khó khăn, thách thức. Nếu thắng
* Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam
173
- thắn nhìn nhận thì PLHS không đạt được mục tiêu như kỳ vọng, nếu không muốn nói
là thất bại trong lĩnh vực này.
Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả sẽ đề cập tới bản chất và mục tiêu của
PLHS sau THCS, thực trạng và nguyên nhân của thực trạng, những giải pháp khắc
phục trong thời gian tới.
1. Bản chất và mục tiêu của phân luồng học sinh sau THCS
Phân luồng học sinh sau THCS là định hướng phân bổ tỷ lệ học sinh sau khi tốt
nghiệp THCS hướng đi vào các luồng để tiếp tục học tập theo các chương trình giáo
dục khác nhau hoặc tham gia vào thị trường lao động (TTLĐ), tùy thuộc vào năng
lực, sở trường, nguyện vọng của bản thân học sinh và điều kiện thực tế, nhu cầu nhân
lực của xã hội.
Phân luồng học sinh sau THCS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mỗi cá
nhân và toàn xã hội, nó góp phần cung ứng nguồn nhân lực với cơ cấu phù hợp với
nhu cầu của nền kinh tế, tạo cơ hội được học tập suốt đời cho mọi người, hướng tới
xây dựng xã hội học tập (XHHT).
Phân luồng học sinh sau THCS nhằm định hướng cho học sinh lựa chọn hướng
đi: 1) Phù hợp với năng lực, sở trường, nguyện vọng, hoàn cảnh và đặc điểm tâm sinh
lý của của bản thân học sinh, tạo cơ hội cho họ tiếp tục học tập có hiệu quả; 2) Phù
hợp với yêu cầu nhân lực của xã hội, của nền kinh tế; góp phần điều chỉnh cơ cấu trình
độ và ngành nghề đào tạo nhân lực, đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu nhân lực,
phù hợp với chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế là một nhiệm
vụ trọng tâm của đổi mới giáo dục qua mọi thời kỳ; 3) Tạo điều kiện cho người học dễ
dàng chuyển đổi giữa các chương trình giáo dục, học thường xuyên, học suốt đời, góp
phần từng bước xây dựng XHHT. Phân luồng học sinh sau THCS rất có ý nghĩa đối
với mỗi cá nhân và toàn xã hội. Vì vậy, PLHS sau THCS đã được đề cập trong nhiều
văn kiện của Đảng, Nhà nước, được ngành GD&ĐT và toàn xã hội quan tâm.
Chủ trương PLHS đã được khẳng định trong các văn kiện của Đảng qua các kỳ
đại hội. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát
triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000 đã xác
định GD&ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; mọi người
đi học, học thường xuyên, học suốt đời; đa dạng hoá các loại hình GD&ĐT, tạo cơ hội
cho mọi người có thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của mình.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X đã xác định phương hướng, nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 là: “...bảo đảm công bằng về cơ hội học tập
cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời...; Hoàn chỉnh
và ổn định lâu dài hệ thống giáo dục quốc dân (HTGDQD); chú trọng phân luồng
đào tạo sau THCS; bảo đảm liên thông giữa các cấp đào tạo... Yêu cầu về tăng cường
PLHS sau THCS tiếp tục được đề cập tại Chỉ thị của Bộ Chính trị số 10-CT/TW về
174
- phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập GDTH và THCS
và xóa mù chữ cho người lớn.
Đặc biệt, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 14/11/2013 của Đảng về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã khẳng định mục tiêu: “...Bảo đảm cho học sinh
có trình độ THCS có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh
sau THCS, THPT phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ
thông có chất lượng....”. (1)
Chủ trương phân luồng mạnh sau THCS đã được cụ thể hóa chủ trong Chiến
lược phát triển giáo dục 2011-2020 và các văn bản pháp quy. Quyết định số 1981/
QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Khung cơ cấu
HTGDQD đã xác định học sinh tốt nghiệp THCS có thể học tiếp theo một trong 4
luồng sau: 1) Trung học phổ thông; 2) Sơ cấp GDNN; 3) Trung cấp GDNN; 3) THPT
bổ túc văn hóa theo hệ giáo dục thường xuyên. (3)
Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng PLHS trong giáo dục phổ thông
giai đoạn 2018-2025” ban hành theo Quyết định số 522/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 14/5/2018 đã xác định mục tiêu đến năm 2020 có ít nhất 30% học
sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học tập tại các cơ sở GDNN đào tạo trình độ sơ cấp,
trung cấp; đối với các địa phương có Điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đạt
ít nhất 25%; đến năm 2025, có ít nhất 40% học sinh tốt nghiệp THCS tiếp tục học tập
tại các cơ sở GDNN đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp; đối với các địa phương có Điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đạt ít nhất 30%. (4)
2. Thực trạng phân luồng học sinh sau THCS
Những năm vừa qua, mặc dù công tác PLHS sau THCS và cấp THPT có chuyển
biến tích cực, nhưng nhìn chung vẫn còn không ít khó khăn, thách thức.
