Xem mẫu

  1. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010 tích số liệu Điều tra mức sống hộ gia chế xuất ở Việt Nam, Nhà xuất bản đình Việt Nam, 2008. Lao động-Xã hội, Hà Nội, 2009. 5. ILSSA và UNIFEM, Tác động kinh tế- 7. ILSSA và WB, Tuổi nghỉ hưu của Lao xã hội của việc gia nhập WTO tới lao động nữ Việt Nam – Bình đẳng giới và động nữ nông thôn Việt Nam, trường Sự bền vững Quỹ Bảo hiểm xã hội, Hà hợp Hải Hương và Đồng Tháp, Hà Nội, 2009. Nội, 2009. 6. ILSSA và ILO Việt Nam, Thực trạng tuyển dụng và việc làm của Lao động nữ di cư tới các khu công nghiệp, khu THỰC TRẠNG LỒNG GHÉP GIỚI TRONG CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO GIAI ĐOẠN 2006-2010 Phạm Đỗ Nhật Thắng sách an sinh xã hội, miễn giảm thuế sử I. Khái quát các đánh giá việc thực hiện dụng đất nông nghiệp, trợ giúp người Chương trình Mục tiêu Quốc gia về xóa nghèo về nhà ở, công cụ lao động và đất đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 và sản xuất). công tác lồng ghép giới trong quá trình thực hiện. - Các dự án hỗ trợ trực tiếp XĐGN, gồm: Nhóm các dự án XĐGN chung (Dự Chương trình Mục tiêu Quốc gia án tín dụng cho hộ nghèo vay vốn phát (CTMTQG) về xóa đói giảm nghèo triển sản xuất kinh doanh; dự án khuyến (XĐGN) được thực hiện với 2 giai đọan: nông-lâm-ngư; dự án xây dựng mô hình giai đoạn 2001-2005 và giai đoạn 2006 - XĐGN ở các vùng đặc thù bãi ngang ven 2010. Kết thúc giai đoạn 1, Ban chỉ đạo biển, vùng cao, biên giới hải đảo...) và Quốc gia đã tiến hành tổ chức đánh giá, nhóm các dự án XĐGN cho các xã nghèo tổng kết toàn bộ các chương trình/dự án không thuộc chương trình 135. (Dự án xây đã/đang được triển khai thuộc giai đoạn. dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu các xã nghèo: Các nội dung cơ bản được thực hiện thủy lợi nhỏ, trường học, trạm y tế, đường trong giai đoạn 2001-2005, bao gồm: dân sinh, điện, nước sinh hoạt, chợ; dự án - Các chính sách hỗ trợ cho người hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề nghèo, hộ nghèo, xã nghèo. (Đó là các các xã nghèo; dự án đào tạo bồi dưỡng cán chính sách hỗ trợ về y tế, giáo dục, chính bộ làm công tác XĐGN; dự án ổn định di 21
  2. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010 dân và xây dựng kinh tế mới định canh hiện từ 2007, những hoạt động với mục định cư.) tiêu bình đẳng giới đã có những thành công nhất định làm thay đổi tích cực diện Theo đó các chương trình/dự án nêu trên mạo các đóng góp của phụ nữ trong mọi đồng loạt được thực hiện triển khai trên lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đánh giá về vấn phạm vi toàn quốc tương ứng với đặc điểm đề này ở Việt Nam Ngân hàng Thế giới vùng/miền. Đánh giá kết quả đạt được theo cho biết "Việt Nam là một trong những báo cáo của Ban chỉ đạo quốc gia về nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham XĐGN cho thấy: gia các hoạt động kinh tế, là một trong "Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, trong Báo những nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng cáo phát triển Việt Nam 2004 có ghi nhận: giới...là quốc gia đạt được sự thay đổi Những thành tựu giảm nghèo của Việt nhanh chóng nhất về xóa bỏ khoảng cách Nam là một trong những câu chuyện thành giới trong 20 năm qua ở khu vực Đông Á". công nhất trong phát triển kinh tế. Tỷ lệ hộ (Tham luận của lãnh đạo Bộ LĐTB-XH tại nghèo giảm nhanh trong vòng 5 năm từ Diễn đàn Bình đẳng giới và Giảm nghèo 17,2% năm 2001 (2,8 triệu hộ) xuống dưới bền vững-HN 2/6/2008) 7% năm 2005 (1,1 triệu hộ), bình quân mỗi Hay: “So với các nước khác ở khu vực năm giảm khoảng 34 vạn hộ." (Báo cáo Đông Á và Thái Bình Dương, Việt Nam có đánh giá thực hiện CTMTQG XĐGN giai tỷ lệ đại biểu nữ trong Quốc hội cao nhất, đoạn 2001-2005- Ban chỉ đạo Quốc gia). tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động