Xem mẫu
- 103
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU HÀNH
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN VN GIAI ĐOẠN 2011- 2014
Đỗ Thị Thu Thảo, K14 – NHTMG
Trong nền kinh tế ngày một phát triển như ngày này thì sự ổn định giá trị của
đồng tiền là điều vô cùng quan trọng với mọi quốc gia trên thế giới. Sự ổn định này chịu
sự tác động mạnh mẽ bởi hoạt động của hệ thống các ngân hàng. Thông qua việc quản lý
và điều hành của mình, NHTW có thể làm thay đổi tiền tệ trên tất cả các mặt lưu thông,
giá trị... Tất cả những tác động từ phía NHTW đều mang tính chiến lược mà chúng ta vẫn
gọi là chính sách tiền tệ. CSTT là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng
đối với mỗi quốc gia. CSTT hiệu quả là điều kiện tiên quyết để ổn định giá cả, là nền
tảng vững chắc cho ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Trong
điều kiện kinh tế có nhiều biến động, CSTT của mỗi quốc gia cần có sự linh hoạt, phối
hợp đồng bộ với các chính sách kinh tế khác nhằm ổn định nền kinh tế. Sau cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 – 2009, nhiều nước phải đối mặt với các bất ổn tài
chính nghiêm trọng gắn với khủng hoảng nợ công, kéo theo những biến động của nền
kinh tế. Sự phá sản của các tổ chức tài chính lớn, sự biến động của giá vàng, sự thoái lui
vốn của các quỹ đầu tư đe dọa sự ổn định của các TTCK… Trong cơn bão khủng hoảng
ấy, nền kinh tế mới phát triển của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Trước những
thách thức đó, Việt Nam đã có biện pháp sử dụng CSTT và các chính sách kinh tế vĩ mô
nhằm hạn chế những tác động tiêu cực của biến động kinh tế thế giới, đưa nền kinh tế
Việt Nam dần ổn định trở lại và hướng tới phát triển bền vững. Chính vì thế mà em chọn
đề tài là “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giai đoạn 2011- 2014” để có cơ hội tìm hiểu hơn về
CSTT và việc điều hành CSTT của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hiện nay.
- 104
I. Lý luận chung về chính sách tiền tệ
1.1. Tổng quan về chính sách tiền tệ
1.1.1. Khái niệm và vai trò của CSTT
CSTT là một trong các chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó NHTW sử dụng các
công cụ của mình thông qua việc chi phối dòng chu chuyển tiền và khối lượng tiền để
kiểm soát điều kiện tiền tệ của nền kinh tế nhằm mục đích ổn định giá trị tiền tệ, tạo nền
tảng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và duy trì các mục tiêu xã hội hợp lý. CSTT cùng
với những chính sách kinh tế vĩ mô khác như CSTK, chính sách phân phối thu nhập,
chính sách kinh tế đối ngoại có vai trò đặc biệt quan trọng do tác động sâu rộng của nó
tới tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.
1.1.2. Hệ thống mục tiêu của CSTT
Nội dung của CSTT thể hiện thông qua việc thiết kế hệ thống mục tiêu của CSTT
trong từng thời kỳ bao gồm mục tiêu chính sách và hệ thống mục tiêu điều hành. Trong
từng hoàn cảnh cụ thể, đối với mỗi quốc gia thì việc đề ra CSTT cũng có những điểm
khác biệt. Xét về mặt tổng thể CSTT của NHNN hướng vào các mục tiêu chủ yếu là:
a. Ổn định giá cả
Ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu của CSTT. Ổn định giá trị tiền tệ là ổn định
sức mua của tiền tệ và ổn định giá cả. Mục tiêu này thường lượng hóa bằng tỷ lệ tăng của
chỉ số tiêu dùng xã hội. Khi giá cả ổn định, lạm phát ở mức thấp thu nhập thực tế của
người dân được nâng cao, đời sống nhân dân được cải thiện, đầu tư cho nền kinh tế cũng
được đảm bảo, tăng trưởng kinh tế thực dương. Đây là lợi ích có tầm quan trọng sống còn
đối với sự thịnh vượng kinh tế của xã hội.
b. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế bền vững là mục tiêu bất kỳ của một chính sách kinh tế vĩ mô
nào. Để thực hiện mục tiêu này không có nghĩa là khuyến khích tăng trưởng kinh tế mà
còn thực hiện việc kìm hãm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nếu nền kinh tế phát triển
quá nóng. Điều này có nghĩa là mỗi quốc gia phải xác định một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
dự kiến phù hợp với điều kiện nội bộ của nền kinh tế nước đó; căn cứ vào tốc độ tăng
- 105
trưởng kinh tế hiện tại để điều tiết CSTT theo hướng khuyến khích hay kìm hãm. Một
nền kinh tế ổn định với tốc độ tăng trưởng ổn định là nền tảng cho mọi sự ổn định, vì một
nền kinh tế tăng trưởng sẽ đảm bảo các chính sách xã hội được thỏa mãn, là căn cứ để ổn
định tiền tệ trong nước, cải thiện tình trạng cán cân thanh toán quốc tế và khẳng định vị
trí của nền kinh tế trên thị trường quốc tế.
c. Tạo công ăn việc làm và giảm thất nghiệp
Để đạt được mục tiêu này, CSTT hướng vào việc khuyến khích đầu tư, làm tăng quy
mô sản xuất, qua đó tạo công ăn việc làm; mặt khác, khi các hoạt động kinh tế được mở
rộng, sẽ có tác động chống suy thoái, nhất là suy thoái chu kỳ, để đạt mức tăng trưởng ổn
định, góp phần ổn định cuộc sống người dân và tạo thêm nhiều công ăn việc làm.
1.1.3. Các công cụ của CSTT
Công cụ CSTT là các hoạt động được thực hiện trực tiếp bởi NHTW nhằm ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất, từ đó
mà đạt được các mục tiêu của CSTT.
1.1.3.1. Công cụ trực tiếp
Là hệ thống các quy định của NHTW nhằm tác động trực tiếp vào các điều kiện
tiền tệ của nền kinh tế. Công cụ trực tiếp được áp dụng phổ biến ở các nước trong thời
kỳ hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ và các yếu tố nền tảng của các công cụ
CSTT gián tiếp chưa hiệu quả. Các công cụ trực tiếp thường được áp dụng trong điều
kiện này bao gồm: hạn mức tín dụng, ấn định lãi suất, tỷ giá và các chính sách hỗ trợ
khác như chính sách tín dụng, chính sách cho vay chỉ định, chính sách quản lý ngoại
hối…
1.1.3.2. Công cụ gián tiếp
Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của CSTT, thông
qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến các mục tiêu trung gian là khối
lượng tiền cung ứng và lãi suất. Nhóm các công cụ này gồm có: Dự trữ bắt buộc, chính
sách tái chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở.
- 106
1.2. Kinh nghiệm về các chính sách tiền tệ trên thế giới
Trên thế giới có bốn loại CSTT cơ bản: CSTT có mục tiêu tỷ giá hối đoái, CSTT
có mục tiêu là khối lượng tiền tệ, CSTT có mục tiêu lạm phát, CSTT có mục tiêu ngầm
ẩn chứ không công khai.
CSTT có mục tiêu tỷ giá hối đoái đã có một lịch sử lâu dài. Đó là việc ấn định giá
trị đồng nội tệ theo giá vàng hoặc gắn vào đồng tiền của một quốc gia khác. Một số quốc
gia đã sử dụng thành công chính sách này như Anh, Pháp làm cho tỷ lệ lạm phát dự kiến
được kiểm soát. Tuy nhiên nó cũng có mặt hạn chế như làm mất đi tính độc lập của các
CSTT.
CSTT có mục tiêu tiền tệ: Chính sách này cho phép NHNN có thể chọn một tỷ lệ
lạm phát không giống các quốc gia khác tùy theo sự biến động của sản lượng. Chế độ tiền
tệ này có thể gửi tín hiệu gần như lập tức cho cả công chúng và thị trường về tình trạng
của CSTT cũng như ý định của các nhà làm chính sách trong việc kiểm soát lạm phát.
Mỹ, Anh, Canada đã không thành công trong việc kiểm soát, nhưng Đức và Thụy Sĩ lại
thành công khi áp dụng. Hiện nay nó đang được xem xét như là một CSTT chính của
NHTW các nước Châu Âu.