Theo Đỗ Thị Bích Loan, phần lớn các tỉnh/thành đều có hơn 70% học sinh tốt
nghiệp THCS học tiếp lên THPT, thậm chí có địa phương hơn 80%. Tỷ lệ học sinh
tốt nghiệp THCS vào học sơ cấp và trung cấp nghề, TCCN thấp; còn một tỷ lệ không
nhỏ học sinh tốt nghiệp THCS tham gia TTLĐ mà không qua đào tạo đã làm ảnh
hưởng đến chất lượng và cơ cấu đào tạo của lực lượng lao động. Năm 2015, tỷ lệ phân
luồng toàn quốc ở cấp THCS: Vào THPT 76%, vào trung tâm giáo dục thường xuyên
- GDNN 7%, vào trung cấp chuyên nghiệp 3%, trung cấp nghề 5%, đi làm 9%. (10)
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, bất cập trong PLHS sau THCS có thể
khái quát như sau:
(1) Ở nước ta, tâm lý chạy theo bằng cấp còn nặng nề. Văn hóa “khoa bảng”,
“bằng cấp” đã ăn sâu vào tiềm thức của mọi người dân; mọi phụ huynh học sinh đều
mong muốn con, em mình vào học để có tấm bằng đại học, thậm chí muốn có bằng
cấp cao hơn nữa; ngược lại không muốn con, em mình vào học các trường thuộc hệ
thống GDNN. Văn hóa đó không dễ để một sớm một chiều có thể thay đổi.
175
- (2) Các mô hình trường vừa kết hợp dạy nghề và dạy văn hóa tương đương THPT,
đã đưa vào thử nghiệm trong thực tiễn, phù hợp với nguyện vọng và nhu cầu của học
sinh THCS và phụ huynh học sinh, đã bị xóa sổ mà không rõ nguyên nhân, mặc dù
chưa được tổng kết, đánh giá và báo cáo trình các cấp có thẩm quyền quyết định.
Mô hình trường “Trung học nghề” (THN) đã được triển khai xây dựng và thử
nghiệm từ thập niên 80 của thể kỷ trước, khẳng định chỗ đứng trong hệ thống GD
một thời gian dài, được xã hội đánh giá cao, đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu của học
sinh và phụ huynh học sinh. Trường THN tuyển học sinh tốt nghiệp THCS, sau thời
gian đào tạo 3 năm, người học vừa có trình độ công nhân kỹ thuật/nhân viên nghiệp
vụ lành nghề để có thể trực tiếp tham gia TTLĐ, đồng thời có trình độ văn hóa tương
đương THPT, để khi có nhu cầu và điều kiện các em có thể học liên thông (LT) tiếp
lên CĐ, ĐH. Thật là đáng tiếc, từ khi chuyển đổi vai trò quản lý nhà nước về dạy nghề
từ Bộ GD&ĐT sang Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội năm 1998 mà mô hình
trường THN đã bị xóa sổ mà không rõ nguyên nhân.
Thực hiện Nghị quyết 40/2000/QH ngày 9/12/2000 của Quốc hội về đổi mới
chương trình GDPT, một mô hình trường tương tự như mô hình trường THN – đó là
mô hình trường Trung học phổ thông kỹ thuật (THPTKT) đã được nghiên cứu, xây
dựng từ năm 2001, Đề án đã được trình thông qua tại Hội đồng Thẩm định Quốc gia
vào tháng 4/2003 và đã được Bộ GD&ĐT chính thức phê duyệt. Đây là văn bản pháp
lý cơ bản quy định sự tồn tại và phát triển loại hình trường mới. Quy định tạm thời
về mục tiêu và kế hoạch giáo dục của trường THPTKT đã được ban hành theo Quyết
định số 2447/QĐ-BGD&ĐT ngày 29/5/2003, chương trình 7 môn kỹ thuật thông
dụng ở các địa phương dùng trong các trường THPTKT được ban hành theo Quyết
định số 972/QĐ-BGD&ĐT ngày 08/3/2005. Mô hình Trường THPTKH được bắt đầu
triển khai thí điểm từ năm học 2005 – 2006 tại 4 trường: Trường THPTKT Việt Trì,
tỉnh Phú Thọ; Trường THPTKT Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình; Trường THPTKT Trần
Ngọc Hoằng, Tp. Cần Thơ và Trường THPTKT Đồng Tháp, tỉnh Đồng Tháp.