Và đánh giá cũng cho thấy, tại giai đoạn cao nhất trên thế giới; thật phấn khởi khi này của CTMTQG, các chính sách, chương thấy Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trình dự án cũng đã được tổng kết thành về bình đẳng giới. Chính tôi thấy phụ nữ ở công, hạn chế và những vấn đề cần được đất nước này tham gia tích cực trong đời khắc phục trong giai đoạn tiếp theo. sống kinh tế, chính trị. Tuy nhiên để đánh giá chương trình theo Việt Nam đã đạt tỷ lệ biết chữ ngang cách tiếp cận Bình đẳng giới và giảm ngèo nhau ở nam và nữ thanh niên. Việt Nam bền vững thì còn có những vấn đề hạn chế cũng có rất nhiều khả năng đạt được mục của hoạt động lồng ghép giới trong các tiêu xóa bỏ khoảng cách về giới ở bậc giáo chương trình/dự án XĐGN, mà chính dục tiểu học và trung học. những hạn chế này là một trong các tác động (không mong muốn) tới kết quả của Tuy nhiên, sân chơi vẫn chưa bằng cả chương trình, điều cần được khắc phục phẳng, phụ nữ Việt Nam tiếp tục phải đối trong thực hiện giai đoạn 2006-2010. mặt với những thách thức và trở ngại. Tỷ lệ tham gia của phụ nữ ở một số ngành, Xét trên bình diện chung trong sự phát nghề quá cao, nhưng ở một số ngành nghề triển của nền kinh tế đất nước, với mục khác lại quá thấp. Nam giới được hưởng tiêu xã hội công bằng, dân chủ văn minh, lợi nhiều hơn từ những công việc đi kèm vấn đề bình đẳng giới đang từng bước đi với quyền lực và quyền gia quyết định. vào đời sống xã hội nhất là từ sau khi có Ngoài ra, vấn đề bạo hành gia đình vẫn Luật Bình đẳng Giới (BĐG) được thực còn là một vấn đề bức xúc”.(John Hendra, 22
  3. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010 Điều phối viên Thường trú Liên hợp quốc thực hiện triển khai, nhưng lại chỉ được tại Việt Nam -19/3/2009 tại lễ ký kết hiểu đến như một vấn đề cần ưu tiên phụ chương trình hợp tác giữa Chính phủ Việt nữ mà thôi và đôi khi vượt lên cả mức cần Nam và Liên hợp quốc, giúp tăng cường thiết, hệ quả là phụ nữ lại phải làm cả vấn đề bình đẳng giới tại Việt Nam) những công việc nặng nhọc mà lẽ ra đó là công việc mà nam giới phải thực hiện (ví Giai đọan 2001-2005 chương trình Mục dụ như tại một số dự án về giao thông tiêu Quốc gia về XĐGN với vấn đề lồng nông thôn, để ưu tiên phụ nữ có việc làm, ghép giới trong quá trình thực hiện dường có thêm thu nhập, người ta đã "ưu tiên" như mới chỉ là sự nỗ lực của các nhà hoạch cho phụ nữ làm cả những công việc như định, các Ban chỉ đạo (BCĐ) cấp Trung vác đá hộc lấp nền đường, làm việc ngay ương và cấp tỉnh, phần còn lại để thực hiện cả tại nơi nổ mìn khai thác đá...), có thể trong thực tiễn thì hầu như không/không hiểu một số nguyên nhân cơ bản về các đáng kể. Điều này được thể hiện ngay hạn chế trong thực hiện triển khai lồng trong báo cáo đánh giá của BCĐ khi kết ghép giới như sau: thúc giai đoạn 1 và thiết kế cho giai đoạn 2 (2006-2010). Có thể thấy quan điểm lồng - Các khái niệm về giới chưa được hiểu ghép giới để thực hiện bình đẳng giới đã một cách thấu đáo tại các cấp cơ sở không có ngay từ giai đọan đầu của huyện/xã dẫn đến những nhận thức về giới chương trình, tức là vấn đề hệ thống đã là chưa được đúng đắn. không được nhắc đến, mặc dù mục tiêu đã - Bìng đẳng nam nữ được nhắc đến như chỉ rõ phụ nữ nghèo/phụ nữ chủ hộ nghèo một khẩu hiệu, mặc dù đã có những tiến bộ thuộc nhóm dễ tổn thương là đối tượng cần nhất định về bình đẳng, tuy nhiên để tiến được quan tâm đặc biệt. tới sự thường trực lồng ghép giới trong các Trong báo cáo đánh giá CT MTQG chương trình.dự án XĐGN nhằm thực hiện XĐGN giai đoạn 2001-2005 rất tiếc đã Bình đẳng giới thì còn là một khoảng cách không hề có nội dung nào tổng kết hiệu đáng kể. quả của hoạt động lồng ghép giới vào các - Thiếu cán bộ có kiến thức/kỹ năng giai đoạn của các chương trình/dự án được lồng ghép giới tại các cấp cơ sở, ở đó hội thực