CSTT có mục tiêu lạm phát: Niu Dilân là quốc gia đầu tiên thực hiện theo chính
sách này vào năm 1990, tiếp theo là Canada (1991), Anh (1992)… Chính sách này cho
phép sử dụng trong việc đối phó với các cú sốc trong nội địa. NHTW có trách nhiệm
công khai về con số mục tiêu lạm phát, nó sẽ cung cấp thông tin cho công chúng và
những người tham gia TTTC.
CSTT có mục tiêu ngầm chứ không công khai: Milton Friedman đã nhấn mạnh tác
động của CSTT có độ trễ khá lớn. Do đó CSTT sẽ mất thời gian khá dài để có thể tác
động tới lạm phát. Mỹ là quốc gia đã sử dụng thành công chiến lược này, tuy nhiên
nhược điểm quan trọng của chiến lược này là thiếu tính minh bạch.
- 107
Bốn loại CSTT được đề cập trên đây đều có những ưu và nhược điểm riêng. Việc
sử dụng loại nào là tùy thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa và lịch sử của từng
quốc gia.
II. Thực trạng và đánh giá hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
2.1. Bối cảnh kinh tế vĩ mô
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khởi nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính ở
Mỹ, nó đã lan tỏa và phủ bóng đen lên hầu hết các nước trên phạm vi toàn cầu. Khủng
hoảng diễn ra trong bối cảnh có nhiều vấn đề quốc tế bức xúc như: giá dầu mỏ, nguyên
vật liệu, lương thực, thực phẩm tăng ở mức cao kỷ lục, sau đó lại diễn biến phức tạp. Do
vậy các quốc gia đều có những động thái cho nền kinh tế vượt qua khủng hoảng.
2.1.1. Bối cảnh kinh tế thế giới
Năm 2008, khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng nhà đất
và cho vay dưới chuẩn tại Mĩ, làm hàng loạt các ngân hàng lớn sụp đổ. Đi đầu trong
phong trào sụp đổ này là ngân hàng Lehman Brothers. Tiếp đó là cuộc khủng hoảng nợ
công Châu Âu năm 2010, tiêu biểu nhất phải kể đến Hy Lạp, các quốc gia trong khu vực
đồng tiền chung tìm nhiều cách để cứu quốc gia này ra khỏi vòng xoáy nợ công nhằm
tránh gây ảnh hưởng đến các quốc gia khác trong khu vực. Chính sách thắt lưng buộc
bụng Hy Lạp áp dụng không chỉ tác động lớn đến kinh tế mà còn gây ra cuộc bất ổn
chính trị kinh hoàng tại quốc gia này. Chính phủ mới ra đời với cam kết sẽ thay đổi chính
sách thắt lưng buộc bụng bằng những đàm phán đối với các chủ nợ nhằm đem lại những
điều khoản có lợi nhất cho quốc gia mình. Liệu hướng đi nào mới đúng đắn vẫn còn đang
là một câu hỏi để ngỏ cho quốc gia này.
Trong giai đoạn gần đây nhất , 2014- 2015 phải kể đến cuộc khủng hoảng của
Nga, nguyên nhân chính khiến Nga rơi vào cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc
xung đột tại Ukraina. Nền kinh tế Nga vốn phụ thuộc nhiều vào thị trường năng lượng,
đây chính là yếu điểm khiến Mĩ quyết định áp dụng lệnh trừng phạt Nga thông qua công
nghệ dầu đá phiến: tăng nguồn cung dầu, làm giảm giá năng lượng trên toàn thế giới.
- 108
2.1.2. Bối cảnh kinh tế trong nước
Năm 2007, Việt Nam gia nhập WTO mở ra thời kì hội nhập sâu rộng cho đất
nước. Năm 2011, luật NHNN mới ra đời thay thế cho bộ luật cũ ra đời năm 1997 và sửa
đổi năm 2003. Năm 2012, nước ta chạm đáy về mức tăng trưởng kinh tế (khoảng 5,3%),
sau đó nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn thấp hơn so với tiềm năng. Các
NHTM trong nước cạnh tranh gay gắt và ngày càng hội nhập sâu rộng, sử dụng các lãi
suất Libor và Sibor để tham chiếu. Xuất khẩu trong nước được đẩy mạnh, trong đó, thị
trường chiếm phần lớn trong kim ngạch xuất khẩu của nước ta phải kể đến là Mĩ, Nhật,
Singapore. Hay nói cách khác, xuất khẩu vẫn đóng một vai trò to lớn trong phát triển kinh
tế tại Việt Nam trong thời gian này.