Qua quá trình triển khai thí điểm cũng đã đạt được một số kết quả, những cũng
gặp không ít khó khăn, thách thức, đặc biệt là khó khăn về mặt đầu tư trang bị cơ sở
vật chất và các phương tiện dạy học, những hạn chế, bất cập trong công tác quản lý,
chỉ đạo của các cơ quan quản lý nhà nước trung ương và địa phương và trong tổ chức,
vận hành hoạt động của các trường.
Tuy nhiên, cho đến nay, Bộ GD&ĐT và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
cũng chưa tổ chức tổng kết, đánh giá và báo cáo trình Quốc Hội cho ý kiến chính thức
về cho phép tiếp tục hay kết thúc thí điểm mô hình trường THPTKT. Mô hình trường
học mới này một lần nữa lại đi vào quên lãng mà không rõ lý do.
(3) Về mặt pháp lý, phân luồng sau THCS đã được quy định trong Luật GD sửa
đổi năm 2009, Quyết định số 1981/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính
176
- phủ về việc phê duyệt Khung cơ cấu HTGDQD, tuy nhiên còn thiếu các văn bản pháp
quy, quy định và hướng dẫn cụ thể để triển khai trong thực tiễn, trong đó có hướng
dẫn chuyển từ luồng đào tạo thực hành, ứng dụng sang luồng định hướng nghiên cứu
và ngược lại. Điều đó ảnh hưởng tới việc lựa chọn định hướng học tiếp theo của học
sinh tốt nghiệp THCS.
(4) Điều kiện tiên quyết để PLHS sau THCS là phải đảm bảo LT trong đào tạo,
trước hết là LT về chương trình đào tạo (CTĐT). Tuy nhiên, trong thực tế thiết kế các
CTĐT liên thông (trong đó có LT dọc, LT ngang và LT chéo) chưa được quan tâm
đúng mức, đặc biệt là các CTĐT liên thông từ sơ cấp GDNN lên trung cấp, CĐ và ĐH.
Tình trạng trên là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự không công nhận văn
bằng của các cơ sở đào tạo khác khi xét tuyển sinh đào tạo LT. Để giải quyết vấn đề
này, Chính phủ đã chỉ đạo và điều phối để Bộ GD&ĐT và Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội ký kết các văn bản thỏa thuận về đào tạo liên thông, tạo ra sự “liên thông
ép”, theo kiểu “ép duyên”, không thực chất, dẫn đến khó thực hiện và không hiệu quả.
Nhìn chung, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành GD&ĐT và lao động -
thương binh và xã hội trong công tác phân luồng học sinh sau THCS, trong GDHN
cho học sinh THCS và THPT, trong chỉ đạo phát triển các CTĐT liên thông và tổ
chức đào tạo liên thông, trong công nhận các văn bằng chứng chỉ trong tuyển sinh
đào tạo.v.v...
(5) Chính sách tuyển sinh đại học đã có tác động không nhỏ tới việc PLHS sau
THCS vào hệ thống GDNN.
Thực tiễn những năm qua, từ khi Bộ GD&ĐT thực hiện đồng thời chính sách
thi tuyển sinh ĐH với điểm sàn chung thấp và xét tuyển sinh ĐH, CĐ thông qua xét
điểm học bạ THPT thì cơ hội để học sinh tốt nghiệp THPT vào học ĐH được mở
rộng hơn. Hệ lụy là luồng HS tốt nghiệp THCS và THPT vào hệ thống GDNN thấp,
các cơ sở GDNN càng khó khăn hơn trong tuyển sinh, trong thu hút học sinh vào
học. Hậu quả là hầu hết các cơ sở GDNN trong nhiều năm gần đây chưa năm nào
đạt được chỉ tiêu tuyển sinh được giao. Thực trạng này khiến cho PLHS sau THCS và
THPT không đạt được mục tiêu đặt ra. Trong khi đó, quy mô đào tạo CĐ, ĐH ở nước
ta những năm qua tăng quá nhanh (tăng 10 – 15% mỗi năm), trong khi các điều kiện
đảm bảo chất lượng về CTĐT, đội ngũ GV, cơ sở vật chất và phương tiện dạy học v.v...
còn rất hạn chế.