hiện trong suốt giai đoạn này, trên phụ nữ tỏ ra có năng lực hơn cả về kỹ năng thực tế như phần đầu đã đề cập, vấn đề này, tuy nhiên vai trò thực hiện ở địa bàn lồng ghép giới chỉ mới được quan tâm ở lại thường không có vị trí quyết định. tầm vĩ mô, khi tổ chức chỉ đạo thực hiện triển khai xuống các địa phương, các hoạt - Quan trọng hơn vẫn là không có kiểm động quản lý cũng đã chú ý tới công tác tra, giám sát đánh giá hoạt động của mỗi tập huấn các nội dung liên quan tới vấn đề giai đoạn, định kỳ và phạm vi. giới trong quá trình triển khai, tuy nhiên II. Thực trạng lồng ghép giới trong quá khi thực hiện triển khai tại các địa bàn hoạt trình xây dựng, thực hiện, giám sát, động này lại không là vấn đề được lưu tâm đánh giá CTMTQG về XĐGN 2006- của các nhà quản lý cấp cơ sở, giới không 2010. phải là việc bị bỏ quên hoàn toàn trong 23
  4. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010 CTMTQG về XĐGN giai đoạn 2006- dung của hợp phần về đào tạo các kỹ năng 2010 đã triển khai được 4 năm, đã có hoạt cho cán bộ các cấp thì kỹ năng lồng ghép động đánh giá giữa kỳ, xét riêng về hoạt giới là một trong các kỹ năng được quan động lồng ghép giới trong các chương tâm và là một trong các phương pháp trình/dự án thuộc chương trình thì dường hướng tới việc thực hiện hiệu quả của dự như không khả quan so với giai đoạn án. Tuy nhiên điều đáng lưu ý ở đây là, kỹ trước, mặc dù trong một số dự án của giai năng lồng ghép giới được quan tâm tập đoạn, đối tượng là phụ nữ nghèo cũng đã huấn cho cán bộ các cấp trong thực hiện được xem như đối tượng được ưu tiên và giảm nghèo, vấn đề này lại không được cần có sự quan tâm hơn. Trong 10 chính thể hiện trong cả 10 chương trình/dự án sách, dự án được triển khai mà đối tượng của cả giai đoạn tại cách xác định đối thụ hưởng trực tiếp là người nghèo trên tượng, phạm vi, tại nội dung, tại cơ chế phạm vi toàn quốc tại các vùng miền khác thực hiện ở mỗi chính sách/dự án thuộc nhau, có 2 nội dung mà phụ nữ nghèo được chương trình. Như vậy ngay từ khâu thiết nhắc tới thuộc đối tượng ưu tiên và xem kế chương trình, vấn đề lồng ghép giới đã như có dấu hiệu về giới, đó là: không được quan tâm một cách triệt để cho toàn bộ nội dung, phạm vi của chương - Chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ trình, có thể vì lẽ đó khi triển khai ở các nghèo, theo đó "hộ nghèo, ưu tiên phụ nữ cấp cơ sở lồng ghép giới đã không thực sự là chủ hộ..." là thuộc đối tượng, phạm vi được chú ý với đầy đủ ý nghĩa của nó. của chính sách dự án. Cần được nhắc lại một lần nữa, các phân - Dự án khuyến nông - lâm - ngư và hỗ tích đánh giá sau đây đối với các chính trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành sách, dự án thuộc CTMTQG GN với nghề, "...ưu tiên cho các đối tượng là phụ phương pháp tiếp cận theo quan điểm lồng nữ nghèo..." là đối tượng được ưu tiên ghép giới trong triển khai thực hiện, nhằm ngoài các đối tượng được qui định khác tìm hiểu mức độ nhận thức, hiểu biết và của dự án. các kỹ năng cần thiết về giới, lồng ghép Như vậy với cách xác định đối tượng thụ giới và bình đẳng giới trong giảm nghèo hưởng của dự án thì 2 dự án trên đây, phụ bền vững, vì vậy cũng cần thiết để chỉ ra nữ nghèo xem như một điểm nhấn trong được hoạt động lồng ghép giới đã thực sự thực hiện triển khai, 8/10 dự án còn lại được triển khai ở mức độ nào và hiệu quả người nghèo nói chung/phụ nữ nghèo nói của nó, đồng thời có thể khuyến nghị cho riêng đều thụ hưởng chung tác động của dự ngắn hạn trong thời gian còn lại của án. chương trình. Một nội dung quan trọng khác thuộc Tại Diễn đàn bình đẳng giới và giảm chương trình đó là dự án nâng cao năng lực nghèo bền vững diễn ra ngày 02/6/2008 giảm nghèo, bao gồm 2 hợp phần: đào tạo tại Hà Nội do Bộ Lao động, Thương binh cán bộ giảm nghèo và hoạt động truyền và Xã hội (LĐTBXH) và tổ chức SIDA thông, tại hợp phần nâng cao năng lực cán Thụy Điển đồng tổ chức, nhiều diễn văn bộ làm công tác giảm nghèo, trong các nội tham luận được trình bày tại Diễn đàn 24
