Xem mẫu

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 3/2017

THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC

THỰC TRẠNG NGƯ CỤ HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC THỦY SẢN
TẠI ĐẦM NẠI, TỈNH NINH THUẬN
REAL SITUATION OF FISHING GEARS IN NAI LAGOON, NINH THUAN PROVINCE
Nguyễn Trọng Lương1, Nguyễn Đức Sĩ1, Lê Xuân Tài2
Ngày nhận bài: 15/8/2017; Ngày phản biện thông qua: 18/9/2017; Ngày duyệt đăng: 25/9/2017

TÓM TẮT
Nghiên cứu đã sử dụng phương pháp điều tra và khảo sát trực tiếp trên 5 loại ngư cụ hoạt động khai thác
thủy sản tại đầm Nại vào năm 2016. Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn 2009 ÷ 2015 số lượng hộ
khai thác thủy sản có xu hướng giảm dần, trung bình 3,6%/năm; Đầm Nại có 5 loại nghề đánh bắt cá, gồm:
lưới rê 3 lớp, lưới đáy, lờ dây, te và câu vàng; Ngư dân sử dụng tàu thuyền thô sơ, trang bị ngư cụ với kích
thước mắt lưới nhỏ, tính chọn lọc kém; Một số loại nghề vi phạm quy định về trang bị ngư cụ, sử dụng các hình
thức đánh bắt theo kiểu tận thu, tận diệt làm tổn hại đến môi trường và nguồn lợi thủy sản trong đầm. Mục tiêu
nghiên cứu nhằm làm rõ thực trạng ngư cụ hoạt động khai thác thủy sản tại đầm Nại, làm cơ sở cho việc quản
lý, giám sát hoạt đánh bắt và góp phần bảo vệ nguồn lợi thủy sản tại thủy vực.
Từ khóa: Khai thác thủy sản, ngư cụ, kích thước mắt lưới, nguồn lợi thủy sản, đầm Nại
ABSTRACT
Face to face interview was conducted to survey the fisheries activities in Nai lagoon in 2016. Our findings
showed that the annual number of fishing households decreased by approximately 3.6 % from 2009 to 2015.
Five different fishing gears were used including trammel net, stow net, maze fishing net, powered push net
and longline. Small boats were typically used for these fisheries, and most fishing gears were unfollowed the
national regulations with usual small mesh size and low selectivity. In some cases, they used destructive fishing
gear in this place. This fishing gear has damaged the marine resources and environment. This study investigated
the fishing gears situation, fisheries resources protection, and recommended solutions and measurements to the
manage fishing operation and protect fisheries resources in Nai lagoon.
Keywords: Fishing, fishing gear, mesh size, fisheries resources, Nai lagoon
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đầm Nại thuộc tỉnh Ninh Thuận là một
trong 12 đầm phá ven biển nước ta, là đầm
phá kiểu nhiệt đới khô hạn ven biển điển
hình [4]. Đầm Nại nằm trong khu vực dân cư
tập trung của 04 xã và 01 thị trấn bao quanh
(Tri Hải, Phương Hải, Tân Hải, Hộ Hải và 01
thị trấn Khánh Hải của huyện Ninh Hải) với

1
2

trên 4.000 hộ và khoảng trên 30.000 nhân
khẩu sống ven đầm có sinh kế phụ thuộc đáng
kể vào tài nguyên của đầm [5]. Đầm Nại nằm
sâu trong đất liền với diện tích tự nhiên khoảng
1.200 ha, có cửa thông ra biển với chiều dài
khoảng 2km và rộng 140 ÷ 400 m [4].
Hàng năm, đầm Nại cung cấp cho dân
cư trong khu vực này một khối lượng lớn về

Viện Khoa học và Công nghệ Khai thác Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
Trung tâm Giáo dục Quốc phòng Khánh Hòa, Trường Đại học Nha Trang