Việc xét duyệt giao chỉ tiêu đào tạo cho các trường ĐH, CĐ chưa dựa theo nhu
cầu thực về nhân lực của xã hội. Nhà nước thiếu các chính sách tiên quyết trong việc
tập trung nâng cao chất lượng đào tạo thông qua chính sách giao chỉ tiêu tuyển sinh
theo nhu cầu xã hội và theo năng lực thực tế của các cơ sở đào tạo; thiếu cơ chế giám
sát để đảm bảo việc đăng ký và giao chỉ tiêu tuyển sinh đi vào thực chất, giảm chỉ tiêu
tuyển sinh ĐH, CĐ để nâng cao chất lượng đào tạo.
177
- (6) Những hạn chế, bất cập của hoạt động giáo dục hướng nghiệp (GDHN), tư
vấn học tập và tư vấn nghề cho học sinh THCS. Hoạt động GDHN, tư vấn học đường
nhiều năm qua ở các trường THCS không được quan tâm đúng mức (nếu không
muốn nói là bỏ trống). Thiếu hệ thống thông tin về GDHN và định hướng PLHS sau
THCS và THPT; thiếu cơ sở dữ liệu về nghề nghiệp, TTLĐ và việc làm, về ngành nghề
đào tạo và các cơ sở đào tạo, về chính sách đối với người học và chính sách ưu đãi
trong GDNN, về cơ hội khởi nghiệp, tìm kiếm việc làm, xu hướng TTLĐ và nhu cầu
nhân lực của TTLĐ.v.v... Đồng thời, học sinh cũng không hiểu được những đặc điểm
tâm sinh lý, những phẩm chất và năng lực của bản thân để lựa chọn hướng đi, nghề
nghiệp tương lai cho phù hợp.
(7) Chất lượng và hiệu quả GDNN thấp, còn một tỷ lệ không nhỏ học sinh tốt
nghiệp cơ sở GDNN chưa đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, thất nghiệp, không
tìm được việc làm, hoặc làm việc không đúng với ngành nghề và trình độ được đào
tạo. Năng lực nghề nghiệp, trình độ ngoại ngữ và tin học, năng lực hợp tác và năng
lực cạnh tranh của lao động Việt Nam còn hạn chế so với lao động các nước. Các cơ
sở GDNN kém hấp dẫn và khó thu hút học sinh vào học, dẫn đến khó khăn trong việc
PLHS sau THCS.
(8) Những hạn chế về chính sách lao động, việc làm và chính sách lương đối với
người tốt nghiệp trình độ sơ và trung cấp dẫn đến hạn chế trong việc thu hút học sinh
vào học các cơ sở GDNN.
Để thực hiện chủ trương phân luồng học sinh sau THCS và THPT, tạo điều
kiện linh hoạt cho người học dễ dàng chuyển đổi giữa chương trình, trình độ đào tạo,
đòi hỏi triển khai nghiên cứu ứng dụng vào thực tiễn hệ thống đồng bộ các giải pháp
PLHS sau THCS và THPT cho phù hợp với tình hình mới, có sự vào cuộc của cả hệ
thống chính trị, các cơ sở giáo dục, đào tạo và các doanh nghiệp.
3. Một số giải pháp điều tiết phân luồng học sinh sau THCS vào học giáo dục
nghề nghiệp
(1) Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của người
dân, xã hội về vai trò của GDNN đối với phát triển kinh tế, xã hội, phát triển con
người.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cơ quan
quản lý giáo dục các cấp, các cơ sở giáo dục phổ thông, cha mẹ học sinh, học sinh và
các tầng lớp nhân dân, của xã hội về ý nghĩa, tầm quan trọng của GDNN đối với phát
triển kinh tế, xã hội, phát triển con người và PLHS sau THCS.
Phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị, các cấp ủy Đảng, chính quyền các
cấp, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông trong việc giáo dục, tuyên
truyền nâng cao nhận thức của toàn xã hội, cha mẹ học sinh, học sinh và các tầng lớp
178
- nhân dân về vai trò, vị trí của nguồn nhân lực GDNN; về ý nghĩa, tầm quan trọng của
GDNN đối với phát triển kinh tế, xã hội, phát triển con người và PLHS sau THCS;
nhận thức đúng về con đường vào ĐH không phải là con đường duy nhất của mỗi con
người; văn hóa “khoa bảng”, văn hóa “bằng cấp” từng bước được thoát ly dần trong
tiềm thức của mọi người dân. Đây là việc làm rất, rất khó, không dễ để thay đổi một
sớm một chiều, mà đòi hỏi phải mất nhiều năm, nhiều thập kỷ, thực hiện đồng bộ
cùng với các giải pháp khác được trình bày dưới đây mới hy vọng thành công.