  5. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010 xung quanh vấn đề Giới và Bình đẳng giới việc lồng ghép giới nói chung cũng như với công cuộc XĐGN bền vững ở Việt trong các dự án thuộc CTMTQGGN là Nam, diễn đàn cũng đã chỉ ra những thành chưa đạt được kết quả như kỳ vọng. Mặc công nhất định trong nhiều năm lại đây về dù trong nhiều năm trở lại đây, việc thống phấn đấu cho một xã hội công bằng nói kê các chỉ tiêu có liên quan tới con người chung và bình đẳng giới nói riêng ở Việt đều được qui định phân lớp theo giới tính, Nam và đặc biệt trong các thành tựu của thực tế trong triển khai tại nhiều cấp cơ sở, công tác XĐGN, tuy nhiên cần thấy rằng, yêu cầu này nhiều khi bị quên lãng, hoặc các tham luận, ý kiến tại Diễn đàn cũng không thể thực hiện do nhiều lý do cả về cho thấy: vấn đề lồng ghép giới trong chủ quan lẫn khách quan, đặc biệt không XĐGN còn nhiều hạn chế, đồng thời bình có tính hệ thống về không gian, thời gian đẳng giới trong tương lai được xem là một và phạm vi, nếu có chỉ là các thống kê của giải pháp để giảm nghèo bền vững và vấn các cuộc điều tra có tính chuyên biệt. đề này cần được nghiêm túc thiết kế/có kế Về hoạt động phân tích tổ chức và hoạch chi tiết và thực hiện ngay trong thời chương trình hoạt động của tổ chức, có lẽ gian tiếp theo của chương trình MTQGGN nội dung này được thực hiện chủ yếu và một cách hệ thống. hầu như chỉ ở phạm vi cấp Trung ương/vĩ Về thực trạng của công tác thu thập mô, nhìn chung khi tổ chức triển khai dự thông tin, số liệu và phân tích giới, đây án/chương trình vấn đề yêu cầu lồng ghép chính là một nội dung quan trọng và trước giới luôn được đề cập, tập huấn kỹ năng, tổ hết để có thể thực hiện các kỹ năng lồng chức thực hiện, tuy nhiên khi triển khai ghép giới vào các giai đoạn trong các trên thực tế địa bàn, việc lồng ghép thường chính sách, dự án, tuy nhiên có thể thấy không được quan tâm chặt chẽ, lý do: đây là vấn đề còn nhiều hạn chế ở ngay cả - Thiếu thống kê, thông tin phân tích hệ thống vi mô lẫn vĩ mô. Vấn đề này cũng theo giới từ cấp cơ sở (như đã đề cập ở được nêu ra trong báo cáo của Bộ trên) LĐTBXH "Tổng quan về Bình đẳng giới ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong - Thiếu cán bộ có kỹ năng, vì đây là một thực hiện triển khai bình đẳng giới", trong kiến thức còn mới đối với cán bộ cơ sở, từ đó thiếu thông tin, dữ liệu tách biệt theo nhận thức đến trở thành thói quen trong lập giới tính ở tất cả các lĩnh vực được xem là kế hoạch/thực hiện triển khai còn là một một khó khăn, thách thức: "Không có khoảng cách lớn. thông tin, dữ liệu tách biệt theo giới hoặc - Những cán bộ được tập huấn nhiều hơn có nhưng ít, không đầy đủ, không đồng bộ, (trong hội phụ nữ) tại các cấp cơ sở lại không toàn diện, nên khó có thể đánh giá thường tham gia với tư cách thành viên, ít chính xác những vấn đề liên quan tới bình được phụ trách/đảm nhận những nội dung đẳng giới cũng như đưa được ra những cụ thể và ít có cơ hội áp dụng kiến thức giải pháp hữu hiệu nhằm đảm bảo và đạt cũng như tham mưu cho lãnh đạo. được mục tiêu bình đẳng giới". Đây chính là một trong các thực chất của vấn đề mà 25