Nhìn một cách tổng thể, kinh tế nước ta trong giai đoạn 2011- 2014 khá ổn định
thể hiện ở việc ổn định tỷ giá cũng như lãi suất. Người dân tin tưởng và giữ VND thay vì
USD như trước đây. Điều này không chỉ góp phần tăng dự trữ ngoại hối trong nước mà
còn giúp bình ổn nền kinh tế, thu hút nguồn vốn FDI vào trong nước.
Trong giai đoạn 2015- 2018, nước ta tăng cường xu thế hội nhập quốc tế. Xu thế
này được thể hiện ở các hiệp định song phương và đa phương đang được đàm phán, trong
đó phải kể đến hiệp định TPP và cộng đồng kinh tế ASEAN, giống với cộng đồng chung
Châu Âu khi mà các hoạt động kinh tế dường như được trao đổi không biên giới trong
khu vực.
2.2. Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Nếu như trong bộ luật cũ của NHNN, chính sách tiền tệ hướng tới rất nhiều mục
tiêu như mục tiêu ổn định lạm phát, mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, mục tiêu đảm bảo
an ninh quốc gia, thì luật mới ra đời năm 2011 đã có những chuyển biến đáng kể. Một
thực tế cho thấy việc có quá nhiều mục tiêu khiến cho việc điều hành nền kinh tế trở nên
khó thực hiện. Nếu không thống nhất các mục tiêu, nền kinh tế sẽ trở nên bất ổn. Đồng
thời việc thiếu nhất quán trong hệ thống các mục tiêu cũng sẽ dẫn tới việc thiếu nhất quán
trong công tác điều hành, sẽ gây mất niềm tin trong dân chúng đối với NHNN. Việc điều
- 109
hành CSTT của nhà nước thể hiện ở việc kết hợp nhuần nhuyển giữa các công cụ trực
tiếp, công cụ gián tiếp và truyền thông định hướng nhằm tăng tính minh bạch trong hoạt
động điều hành, phối hợp để nâng cao hiệu quả điều hành, kiềm chế lạm phát và củng cố
vị thế VND.
Bước sang năm 2011, kinh tế toàn cầu bắt đầu le lói phục hồi nhưng còn nhiều
khó khăn, tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước. Trong 6 tháng đầu năm,
lạm phát tăng 13,29% so với đầu năm và tăng 20% so cùng kỳ năm trước, gây khó khăn
cho nỗ lực kiềm chế lạm phát dưới 15% theo mục tiêu đề ra, thị trường bất động sản và
chứng khoán sụt giảm mạnh. NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng
để kiểm soát lạm phát và hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn hệ thống, thực
hiện mạnh mẽ các biện pháp điều hành nhằm kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng dưới
20% và điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản xuất, giảm tỉ trọng
dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất xuống 22% đến 30/6/2011 và xuống 16% đến
31/12/2011.
Đến cuối năm 2011, tổng phương tiện thanh toán và tín dụng lần lượt tăng khoảng
10% và 12%, các mức lãi suất trên thị trường đã được điều chỉnh phù hợp với diễn biến
kinh tế vĩ mô và chỉ đạo của Chính phủ. Việc tăng cường thanh tra, giám sát và xử lý
nghiêm những trường hợp vi phạm trần lãi suất huy động đã tạo điều kiện cho việc giảm
dần mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trong những tháng cuối năm. Trong đó, lãi
suất cho vay nông nghiệp, nông thôn và xuất khẩu giảm 0,5-1%/năm và dao động ở mức
14,5-17%/năm, thậm chí chỉ còn 13,5%/năm.