(2) Xây dựng các quy định cụ thể hóa khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân
(HTGDQD) đã được ban hành theo Quyết định 1981/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của
Thủ tướng Chính phủ.
Quyết định số 1981/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Khung cơ cấu HTGDQD, trong đó quy định các luồng học tiếp theo
mà học sinh tốt nghiệp THCS có thể lựa chọn theo học ở các trình độ cao hơn, tuy
nhiên chưa quy định các điều kiện cụ thể để người học lựa chọn luồng để theo học;
chưa xác định các yêu cầu và quy định cụ thể để người học sau khi đã hoàn thành
một chương trình GD cụ thể có thể chuyển đổi từ luồng theo hướng nghiên cứu sang
luồng theo hướng nghề nghiệp, ứng dụng theo nhu cầu của người học và ngược lại. Ví
dụ, với người có trình độ cao đẳng theo định hướng nghề nghiệp, ứng dụng, cần có
những điều kiện gì nếu có nguyện vọng học tiếp lên đại học theo định hướng nghiên
cứu.v.v...
Các yêu cầu và quy định cụ thể để phân luồng phải được thiết kế đảm bảo
HTGDQD nói chung và các luồng nói riêng thực sự “mở” đối với mọi đối tượng
người học khi có nhu cầu. Các quy định phải được xây dựng và được văn bản hóa, tạo
cơ sở pháp lý để triển khai thực hiện.
Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng các
quy định cụ thể hóa việc phân luồng và liên thông trong toàn bộ HTGDQD, kết nối
GDPT, GDNN và GDĐH; nghiên cứu, rà soát sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm
pháp luật để triển khai thực hiện phân luồng và liên thông trong toàn bộ HTGDQD.
(3) Tiếp tục triển khai thí điểm, hoàn thiện và tổ chức triển khai đại trà mô hình
trường “Trung học nghề” để thu hút học sinh tốt nghiệp THCS vào học, tốt nghiệp có
trình độ chuyên môn nghề nghiệp và trình độ văn hóa tương đương THPT, có thể đi
vào TTLĐ hoặc tiếp tục học lên trình độ cao hơn khi có nhu cầu.
Với kinh nghiệm nghiên cứu trong lĩnh vực GDNN và trong thiết kế, triển khai
thí điểm mô hình trường THPTKT, tác giả bài viết cho rằng, mô hình trường THN và
trường THPTKT là những mô hình trường tốt, có thể được coi là “công cụ” chủ đạo
để PLHS, thu hút học sinh tốt nghiệp THCS vào học, đáp ứng nhu cầu và phù hợp với
nguyện vọng của học sinh và phụ huynh học sinh THCS. Người tốt nghiệp THN có
thể tham gia TTLĐ, hoặc tiếp túc học lên CĐ, ĐH nếu có nhu cầu và điều kiện.
179
- Các công việc cần được triển khai:
- Tổ chức tổng kết, đánh giá mô hình và triển khai thí điểm mô hình trường
THN và trường THPTKT; xác định những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế; hoàn thiện mô hình trường THN và tiếp tục triển khai thí điểm (nếu
thấy cần thiết);
- Tái thành lập các trường THN trên cơ sở tổ chức lại các Trung tâm dạy nghề,
trường cao đẳng và trung cấp GDNN. Do đặc thù của loại trường THN, vừa dạy các
môn VHPT, vừa dạy nghề, với các phương tiện dạy học (PTDH), đặc biệt là PTDH
thực hành nghề đắt tiền, việc tận dụng cơ sở vật chất và các PTDH có sẵn ở các trường
là rất cần thiết, hoàn thiện và bổ sung khi có nhu cầu, đảm bảo tính khả thi và hiệu
quả của mô hình trường mới;
- Kế thừa CTĐT các ngành, nghề sẵn có của các trường, xác định nhu cầu đào
tạo theo các ngành, nghề đó, hoàn thiện CTĐT hiện có cho phù hợp với mục tiêu của
mô hình ĐT mới. Chương trình đào tạo THN sẽ được thiết kế liên thông với CTĐT
cao đẳng và đại học theo hướng nghề nghiệp, ứng dụng, thực hành.
Trường THN tuyển học sinh tốt nghiệp THCS, hoặc Sơ cấp nghề, vừa đào tạo
nghề trình độ cao, vừa dạy các môn văn hoá tương đương THPT, với các CTĐT 3
đến 4 năm. Học sinh tốt nghiệp có trình độ trung cấp kỹ thuật/nghiệp vụ và trình độ
văn hóa tương đương THPT, được cấp Bằng trung cấp GDNN và Chứng nhận trình
độ văn hóa tương đương THPT. Học sinh sau khi tốt nghiệp có khả năng tham gia
TTLĐ, hoặc khi có điều kiện, có nhu cầu, có thể học tiếp lên CĐ, ĐH.