  6. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010 - Chưa có cơ chế theo dõi, kiểm soát về Cách làm phổ biến trong thời gian qua hoạt động lồng ghép giới trong thực hiện chính là điểm hạn chế, là rào cản "vô tình" triển khai các dự án/chính sách. trong thực hiện hoạt động lồng ghép giới, cũng chính vì vậy hiệu quả của công tác Về lập kế hoạch lồng ghép giới, đánh lồng ghép giới trong CTMTQG GN mới giá giám sát trên quan điểm giới, như trên chỉ đạt được ở khâu vận động tuyên truyền đề cập, các bước tiến hành trên đều đã hạn nâng cao nhận thức, nhưng để có được chế thì ở nội dung này lẽ đương nhiên trở hành động/thói quen trong lồng ghép thì thành hệ quả. Các chính sách/dự án dành còn là vấn đề trong tương lai. Có thể chính cho XĐGN được áp dụng trực tiếp cho vì sự hạn chế này nên trong báo cáo đánh người nghèo, là những người sống tại địa giá giữa kỳ 2006-2010 các kết quả hoạt bàn cơ sở, việc lồng ghép giới về nguyên động lồng ghép giới cũng không được đề tắc phải được xây dựng lập kế hoạch từ cập. đây, phải có sự tham vấn và sự tham gia xây dựng kế hoạch của người dân và làm Trở lại với tất cả các chính sách, dự án như vậy mới cho rõ những nhu cầu có tính thuộc CTMTQG GN giai đoạn 2006-2010 chất giới. Một số năm gần đây, các Ban chỉ cho thấy có các nhóm nội dung sau: đạo cấp tỉnh/huyện cũng đã chủ trương áp - Nhóm chính sách và dự án hỗ trợ dụng phương pháp lập kế hoạch theo mô người nghèo phát triển sản xuất và tạo thu hình phân cấp trao quyền, người dân được nhập: tham gia xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội địa phương, đây là một chủ  Chính sách về tín dụng ưu đãi hộ trương thể hiện nhiều ưu điểm và về lý nghèo thuyết sẽ tạo được những tiêu chí cơ bản  Chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho hộ cho hoạt động lồng ghép giới: các nhu cầu nghèo dân tộc thiểu số (DTTS) có tính chất giới. Tuy nhiên trên thực tế áp  Dự án khuyến nông - lâm - ngư và hỗ dụng vẫn còn nhiều yếu kém mà chưa thể trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành áp dụng trên phạm vi rộng, nhiều địa nghề phương vẫn phải làm theo phân bổ kế hoạch/kinh phí, cầm tay chỉ việc. Đánh giá  Dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng giữa kỳ của giai đoạn 2006-2010 cũng cho thiết yếu cho các xã đặc biệt khó khăn thấy:" Thiết kế của một số chính sách và vùng bãi ngang ven biển và hải đảo dự án của CTMTQG GN còn phụ thuộc  Dự án dạy nghề cho người nghèo chủ yếu vào nguyên tắc tập trung "một  Dự án nhân rộng mô hình giảm nghèo mẫu hình cho tất cả" và theo phương pháp tiếp cận từ trên xuống, có thể không phù - Nhóm chính sách hỗ trợ người nghèo hợp với những đặc thù riêng của nhiều tình tiếp cận các dịch vụ xã hội huống nghèo đói khác nhau diễn ra ở cấp  Chính sách hỗ trợ về y tế cho người cơ sở và như vậy sẽ gây lãng phí đáng kể nghèo về phí vận hành qua nhiều cấp trong hệ thống hành chính công"  Chính sách hỗ trợ giáo dục cho người nghèo 26
  7. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010  Chính sách nhà ở và nước sạch cho ra ở đây một số các chính sách dự án thuộc người nghèo chương trình:  Chính sách hỗ trợ pháp lý cho người Chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo nghèo là một minh chứng, trong thực tế thực hiện tại cấp cơ sở, chính sách này có - Nhóm dự án hỗ trợ nâng cao năng lực thể được đánh giá là một trong những và nhận thức chính sách có hiệu quả cao, 70% hộ nghèo  Dự án nâng cao năng lực giảm nghèo được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng  Giám sát và đánh giá (2006-2008), tuy nhiên số liệu về tỷ lệ nữ chủ hộ nghèo được vay vốn ưu đãi là Báo cáo này không nhằm đánh giá kết không có. Mặt được của chính sách này là quả kinh tế - xã hội của từng chính sách/dự nhằm hướng tới những thuận lợi hơn cho án trong cả chương trình, mà chỉ thông qua phụ nữ nghèo khi tiếp cận vốn vay (phụ nữ đánh giá chung của các nội dung thuộc phát huy/quản lý tốt hơn nguồn vốn vay), CTMT để xem xét và phân tích hoạt động thủ tục đơn giản hơn khi vay (Hội phụ nữ lồng ghép giới trong quá trình thực hiện nhận uỷ thác hay đứng làm tín chấp), vay triển khai. Trong đánh giá giữa kỳ, các các nguồn vốn khác phải có sự đồng thuận chính sách/dự án đều được đánh giá theo cả vợ chồng khi cần thế chấp "sổ đỏ" vì khung đánh giá bao gồm 5 nội dung và cho phụ nữ và