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 49

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
nguồn lợi thủy sản (NLTS) tự nhiên. Ngành
thủy sản ở đầm Nại phát triển đã đóng góp tích
cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương; tạo việc làm, thu nhập và góp phần
xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống của
nhân dân [3]. Những năm gần đây, nhu cầu
sử dụng sản phẩm thủy sản nhỏ làm thức ăn
cho các đối tượng nuôi ở các đìa và lồng bè
trên địa bàn tăng lên, đã thúc đẩy ngư dân khai
thác tận thu nên NLTS có xu hướng suy giảm,
làm ảnh hưởng đến sinh kế của cộng đồng
ngư dân.
Nghề khai thác thủy sản (KTTS) tại đầm
Nại có quy mô nhỏ, đa nghề, phương tiện chủ
yếu là thuyền thúng, tàu không lắp máy và một
số ít phương tiện lắp máy có công suất dưới
20 CV. Hoạt động khai thác diễn ra quanh năm
bằng các loại ngư cụ có kích thước mắt lưới
nhỏ và tính chọn lọc kém có tác động tiêu cực
đến NLTS.
Nghiên cứu hiện trạng ngư cụ sử dụng tại
đầm Nại nhằm cung cấp bức tranh tổng thể
về cơ cấu nghề, quy mô ngư cụ và đánh giá
mức độ vi phạm quy định về kích thước mắt
lưới, phương thức khai thác trong hoạt động
thủy sản. Kết quả nghiên cứu sẽ bổ sung thêm
cơ sở khoa học để cơ quan quản lý nghề cá
và chính quyền địa phương lập kế hoạch kiểm
tra, giám sát và tổ chức quản lý phù hợp, nhằm
phát triển nghề KTTS theo hướng bền vững,
ổn định sinh kế cho cộng đồng ngư dân.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Các loại ngư cụ được sử dụng KTTS tại
đầm Nại, tỉnh Ninh Thuận, gồm: Lưới rê 3 lớp,
lưới đáy, lờ dây, te và câu.
2. Vật liệu nghiên cứu
2.1. Ngư cụ
Khảo sát 5 loại ngư cụ, gồm: Lưới rê 3 lớp
30 mẫu, lưới đáy 7 mẫu, lờ dây 30 mẫu, te 15
mẫu, câu vàng 10 mẫu.

50 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

Số 3/2017
2.2. Công cụ nghiên cứu
- Thước đo: 01 chiếc thước cuộn loại 50,0
mét (Asaki AK - 2654) và 01 chiếc thước mica
loại 1,0 mét.
- Phiếu điều tra, khảo sát cho 5 loại ngư cụ.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp thu thập số liệu
- Điều tra số liệu thứ cấp được thực hiện
thông qua phỏng vấn các trưởng thôn, tổ
trưởng các tổ tại 4 địa phương quanh đầm Nại.
- Điều tra số liệu sơ cấp được thực hiện
thông qua phỏng vấn trực tiếp ngư dân sử
dụng ngư cụ với bảng câu hỏi được thiết
kế sẵn.
- Khảo sát các thông số kỹ thuật của ngư
cụ được thực hiện trực tiếp trên mẫu vật.
3.2. Phương pháp xử lý số liệu
- Số liệu được xử lý theo phương pháp
thống kê toán học trên công cụ Descriptive
Statistics
của
phần
mềm
Microsoft
Excel 2003.
- Số liệu được tính toán và đánh giá dựa
vào các giá trị thống kê như số học: Trung
bình, lớn nhất, nhỏ nhất và độ lệch chuẩn.
3.3. Phương pháp đánh giá
- Kích thước mắt lưới kéo căng (2a) được
xác định theo TCVN 8393:2012 [2].
- Kích thước mắt lưới kéo căng được đánh
giá dựa trên quy định tại Thông tư số 62/2008/
TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn [1].
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Cơ cấu nghề khai thác thủy sản
1.1. Biến động số hộ ngư dân và và cơ cấu
nghề KTTS
Giai đoạn 2009 ÷ 2015, tổng số hộ KTTS
ở đầm Nại có xu hướng giảm dần, từ 1.249
xuống còn 933 hộ, tương ứng với 25,3%. Tuy
nhiên, nếu xét năm 2009 và 2010 thì số hộ
ngư dân có tăng lên 80 hộ, từ 1.294 lên 1.329,
tương ứng 6,02%; giai đoạn từ 2011 ÷ 2015 số
hộ khai thác liên tục giảm, từ 1.019 hộ (năm
2011) xuống còn 933 hộ (năm 2015).