Năm 2012, để định hướng thị trường, ngay từ đầu năm, NHNN đã đưa ra mục tiêu
giảm lãi suất huy động xuống còn 9-10%/năm vào cuối năm 2012, đồng thời đưa ra lộ
trình giảm trung bình mỗi quí 1%/năm. Từ tháng 5/2012, NHNN đã qui định trần lãi suất
cho vay ngắn hạn VND đối với năm lĩnh vực ưu tiên: được điều chỉnh giảm từ mức
15%/năm xuống 12%/năm, phù hợp với xu hướng giảm của trần lãi suất tiền gửi VND.
- 110
Đến cuối năm 2012, lãi suất huy động VND giảm mạnh từ 3-6%/năm, lãi suất cho vay
giảm từ 5-9%/năm so với cuối năm 2011 và trở về mức lãi suất của năm 2007. Lãi suất
cho vay ưu tiên giảm về mức 12%/năm, cho vay sản xuất kinh doanh khác và cho vay
tiêu dùng ở mức 12-15%/năm, riêng lãi suất cho vay đối với các khách hàng tốt chỉ còn
9-11%/năm. Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng lần lượt khoảng 20% và 9%,
phù hợp với mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức thấp (6,8%), góp phần ổn định kinh tế vĩ
mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Trong năm 2013, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt và đồng bộ các công cụ
chính sách tiền tệ, chủ động điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo ổn định
thị trường tiền tệ, ngoại hối và kiểm soát tiền tệ. Cuối tháng 8/2013, tổng phương tiện
thanh toán tăng 9,16% so với cuối năm 2012, phù hợp với định hướng tăng 14-16% trong
năm 2013, thanh khoản của hệ thống ngân hàng được đảm bảo. Các mức lãi suất chủ chốt
được điều hành theo hướng giảm dần, góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và
nền kinh tế. Mặt bằng lãi suất VND trong 8 tháng đầu năm đã giảm khoảng 2-5%/năm so
với đầu năm, trong đó lãi suất huy động giảm 2-3%/năm, lãi suất cho vay giảm 3-5%.
Sau nhiều tháng tăng chậm, tín dụng bắt đầu có dấu hiệu khởi sắc, nhu cầu của doanh
nghiệp về vốn cho sản xuất kinh doanh đã tăng mạnh do nhu cầu tiêu thụ hàng hóa đã cải
thiện mạnh. Tính đến cuối tháng 8/2013, tín dụng cho nền kinh tế đã tăng 6,45% so với
đầu năm, khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 12% trong năm 2013 đang trở thành
hiện thực.
Năm 2014, với thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày
2/1/2014, NHNN đã ban hành Chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 13/2/2012 đặt mục tiêu,
nhiệm vụ “điều hành CSTT chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với CSTK nhằm kiểm
soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức
hợp lý, bảo đảm thanh khoản của các TCTD và nền kinh tế”. Như vậy, lạm phát và ổn
định kinh tế vĩ mô vẫn là những mục tiêu được quan tâm hàng đầu bên cạnh việc hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý.
- 111
Trong điều kiện áp lực lạm phát đã có sự suy giảm, CSTT đã chuyển từ việc điều hành
một cách “thận trọng, linh hoạt” sang “chủ động, linh hoạt”. Định hướng điều hành
CSTT năm 2014 được điều chỉnh có dấu hiệu nới lỏng hơn so với năm trước thông qua
các chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng và tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán lớn hơn
hẳn so với năm 2013 khoảng 2%. Năm 2014 lạm phát giảm so với năm 2013 và là mức
thấp nhất trong hơn một thập kỷ. Tốc độ tăng giá tiêu dùng đã trượt về ngưỡng 2%, tính
đến cuối năm 2014 CPI tăng khoảng 1,84%. Kết quả này một phần là nhờ vào các yếu tố
gây sức ép lên lạm phát từ phía tổng cung, tổng cầu đã giảm so với các giai đoạn trước
nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò của NHNN trong việc chủ động kiểm soát khối
lượng tiền tệ trong nền kinh tế.
Những chuyển biến thuận lợi trong cán cân thanh toán và tác động tích cực của
các chính sách chống đô la hóa, cung ngoại tệ trong nền kinh tế đã vượt xa cầu ngoại tệ.