- Tổ chức bồi dưỡng cập nhật và bổ sung các kiến thức và kỹ năng chuyên môn
và nghiệp vụ sư phạm cho các loại hình GV dạy các môn văn hóa phổ thông (VHPT),
kỹ thuật cơ sở (KTCS) và lý thuyết chuyên môn (LTCM), thực hành nghề (THN) theo
yêu cầu của CTĐT. Tổ chức tuyển dụng bổ sung các loại GV theo nhu cầu đào tạo của
các trường. Giáo viên dạy các môn VHPT được đào tạo trình độ ĐH ở các trường đại
học sư phạm; GV dạy các môn KTCS, LTCM và THN được đào tạo trong các trường
đại học sư phạm kỹ thuật, hoặc tại các khoa sư phạm kỹ thuật của các trường ĐH.
(4) Xây dựng và triển khai các CTĐT liên thông và công nhận văn bằng, chứng
chỉ tốt nghiệp các CTĐT liên thông của các cơ sở giáo dục và đào tạo – Điều kiện để
PLHS sau THCS khả thi và hiệu quả.
Bộ GD&ĐT và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp trong lãnh đạo
và chỉ đạo các cơ sở đào tạo hợp tác, xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo
liên thông (CTĐTLT), phục vụ cho việc PLHS sau THCS khả thi và hiệu quả.
Bộ GD&ĐT và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp trong lãnh đạo
và chỉ đạo các cơ sở đào tạo hợp tác, xây dựng các CTĐTLT, tạo điều kiện PL trong
HTGDQD như Quyết định số 1981/QĐ-TTg quy định, trong đó có: 1) Chương trình
180
- giáo dục liên thông dọc từ THCS lên THPT và tiếp theo lên CĐ/ hoặc ĐH; 2) Liên
thông dọc từ THCS lên trung cấp, từ trung cấp lên CĐ/ hoặc ĐH, CĐ lên ĐH; 3)
Đồng thời, cần xây dựng các CTĐTLT ngang từ CTĐT trung cấp của một lĩnh vực/
ngành đào tạo sang CTĐT trình độ trung cấp của lĩnh vực/ ngành đào tạo khác /hoặc
liên thông chéo lên CTĐT cao đẳng, đại học của lĩnh vực/ ngành đào tạo khác.
Tuy nhiên, để có thể thực hiện được phân luồng đào tạo theo các CTĐTLT, đặc
biệt là đào tạo liên thông được thực hiện ở các cơ sở đào tạo khác nhau là vấn đề hết
sức phức tạp, đòi hỏi phải đảm bảo điều kiện là các CTĐTLT và văn bằng do các cơ
sở đào tạo cấp phải được các cơ sở đào tạo công nhận lẫn nhau.
Để giải quyết vấn đề này, các Bộ GD&ĐT và Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội cần xây dựng và ban hành Thông tư liên bộ về đào tạo liên thông; ký kết các văn
bản thỏa thuận về ĐTLT/ hoặc chỉ đạo các cơ sở GDNN và GDĐH trực tiếp ký kết
các thỏa thuận về phối hợp xây dựng/ công nhận CTĐTLT, tránh “liên thông ép”, theo
kiểu “ép duyên”, không thực chất, dẫn đến khó thực hiện và không hiệu quả.
(5) Điều tiết phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS thông qua chính sách
tuyển sinh đào tạo CĐ, ĐH.
Điều chỉnh PLHS sau THCS thông qua chính sách điều tiết của nhà nước đối
với đào tạo nhân lực, đặc biệt là trong tuyển sinh ĐH và GDNN, như áp dụng chính
sách giảm quy mô tuyển sinh ĐH, đồng thời tăng điểm sàn và điều chỉnh chính sách,
nâng các điều kiện xét tuyển vào các trường ĐH sẽ góp phần quan trọng để nâng cao
chất lượng đầu vào các trường ĐH, phù hợp với lực thực tiễn của đội ngũ giảng viên,
cơ sở vật chất và phương tiện dạy học.v.v..., khắc phục tình trạng sinh viên tốt nghiệp
ĐH không tìm được việc làm, hoặc có việc làm nhưng không phù hợp với ngành và
trình độ được đào tạo. Đồng thời, chính sách này sẽ góp phần tăng nguồn tuyển sinh
vào các cơ sở GDNN, dần từng bước khắc phục tình trạng tuyển sinh vào các trường
trung cấp và cao đẳng GDNN nhiều năm qua không đạt chỉ tiêu được giao.