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 3/2017

Cơ cấu nghề khai thác tại đầm Nại có sự
khác nhau rất lớn, chủ yếu là nghề lưới rê và
cào sò. Đây là đặc trưng lớn của nghề khai
thác tại đầm Nại và phù hợp với đặc điểm

nguồn lợi, địa hình của thủy vực. Thống
kê nghề khai thác tại đầm Nại giai đoạn
2009 ÷ 2015 được thể hiện ở Bảng 1.

Bảng 1. Thống kê số hộ theo nghề KTTS giai đoạn 2009 ÷ 2015
TT

Nghề

1

Lưới rê

2

Số lượng hộ ngư dân theo năm (Hộ)
2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

445

470

390

390

389

367

367

Lưới đáy

7

7

7

7

7

7

7

3

Câu vàng

13

15

11

12

15

15

15

4

Lờ dây

72

54

50

53

54

54

54

5

Cào sò

442

513

370

365

343

341

328

6

Te

120

120

56

45

31

25

25

7

Khai thác hàu

150

150

135

135

135

135

137

1.249

1.329

1.019

1.007

974

944

933

Tổng

Từ Bảng 1 cho thấy:
- Đầm Nại có 7 loại nghề KTTS. Trong đó,
nghề lưới rê có số lượng hộ tham gia nhiều
nhất, tiếp đến là nghề cào sò (sò huyết và sò
lông), ít nhất là nghề lưới đáy.
- Số hộ ngư dân làm nghề lưới đáy không
thay đổi, các nghề khác có xu hướng giảm dần.
1.2. Biến động số lượng tàu thuyền
Diện tích mặt nước và độ sâu của đầm

hạn chế nên quy mô nghề cá tại đây chưa
mạnh. Hoạt động nghề vừa mang tính cơ
giới vừa thủ công. Một số nghề như lưới rê,
đáy, câu vàng, lờ dây sử dụng tàu thuyền,
các nghề khác như cào sò, te, khai thác hàu
chủ yếu sử dụng công cụ thô sơ với sức
người là chính.
Số lượng tàu thuyền KTTS tại đầm Nại giai
đoạn 2009 ÷ 2015 được thể hiện ở Bảng 2.

Bảng 2. Số lượng tàu thuyền KTTS theo nghề giai đoạn 2009 ÷ 2015
TT

Nghề

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

445

470

390

390

389

367

367

1

Lưới rê

2

Lưới đáy

7

7

7

7

7

7

7

3

Câu vàng

13

15

11

12

15

15

15

4

Lồng bẫy

72

54

50

53

54

54

54

537

546

458

462

465

443

443

Tổng

Từ Bảng 2 cho thấy:
- Biến động số lượng tàu thuyền qua các
năm có xu hướng giảm dần, từ 537 chiếc năm
2009, giảm còn 443 chiếc năm 2015 và trung
bình mỗi năm giảm 2,5%.
- Tàu thuyển được sử dụng cho các nghề
lưới rê, lưới đáy, câu vàng và lờ dây. Trong
đó, tàu thuyền của nghề lưới rê chiếm đa số,

với tỷ lệ trùng bình trong cả giai đoạn là 84%;
tiếp đến là nghề lờ dây với 11,7%; số còn lại là
nghề câu và lưới đáy lần lượt là 2,9% và 1,4%.
1.3. Biến động sản lượng và lợi nhuận của hoạt
động KTTS
Tổng sản lượng và lợi nhuận của nghề
KTTS giai đoạn 2009 ÷ 2015 được thể hiện ở
Hình 1.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 51