Để duy trì mục tiêu giữ ổn định tỷ giá, ổn định TTTT, NHNN đã đưa một lượng lớn tiền
ra để mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối, đưa dự trữ ngoại hối lên mức kỷ lục vào khoảng
35 tỷ USD từ cuối quý II/2014. Do vậy, song song với động thái gia tăng dự trữ ngoại
hối, để tránh tạo ra áp lực gia tăng lạm phát, NHNN cũng đã kịp thời rút bớt tiền về thông
qua hoạt động phát hành tín phiếu NHNN trong suốt giai đoạn này. Tính từ đầu năm
2014 đến nay, giá trị tín phiếu phát hành chiếm tỷ trọng 89% và giá trị cho vay qua mua
GTCG chiếm 11% tổng khối lượng mà NHNN can thiệp vào TTTT.
Các mức lãi suất điều hành của NHNN đã được xác định và điều chỉnh phù hợp
với mục tiêu kiểm soát lạm phát và hỗ trợ nền kinh tế nhưng vẫn đảm bảo duy trì trật tự
TTTT. Ngày 18/3/2014, NHNN đã điều chỉnh giảm đồng loạt lãi suất tái cấp vốn, lãi suất
tái chiết khấu từ mức 7% và 5% của năm 2013 xuống còn 6,5% và 4,5% trong khi trần lãi
suất tiền gửi bằng VND được điều chỉnh giảm từ 7% xuống 6% và tiếp tục giảm xuống
còn 5,5% vào ngày 29/10/2014. Đồng thời, NHNN còn quy định trần lãi suất cho vay
bằng VND là 8% từ ngày 18/3/2014 và giảm xuống còn 7% từ ngày 29/10/2014 đối với 5
lĩnh vực ưu tiên. Việc sử dụng biện pháp trực tiếp này đã hướng dòng vốn tín dụng vào
khu vực kinh tế mà Việt Nam có lợi thế so sánh.
- 112
Cùng với việc điều chỉnh giảm đồng bộ các mức lãi suất điều hành của NHNN,
hoạt động điều tiết thanh khoản trên thị trường OMO và thị trường liên ngân hàng đã
giúp mặt bằng lãi suất huy động và cho vay nền kinh tế bằng VND trong năm 2014 đã
giảm 1-1,5% so với cuối năm 2013, góp phần tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh.
Đồng thời với việc điều hành linh hoạt các công cụ CSTT, điều hành duy trì ổn
định của tỷ giá và thị trường ngoại hối cũng đã được phối hợp nhuần nhuyễn, đóng góp
tích cực vào việc kiềm chế lạm phát. Ngay từ đầu năm 2014, NHNN đã có chủ trương
giữ ổn định tỷ giá và nếu phải điều chỉnh sẽ không quá 2%, diễn biến thị trường vàng
tương đối ổn định, giá vàng trong nước dao động phù hợp với giá vàng trên thị trường
quốc tế xoay quanh mức 36 triệu đồng/lượng và có xu hướng giảm tới mốc 35 triệu
đồng/lượng. NHNN không phải tổ chức đấu thầu bán vàng miếng, nhờ đó hạn chế việc sử
dụng ngoại tệ của Quỹ Bình ổn tỷ giá và giá vàng để nhập khẩu vàng quốc tế. Điều này,
góp phần duy trì sự ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại hối, tạo thuận lợi cho việc thu
mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước.
2.3. Các thành tựu đạt được trong thời gian qua
Trong thời gian qua, NHNN đã thực hiện đồng bộ các giải pháp theo đúng chỉ đạo
của Chính phủ và Nghị quyết của Quốc hội nên đã đạt được một số thành tựu:
Thứ nhất, lượng tiền cung ứng được điều hành hợp lý giữa các kênh, đảm bảo
kiểm soát tiền tệ phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát trong điều kiện NHNN mua
được một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối.
Thứ hai, mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm, tiếp tục hỗ trợ sản xuất kinh doanh
nhưng vẫn đảm bảo kiểm soát được lạm phát, hỗ trợ ổn định tỷ giá và thị trường ngoại
hối.
Thứ ba, cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vào
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc biệt là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của
Chính phủ.