Bộ GD&ĐT và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội giao chỉ tiêu tuyển sinh
cho các trường CĐ, ĐH thông qua thẩm định chặt chẽ và khoa học đề án tuyển sinh
ĐH, CĐ do các trường xây dựng, dựa theo: 1) Nhu cầu của xã hội, TTLĐ và việc làm,
tình hình việc làm của người tốt nghiệp qua kết quả điều tra theo dấu vết người tốt
nghiệp; 2) Năng lực thực tế của các trường, các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo,
như CTĐT, đội ngũ GV, cơ sở vật chất và phương tiện dạy học.v.v... Bộ GD&ĐT và Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội phải có cơ chế giám sát để đảm bảo việc đăng ký
và giao chỉ tiêu tuyển sinh đi vào thực chất, phù hợp với thực tiễn.
(6) Tăng cường các chính sách quốc gia đối với người lao động có trình độ
GDNN.
Nhà nước cần nghiên cứu, đổi mới các chế độ, chính sách về lao động, việc làm,
chính sách lương và các chính sách khác đối với người lao động có trình độ GDNN để
181
- đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần, chính sách tôn vinh, khuyến khích, đãi ngộ
và động viên họ yên tâm gắn bó và cống hiến với nghề nghiệp đã chọn.
Cùng với việc đổi mới các chính sách trong đào tạo nhân lực, nhà nước và các cơ
quan, doanh nghiệp cần phải đổi mới chính sách tuyển dụng nhân lực, chuyển trọng
tâm tuyển dụng dựa trên bằng cấp sang tuyển dụng dựa theo nhu cầu về vị trí việc
làm, dựa vào năng lực thực tế của các ứng viên.
Nhìn chung, nhà nước chủ yếu dùng các chính sách để điều tiết phân luồng học
sinh sau tốt nghiệp THCS lên THPT, các cơ sở GDNN và ĐH; chính sách đào tạo và
sử dụng nhân lực các cấp trình độ.
(7) Nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp (GDHN), triển khai các hoạt
động tư vấn học đường cho học sinh THCS nhằm định hướng nghề nghiệp cho các
em; xây dựng chương trình và tổ chức dạy học phân hóa theo hướng tự chọn ở THCS.
Triển khai thực hiện chương trình GDHN, hoạt động trải nghiệm trong Chương
trình Giáo dục phổ thông mới đã được phê duyệt. Tổ chức các hoạt động giáo dục
hướng nghiệp (GDHN) gắn với các hoạt động trải nghiệm thực tiễn, gắn với hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của địa phương; tư vấn học tập (TVHT) và tư vấn
nghề nghiệp; đưa nội dung GDHN tích hợp trong chương trình các môn học và hoạt
động giáo dục.
Giáo dục hướng nghiệp hướng tới mục tiêu giúp học sinh THCS hiểu được
chính mình, hiểu được đặc điểm tâm sinh lý và khả năng, sở thích, nhu cầu của bản
thân; nắm được khái quát thông tin về thị trường lao động (TTLĐ) và việc làm, về thế
giới nghề nghiệp và các yêu cầu của nghề đối với người lao động, về các cơ sở sử dụng
lao động; nắm được khái quát hệ thống thông tin về mạng lưới các cơ sở giáo dục sau
THCS để học sinh định hướng lựa chọn luồng, CTĐT và cơ sở đào tạo để tiếp tục theo
học. Đồng thời, các trường THCS tổ chức dạy học phân hóa theo hướng tự chọn các
môn học phù hợp với năng lực, nhu cầu và sở thích của học sinh, theo quy định của
chương trình giáo dục phù hợp với nghề nghiệp sẽ lựa chọn trong tương lai.
Tăng cường phối hợp giữa các trường THCS với các cơ quan quản lý GD, các
cơ sở GDNN, các doanh nghiệp và làng nghề truyền thống trong hoạt động GDHN
cho học sinh và tiếp nhận học sinh sau khi tốt nghiệp THCS tiếp tục vào học tại các
cơ sở GDHN.
Xây dựng hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về: 1) Thế giới nghề nghiệp, TTLĐ
và việc làm và dự báo/ xu hướng TTLĐ và nhu cầu sử dụng của TTLĐ và việc làm;
cơ hội khởi nghiệp, tìm kiếm việc làm; mô tả vị trí việc làm và thông tin tuyển dụng,
sử dụng lao động theo từng ngành, nghề tương ứng với từng vùng miền, khu vực để
phục vụ cho các hoạt động GDHN và tư vấn học tập cho học sinh; 2) Cơ sở dữ liệu
về các cơ sở đào tạo sơ cấp, trung cấp, cao đẳng GDNN và ĐH; các ngành, nghề và
182
- CTĐT và định hướng PLHS phổ thông; chính sách đối với người học và đào tạo trong
GDNN.