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 3/2017

Hình 1. Biến động sản lượng và lợi nhuận KTTS

Từ biểu đồ Hình 1 cho thấy:
- Sản lượng thủy sản giảm mạnh, từ
564,4 tấn (2009) xuống còn 332,6 tấn (2015),
trung bình giảm gần 6%/năm trong giai đoạn
2009 ÷ 2015.
- Lợi nhuận từ hoạt động KTTS giảm mạnh
theo thời gian, từ 16.273 triệu đồng (2009)
xuống còn 10.849 (2015), trung bình giảm
gần 5%.
Mức giảm lợi nhuận và sản lượng khai
thác gần bằng nhau, nghĩa là giá sản phẩm và
chi phí sản xuất khá ổn định trong cả giai đoạn.
Điều này cho thấy trữ lượng NLTS đã và đang
bị suy giảm nhanh trong thời gian vừa qua. Bên
cạnh đó, số lượng ngư cụ và lao động tham gia

KTTS đã giảm xuống nhưng năng suất và sản
lượng vẫn tiếp tục giảm là minh chứng rõ nét
mức độ tổn thương của nguồn lợi.
2. Thực trạng ngư cụ
2.1. Lưới rê
Do lưới rê đơn hoạt động kém hiệu quả nên
từ năm 2008 đến nay ngư dân chuyển sang
nghề lưới rê 3 lớp. So với lưới rê đơn, lưới rê
3 lớp đánh bắt được nhiều đối tượng với kích
thước khác nhau nên sản lượng và hiệu quả
kinh tế được cải thiện. Đến năm 2015, đầm Nại
có 367 hộ sử dụng lưới rê 3 lớp. Kết quả khảo
sát thông số kỹ thuật của 30 mẫu lưới rê được
thể hiện ở Bảng 3.

Bảng 3. Thông số kỹ thuật của lưới rê 3 lớp
TT

Các thông số kỹ thuật

ĐVT

Lớn nhất

Trung bình

Nhỏ nhất

Độ lệch chuẩn

1

Chiều dài dây giềng phao

m

38,0

36,1

35,0

± 1,2

2

Chiều cao rút gọn lớp ngoài

m

2,4

1,9

1,2

± 0,4

3

Chiều cao kéo căng lớp giữa

m

2,8

2,4

1,8

± 0,4

4

2a lớp giữa

mm

24,0

24,0

24,0

± 0,0

5

2a lớp ngoài

mm

100,0

97,1

96,0

± 1,8

6

Hệ số rút gọn lớp ngoài

0,6

0,6

0,6

± 0,0

7

Hệ số rút gọn lớp giữa

0,55

0,50

0,45

± 0,05

8

Chiều dài vàng lưới

555,0

448,1

350,0

± 64,2

m

Từ Bảng 3 cho thấy:
- Kích thước tấm lưới ngắn, chiều dài giềng
phao từ 35 ÷ 38 m, trung bình 36,1 m; chiều
cao rút gọn từ 1,2 ÷ 2,4 m, trung bình 1,9 m.
- Mỗi hộ ngư dân trang bị từ 10 ÷ 15 tấm lưới,
chiều dài vàng lưới trung bình 448 m. Đầm Nại

52 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG

có diện tích 1.200 ha – được đánh giá là ngư
trường hẹp nên ngư dân sử dụng chiều dài vàng
lưới ngắn nhằm hạn chế sự cạnh tranh ngư
trường và xung đột trong quá trình đánh bắt.
- Kích thước mắt lưới lớp ngoài lớn gấp
4 lần lớp giữa, từ 96 ÷ 100 mm. Kích thước