nam giới có quyền như nhau điểm theo từng nội dung, như đã nhắc tới ở trong vai trò chủ sử dụng đất...Thực tế cho trên, các đánh giá về hoạt động lồng ghép thấy phụ nữ vay vốn quản lý vốn hiệu quả giới trong quá trình thực hiện là không hơn so với nam giới, ít rủi ro, đồng thời tỷ được đề cập, mặc dù lồng ghép giới là một lệ hoàn vốn (đồng vốn/thời gian hoàn vốn) hoạt động đã được quán triệt trong quá cao hơn. trình triển khai, trong xác định đối tượng, nhưng lại không có trong nội dung của Báo Chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho hộ cáo đánh giá giữa kỳ CTMTQG GN, giải nghèo DTTS, đây là chính sách đặc biệt đối thích về vấn đề này chỉ có thể được hiểu với người nghèo DTTS được tiếp cận với rằng lồng ghép giới chưa thực sự được đất sản xuất, một tư liệu sản xuất quan quan tâm/được hiểu theo đúng ý nghĩa, trọng vào bậc nhất đối với hoạt động sản thiếu tính hệ thống (cả về không gian, thời xuất nông nghiệp, nhất là đối với người gian và con người) và cuối cùng là thiếu cơ DTTS với tập quán du canh và thường chế kiểm tra giám sát cho hoạt động. không có đất sản xuất. Với tập quán cũ phụ nữ nghèo DTTS chịu nhiều thiệt thòi do Tuy nhiên, cũng không hoàn toàn là ảnh hưởng của tập quán và khả năng di không có tính đến các yếu tố giới trong chuyển cơ học.,Chính sách đã tạo cơ hội thực hiện chương trình, điều cần lưu ý ở nhiều hơn cho người nghèo DTTS về đất đây là phải làm cho vấn đề này trở thành sản xuất đồng thời cũng đem lại những cơ thói quen trong thiết kế, tổ chức và triển hội bình đẳng về quyền sử dụng đất cho cả khai thực hiện. Đã có những kết quả nhất nam và nữ khi đăng ký quyền sử dụng đất, định trong từng chính sách/dự án, xin nêu cũng như trong khai thác nguồn lợi đất đai 27
  8. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010 và các quyền khác trong sử dụng đất như thuộc chiến lược lồng ghép giới trong nông thế chấp, thừa kế v.v. Tuy nhiên trong thực nghiệp và phát triển nông thôn do Bộ Nông tế, ý nghĩa của chính sách này lại chưa nghiệp và Phát triển Nông thôn xây dựng, thực sự đem lại hiệu quả như mong muốn, nhằm tạo cơ hội và phát huy vai trò nhiều bởi lẽ nó chưa thực sự đồng bộ với các hỗ hơn của phụ nữ nông thôn, tuy nhiên cũng trợ cần thiết khác trong sử dụng đất hiệu không có được những thống kê hay kết quả, trong hoạt động canh tác như kỹ thuật, luận về hiệu quả của hoạt động lồng ghép vật tư nông nghiệp, tín dụng...điều này sẽ giới trong báo cáo đánh giá, ít nhất cũng ở không cho thấy có một khả năng cho hoạt những đối tượng thuộc diện ưu tiên như động lồng ghép vì trong thực hiện chính cách xác định ban đầu. sách khi điều tra thống kê về hộ thiếu đất Đối với dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ sản xuất đã không tính đến nhu cầu sử tầng thiết yếu cho các xã đặc biệt khó khăn dụng đất được chia theo giới tính: " Tỷ lệ vùng bãi ngang ven biển và hai đảo, trong bao phủ thấp, tiêu chí phân bổ đất không báo cáo đánhgiá giữa kỳ CT MTQG GN có luôn luôn rõ ràng và có thể có sự rò rỉ. chỉ ra tồn tại của dự án: "người nghèo phải Dường như nhu cầu của địa phương về được tham gia vào tất cả các khâu của qui chính sách này còn hạn chế vì đất sẽ không trình đầu tư, nếu không chi phí đầu tư cho phát huy tác dụng nếu không có những yếu xây dựng cơ bản sẽ kém phù hợp và hạn tố sản xuất khác như nhân lực." (Báo cáo chế tác dụng đối với người nghèo, dẫn đến Đánh giá giữa kỳ CTMTQG GN) hạn chế tham gia, không đáp ứng được Dự án khuyến nông - lâm - ngư, hỗ trợ nhu cầu và kém tính bền vững" và trong phát triển sản xuất và phát triển ngành nội dung đánh giá về nhận thức của người nghề, là một dự án mà ngay từ việc xác hưởng lợi có một chỉ số thống kê cho thấy định đối tượng, phạm vi thì phụ nữ nghèo liên quan đến giới, tuy nhiên lại chỉ ra rằng và đồng bào DTTS là các đối tượng thuộc sự hướng tới bình đẳng giới còn là hạn diện ưu tiên của dự án, cũng như việc đánh chế: "51% được tham gia lựa chọn loại giá cho các chính sách/dự án khác của công trình (có 75% là nam giới)...”