Xây dựng hệ thống tài liệu GDHN, tăng cường đầu tư kinh phí xây dựng cơ sở
vật chất, trang bị các phương tiện phục vụ GDHN tại các trường THCS và các trung
tâm GDHN ở các địa phương.
Triển khai thí điểm các mô hình nhà trường gắn với sản xuất, kinh doanh tại các
bộ ngành, các địa phương. Tổ chức các sàn giao dịch việc làm để tạo cơ hội tìm kiếm
việc làm cho học sinh; tổ chức ngày hội tư vấn, hướng nghiệp; thi tìm hiểu về thế giới
nghề nghiệp; các hoạt động giao lưu của học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục
với các nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nhân.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV chuyên trách/ hoặc GV kiêm nhiệm làm nhiệm
vụ tư vấn, hướng nghiệp trong các trường THCS và THPT.
(8) Nâng cao chất lượng và hiệu quả GDNN các cấp trình độ từ sơ cấp, đến
trung cấp, cao đẳng; gắn đào tạo với việc làm, đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp,
nâng tầm thương hiệu của các trường, tăng sự hấp dẫn và thu hút học sinh vào học
các cơ sở GDNN.
Để thực hiện phân luồng, thu hút học sinh tốt nghiệp THCS vào học trung cấp
thì điều đặc biệt quan trọng là bản thân các cơ sở GDNN nâng cao sức hấp dẫn đối
với học sinh và các bậc phụ huynh, thu hút học sinh tốt nghiệp THCS vào học thông
qua việc nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, tăng cường các điều kiện đảm bảo
chất lượng và đổi mới tổ chức đào tạo; gắn đào tạo với sử dụng và TTLĐ, nâng tỷ lệ
học sinh tốt nghiệp GDNN có việc làm và làm việc đúng ngành nghề đào tạo.
4. Kết luận
Công tác PLHS sau THCS còn nhiều hạn chế, xuất phát từ nhiều nguyên nhân
khác nhau, trong đó có những nguyên nhân chủ quan của ngành GD&ĐT và những
nguyên nhân khách quan. Để thực hiện thành công và hiệu quả PLHS sau THCS,
trước hết đòi hỏi phải thay đổi nhận thức của cộng đồng, xã hội, của mọi người dân,
của chính bản thân học sinh và phụ huynh học sinh về nghề nghiệp và GDNN; kết
hợp giữa các giải pháp chính sách, giải pháp can thiệp và điều tiết của nhà nước, cùng
với các giải pháp trực tiếp của các cơ sở giáo dục, đào tạo và cơ sở sử dụng nhân lực
sau đào tạo; sự điều tiết một cách tự nhiên của thị trường lao động và việc làm, thế
giới nghề nghiệp. Để thực hiện thành công PLHS sau THCS đòi hỏi sự nỗ lực không
chỉ của ngành GD&ĐT và LĐ, TB&XH, mà của tất cả các cấp, các ngành, các địa
phương và của toàn xã hội.
183
- TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành TW. (2013). Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung
ương 8 khóa XI về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế”.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2018). Đề án giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng
HS trong giáo dục phổ thông. 1/2018.
3. Chính phủ. (2012). Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 6 năm 2012 về việc ban
hành “Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020”.
4. Chính phủ. (2016). Quyết định số 1981/QĐ-TTg ngày 18/10/2016 về việc “Phê duyệt
Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân”.
5. Chính phủ. (2018). Quyết định số 522/QĐ-TTg ngày 14/5/2018 về việc “Phê duyệt Đề án
Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai
đoạn 2018 - 2025”.
6. Đỗ Thị Bích Loan. (2018). Thực trạng phân luồng học sinh sau trung học cơ sở trong phát
triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tạp chí Khoa học giáo dục
Việt Nam; số 08, tháng 8/2018.
7. Phan Văn Kha. (2010). Đổi mới hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam. Nhiệm vụ NCKH
cấp Bộ B2008-37-69NV. Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, 2010.
8. Phan Văn Kha. (2013). Đổi mới giáo dục Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Trung ương
8 khóa XI. Tạp chí Khoa học Giáo dục Viện KHGDVN, 2013.
9. Phan Văn Kha. (2012). Đổi mới cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam. Tạp chí Khoa
học Giáo dục, Viện KHGDVN, 2012.
184
nguon tai.lieu . vn