- 113
Thứ tư, tỷ giá và thị trường ngoại hối về cơ bản ổn định, các nhu cầu ngoại tệ hợp
pháp của tổ chức, cá nhân đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, niềm tin vào VND được
củng cố, tình trạng đô la hóa tiếp tục giảm. Thị trường vàng diễn biến ổn định đã góp
phần duy trì sự ổn định của tỷ giá, thị trường ngoại hối, tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước
và ổn định kinh tế vĩ mô.
Thứ năm, CSTT đã có sự phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô
khác, đặc biệt là phối hợp với CSTK, đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng tính ổn
định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý.
2.4. Những thách thức trong thời gian tới
Tình hình kinh tế trong và ngoài nước dự báo sẽ còn nhiều khó khăn, giới chuyên
gia nhận định rằng, hoạt động điều hành CSTT của NHNN trong thời gian tới sẽ còn phải
đối mặt với nhiều thách thức:
Thứ nhất, nền kinh tế vẫn tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, chất
lượng tăng trưởng, hiệu suất, hiệu quả, sức cạnh tranh còn thấp, hiệu quả hoạt động của
nền kinh tế vẫn còn phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, trong khi hoạt động tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước diễn ra còn
chậm.
Thứ hai, nợ xấu của hệ thống TCTD đã được tích cực xử lý trong thời gian qua
nhưng vẫn còn ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống ngân hàng và luân chuyển vốn
trong nền kinh tế. Lãi suất giảm nhanh có thể làm đảo chiều các dòng vốn đang tận dụng
lãi suất cao trong nước.
Thứ ba, thâm hụt ngân sách được mở rộng và khối lượng trái phiếu chính phủ
phát hành tăng lên có thể tạo áp lực đối với việc điều hành chính sách sách tiền tệ và hoạt
động ngân hàng.
Thứ tư, tỷ giá là một biến số vĩ mô chịu tác động từ nhiều yếu tố bên ngoài như
hoạt động thương mại, CSTK… mà có tác động lớn đến tỷ giá, thì hoạt động điều hành tỷ
- 114
giá và ổn định thị trường ngoại hối của NHNN sẽ có thể chịu nhiều áp lực trước các biến
động của thị trường trong và ngoài nước và đòi hỏi cần có sự chia sẻ, phối hợp tích cực,
chặt chẽ từ các cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô.
III. Giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ tại Việt Nam
3.1. Giải pháp
3.1.1. Giải pháp ngắn hạn
Thứ nhất, tiếp tục kiên định với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm
phát trong phạm vi 6 ±2%, đồng thời hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống mục tiêu CSTT theo hướng chuyển dần mục tiêu
trung gian từ cung tiền sang lãi suất thị trường. Do khả năng kiểm soát M2 ngày càng
khó khăn, NHNN nên quan tâm tới chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng nhiều hơn nhưng vẫn
giữ những quan tâm nhất định cho lãi suất và tỷ giá.
Thứ ba, tăng cường cơ chế phối hợp giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt
là CSTT và CSTK.
Thứ tư, đẩy nhanh tiến trình tái cấu trúc hệ thống NHTM nhằm xây dựng hệ
thống ngân hàng hoạt động lành mạnh hơn, tiếp tục phân loại các ngân hàng yếu kém
đặt trong diện kiểm soát đặc biệt, và có phương án phục hồi hoặc sáp nhập ngân hàng…
Thứ năm, đẩy nhanh tiến trình tái cấu trúc đầu tư công, xây dựng lộ trình giảm
thâm hụt ngân sách bền vững, cải cách hệ thống thuế theo hướng mở rộng cơ sở thuế và
hạ thấp tỷ lệ thu thuế. Đồng thời, kỷ luật tài khóa phải được kiểm soát chặt chẽ, tránh chi
tiêu lãng phí gây thất thoát nguồn lực của đất nước.
Thứ sáu, thực thi chính sách tỷ giá linh hoạt và phát triển thị trường ngoại hối
phái sinh giúp các chủ thể tham gia thị trường có thể phân tán rủi ro và chấp nhận mức
biến động lớn hơn của tỷ giá. NHNN cần quyết liệt hơn nữa trong cuộc chiến chống đô la
hóa và vàng hóa.