. Như chương trình, kết quả vẫn là sự "tính gộp" vậy cho thấy rằng, ngay trong phương cho tất cả các đối tượng thụ hưởng: "Tỷ lệ pháp cùng tham gia thì vấn đề giới đã bao phủ rộng: 43,6% người hưởng lợi từ không được quan tâm khi mà chỉ số cho chính sách này" (báo cáo Đánh giá giữa kỳ thấy tỷ lệ phụ nữ được hỏi, tỷ lệ phụ nữ CTMTQG GN) và đánh giá cũng đã đưa ra được bầy tỏ nhu cầu của giới là nhỏ, chỉ những hạn chế trong thực hiện dự án. Thực chiếm 25% trong số được tham vấn? tế, dự án này là một dự án mà có thể phân Vấn đề tương tự cho tất cả các chính tích kết quả được tiếp cận theo yếu tố giới, sách/dự án còn lại, báo cáo đánh giá hoàn đây là một dự án có nhiều hoạt động đào toàn không đề cập tới yếu tố giới trong kết tạo, tập huấn và chuyển giao công nghệ, quả của các nội dung đánh giá, như thế có thực tế tại các địa bàn cơ sở hoạt động này thể được hiểu rằng hoạt động lồng ghép thu hút được đông đảo phụ nữ/phụ nữ giới trong thực hiện các chính sách/dự án nghèo tham gia và đây cũng là một dự án thuộc CTMTQG GN là không/hầu như 28
  9. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010 không được áp dụng trong quá trình thực vấn đề bình đẳng giới, cao nhất có Hiến hiện, hoặc nếu có chỉ là cá biệt mà không pháp và các Luật khác như Luật Lao động, hệ thống. Một nội dung trong báo cáo đánh Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Thừa giá là "hiệu quả xác định đối tượng", "đối kế...tiếp theo là Luật Bình đẳng giới ra đời tượng" ở đây được hiểu là "người nghèo", có hiệu lực từ 01/7/2007 đang dần đi vào tuy nhiên ở hầu hết các kết luận trong đánh đời sống xã hội. Mối quan hệ giữa bình giá đều có kết luận: "tỷ lệ/độ bao phủ đẳng giới và giảm nghèo bền vững là mối thấp", thậm chí như trong Dự án dạy nghề quan hệ có tính biện chứng, nhận thức rõ cho người nghèo thì độ bao phủ của dự án vấn đề này, Chính phủ Việt Nam đã cam chỉ là 1,9%! Rõ ràng với độ bao phủ nhỏ kết vì phát triển bền vững, bình đẳng xã như vậy, người nghèo hưởng lợi sẽ là nhỏ hội và giảm nghèo. Cam kết đó được thể so với mục tiêu đề ra và với cách hiểu lâu hiện trong Chiến lược toàn diện về tăng nay cho rằng "giới là 50/50, cứ có phụ nữ trưởng và giảm nghèo đã được Thủ tướng tham gia là được" thì số phụ nữ Chính phủ phê duyệt vào tháng 5/2002. nghèo/nhóm dễ tổn thương sẽ lại càng thiệt Việc lồng ghép giới được quan tâm như thòi. một điều kiện cần và đủ cho mọi hoạt động Cũng cần thấy rằng, phụ nữ nghèo cũng của đời sống xã hội trong thời gian qua thuộc nhóm người nghèo được thụ hưởng phải kể như là những nỗ lực của các cơ chung từ các chính sách/dự án của chương quan/tổ chức/cá nhân, tuy nhiên vẫn mới trình, không có tình trạng phụ nữ/phụ nữ được thể hiện rõ ở cấp vĩ mô, mà những nghèo bị đặt ra "bên lề/lề hoá" của quá tác động cụ thể trong các hoạt động kinh tế trình thực hiện, đơn giản là khi thực hiện - xã hội ở mức độ cơ sở còn nhiều hạn chế thì đương nhiên những phụ nữ nghèo cũng và hiệu quả là nhỏ, chưa đạt được những sẽ được thụ hưởng, tuy nhiên người ta đã mục tiêu như mong muốn. Nguyên nhân quên mất đi nhu cầu của mỗi giới là không của những hạn chế này là: giống nhau về mức độ, điều này dẫn đến - Cấp Trung ương đã tổ chức bộ máy tác động của dự án cho mỗi nhóm đối hoạt động về bình đẳng giới, có nhóm công tượng là hạn chế hiệu quả và sẽ không có tác giúp việc, có các cán bộ chuyên trách tác động trực tiếp đến được những nhu cầu về bình đẳng giới và mô hình này cũng cần thiết của từng nhóm thụ hưởng. Đồng được thiết lập tương tự cho cấp tỉnh, các thời vấn đề cũng cho thấy, khi lập kế Bộ, ngành có các qui định thể chế hoá hoạch cho dự án thì