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản

Số 3/2017

mắt lưới lớp giữa nhỏ (2a = 24 mm). Hệ số rút
gọn của lớp lưới giữa từ 0,45 ÷ 0,55 nhằm tăng
độ chùng và nâng cao khả năng đánh bắt.
Các nhà khoa học đã khuyến cáo việc sử
dụng lưới rê 3 lớp sẽ làm giảm tính chọn lọc
trong KTTS, làm tăng nguy cơ suy giảm NLTS,
đặc biệt khi sử dụng 2a và hệ số rút gọn ở
lớp giữa nhỏ [6], [9]. Tuy nhiên, 100% hộ làm
nghề lưới rê tại đầm Nại đang sử dụng loại
ngư cụ này. Do đó, các nhà quản lý thủy sản ở

địa phương cũng cần xem xét vấn đề này nếu
không muốn NLTS tiếp tục suy giảm.
2.2. Lưới đáy
Lưới đáy ở đầm Nại được cố định bằng
cọc tại khu vực cầu Tri Thủy – là nơi hẹp nhất
lạch nối từ đầm với vịnh Phan Rang (Hình 2).
Đến năm 2015, có 7 hộ ngư dân làm nghề đáy
với 7 miệng lưới. Kết quả khảo sát thông số
kỹ thuật của 7 miệng lưới đáy được thể hiện
ở Bảng 4.

Bảng 4. Thông số kỹ thuật của lưới đáy
TT

Các thông số kỹ thuật

ĐVT

Lớn nhất

Trung bình

Nhỏ nhất

Độ lệch chuẩn

1

Chiều dài giềng phao

m

42,0

38,6

35,0

± 2,7

2

Độ mở ngang miệng lưới

m

36,0

33,4

30,0

± 2,5

3

Độ mở đứng miệng lưới

m

3,5

2,6

2,0

± 0,5

4

2a ở miệng lưới

mm

26,0

25,1

24,0

± 1,1

5

2a ở đụt lưới

mm

12,0

12,0

12,0

± 0,0

6

Chiều dài vàng lưới

m

21,0

16,6

14,0

± 2,8

Từ Bảng 4 cho thấy:
- Chiều dài trung bình dây giềng phao 38,6 m;
độ mở ngang miệng lưới 33,4 m; độ mở đứng
miệng lưới từ 2,0 ÷ 3,5 m, trung bình đạt 2,6 m
và chiều dài trung bình vàng lưới 16,6 m.
- Kích thước mắt lưới giảm dần từ phần

Hình 2. Vị trí đặt lưới đáy tại đầm Nại

miệng lưới đến đụt lưới. Trong đó, 2a phần
miệng lưới từ 24,0 ÷ 26,0 mm và phần đụt
12 mm.
Đụt lưới là bộ phận giữ cá và không cho
cá thoát ra ngoài, nhưng kích thước mắt lưới
nhỏ sẽ hạn chế khả năng chọn lọc của ngư cụ
và làm tăng mức độ tác động tiêu cực
đến NLTS, đặc biệt là cá chưa trưởng
thành. Tuy nhiên, 100% vàng lưới
đáy có kích nước mắt lưới tại đụt là
12 mm. Như vậy, kích thước mắt lưới
ở đụt nhỏ hơn quy định tại Thông tư
62/2008/TT-BNN ngày 25/5/2008 của
Bộ NN&PTNT [1]. Bên cạnh đó, lưới
đáy được bố trí ngay tại khu vực cầu
Tri Thủy, căng ngang gần hết cửa đầm
nên các loại thủy sản khi qua cửa sẽ
bị dồn vào lưới. Do đó, muốn bảo vệ
NLTS ở đầm Nại, các nhà quản lý cần
xem xét đến kích thước mắt lưới và vị
trí đặt đáy.
2.3. Lờ dây
Trước đây, khi nghề lờ dây chưa
xuất hiện, ngư dân quanh đầm thường
sử dụng lồng bẫy có dạng hình hộp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 53

nguon tai.lieu . vn