3.1.2. Giải pháp trung và dài hạn
- 115
Thứ nhất, hoàn thiện thiết chế NHNN, theo đó sửa đổi bổ sung Luật NHNN Việt
Nam theo hướng nâng cao tính tự chủ cho NHNN trong điều hành và thực thi CSTT.
Thứ hai, nghiên cứu áp dụng khuôn khổ LPMT phù hợp, theo đó xây dựng hàm
phản ứng chính sách có tính tới các chỉ số ổn định tài chính, cùng với NHNN đã đạt được
niềm tin nhất định từ công chúng cho phép NHNN xây dựng và điều tiết nền kinh tế chủ
yếu thông qua lãi suất chủ đạo.
Thứ ba, chuyển dần từ cơ chế tỷ giá giới hạn sự biến động tối đa trong năm sang
cơ chế tỷ giá thả nổi có kiểm soát và không thông báo trước tỷ giá trung tâm.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với Quốc hội
Quốc hội tiếp tục chỉ đạo kiên định với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế
lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội và hỗ trợ tăng trưởng. Quốc hội quyết liệt chỉ đạo thực
hiện quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó đặc biệt là quá trình tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng, tái cấu trúc đầu tư công. Nghiên cứu hướng tới mô hình NHTW hiện
đại, độc lập hơn so với Chính phủ trong quá trình thiết lập và điều hành CSTT nhằm
nâng cao hiệu lực và hiệu quả điều hành CSTT.
3.2.2. Đối với Chính phủ
Chính phủ tiếp tục kiên định với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm
phát đã được thực hiện trong thời gian qua. Chính phủ cần thực thi những biện pháp hỗ
trợ tăng trưởng, đảm bảo an sinh xã hội, ổn định giá cả luôn là mục tiêu ưu tiên hàng đầu,
ngay cả trong thời kỳ lạm phát thấp. Tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa các chính
sách kinh tế trong quá trình điều hành, nhất là CSTT và CSTK. Đặc biệt, Chính phủ dần
nới lỏng hơn tính tự chủ cho NHNN trong quá trình thực thi CSTT trước khi hoàn thiện
mô hình NHTW hiện đại theo luật định.
3.2.3. Đối với NHNN
Kiên định và xuyên suốt mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền mà biểu hiện bằng chỉ
tiêu lạm phát trong điều hành CSTT. Đổi mới khuôn khổ điều hành CSTT dần chuyển từ
điều hành theo khối lượng sang kiểm soát kết hợp giữa điều hành khối lượng và giá cả
- 116
(lãi suất), khi đủ điều kiện chuyển sang kiểm soát hoàn toàn theo giá. Phát triển đồng bộ
và vững chắc thị trường tài chính Việt Nam. Hoàn thiện cơ sở pháp lý về hoạt động tiền
tệ ngân hàng theo hướng hiện đại phù hợp với thông lệ quốc tế, chỉ đạo xây dựng hệ
thống các TCTD hoạt động minh bạch và hiệu quả, thực hiện thành công tái cấu trúc các
NHTM.
KẾT LUẬN
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất của mỗi quốc
gia trong việc ổn định nền kinh tế. Thông qua các công cụ của CSTT, NHNN có thể thực
hiện được các mục tiêu mang tính vĩ mô như ổn định nền kinh tế, kiềm chế lạm phát…
Do đó việc nghiên cứu và nâng cao hiệu quả của CSTT là vô cùng cần thiết, đặc biệt
trong thời kì hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ như hiện nay.
Để điều hành CSTT một cách hiệu quả, trước hết phải xác định đúng mục tiêu và
định hướng của nó trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Từ đó có những giải pháp
đồng bộ vừa cải tiến, hoàn thiện những yếu tố sẵn có, vừa phát triển bổ sung những yếu
tố mới. Quá trình này đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu kiên trì không những của NHNN mà
của cả hệ thống ngân hàng. Đồng thời đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ của các Bộ,
ngành có liên quan trong quá trình thực hiện những mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Đặc
biệt việc điều hành CSTT sẽ lệ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận và vận dụng hệ thống
các công cụ thực thi CSTT của NHNN, nhất là công cụ gián tiếp, đồng thời gắn liền với
quá trình tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng hiện nay.
nguon tai.lieu . vn