khâu tham vấn cộng công tác lồng ghép giới, xây dựng kế đồng thực sự là chưa hiệu quả và đôi khi là hoạch, phân công vai trò và trách nhiệm sự hời hợt. đối với các thành viên. Tuy nhiên cho đến III. Nguyên nhân, khó khăn, thách thức nay, sự vận hành bộ máy vẫn chưa thật và cơ hội của việc lồng ghép giới trong đồng bộ, ở nhiều bộ, ngành và nhiều tỉnh các chính sách/dự án thuộc CTMTQG sau khi có tổ chức bộ máy nhưng khâu vận GN. hành lại còn hạn chế mà chủ yếu trông chờ vào hoạt động của cơ quan Hội phụ nữ các Trong hệ thống pháp lý, đã có các văn cấp. bản thể hiện đầy đủ ý chí của nhà nước về 29
  10. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010 - Việc hiệu quả thấp của công tác lồng - Vấn đề phân cấp, trao quyền thực tế ghép giới trong các chính sách/dự án của được áp dụng trong một số dự án của các CTMTQG GN là do trước hết từ nhận thức tổ chức nước ngoài với mục tiêu XĐGN chưa đầy đủ, chưa đúng và chưa thấu đáo (như dự án Chia sẻ/SIDA Thụy Điển, về ý nghĩa của hoạt động lồng ghép giới ở Giảm nghèo/WB...) và ngay cả trong các cấp cơ sở, sự trang bị kiến thức giới và chương trình MTQG với những dự án có các kỹ năng về giới mới chỉ ở mức độ hình qui mô nhỏ cũng được áp dụng, tuy nhiên thức mà không thể thực sự áp dụng, ngay vấn đề này còn nhiều hạn chế đối với dự án cả cán bộ của hội phụ nữ cũng chỉ có thể có tính "nội" mà hiệu quả nhiểu hơn ở các thực hành ở một phạm vi, qui mô nhỏ. dự án có nguồn vốn nước ngoài do qui trình thiết kế và tổ chức thực hiện, tổ chức - Không áp dụng lồng ghép giới hoặc bỏ giám sát rõ ràng và chặt chẽ. Về phương ngỏ công tác này chưa bị coi là không tuân diện lý thuyết cũng như thực tế, thì đây là thủ pháp luật, vì vậy khi triển khai tại cấp một phương pháp cho kết quả cao nếu như cơ sở thường rơi vào tình trạng dễ làm khó được nghiêm túc thực hiện một cách bài bỏ, tổ chức các hoạt động cứ có phụ nữ bản và hàng ngũ cán bộ cơ sở được đào tạo tham gia (cũng là một bước tiến) được coi những kỹ năng cần thiết trong thiết kế lập như đã quan tâm tới giới, tuy nhiên phụ kế hoặch. Phương pháp này cũng sẽ tạo nữ/tiếng nói của phụ nữ/phụ nữ nghèo vẫn những cơ hội tốt nhất cho thực hiện lồng chưa thực sự được các cấp lãnh đạo xem ghép giới ngay từ khâu đầu tiên của quá xét, đặc biệt tại các địa phương vùng sâu, trình làm dự án, nhưng các kỹ năng này xa và vùng núi DTTS. hầu như mới chỉ được thực hiện ở qui mô - Thực tế để có thể thực hiện các kỹ nhỏ do chưa đủ các điều kiện về con năng lồng ghép giới, ngoài nhận thức và ý người, vì thế khả năng nhân rộng của nó thức thường trực/thói quen thì các thông còn hạn chế. tin, dữ liệu ban đầu được xem như điều - Cuối cùng là thiếu kỹ năng lồng ghép kiện cần để thực hiện hoạt động lồng ghép, giới, đây là một kỹ năng mà hầu hết những nhưng đáng tiếc nhũng điều kiện này hiện cán bộ làm dự án, các tổ chức đều đã được tại vẫn là rất thiếu, không đầy đủ, thiếu hệ trang bị, nhưng thực sự đưa vào áp dụng thống và chưa thống nhất về các tiêu chí lại là cả vấn đề không đơn giản, bởi lẽ: thống kê: "...hầu hết các số liệu phân biệt theo giới tính chỉ được thực hiện trong các Hàng ngũ cán bộ thành thạo về kỹ năng dự án phát triển hoặc theo đơn đặt hàng là mỏng không thể đáp ứng với yêu cầu về của dự án, nó chưa được quan tâm và trở phạm vi, chỉ tập trung chủ yếu ở đội ngũ thành một việc làm thường xuyên của cơ cán bộ hội phụ nữ hay những người làm về quan thống kê nói riêng cũng như của tất giới và lại tập trung ở cấp Trung ương hay cả các cơ quan, tổ chức khác; chưa trở ở những vị trí chỉ đạo, đội ngũ cán bộ thực thành những chỉ tiêu quốc gia, trong kế hiện ít được tập huấn hoặc tập huấn không hoạch cũng như của các ngành quản lý hệ thống nên việc áp dụng gặp khó khăn. nhà nước." (Tổng quan về bình đẳng giới ở Khái niệm về giới/bình đẳng giới chưa Việt Nam. Bộ LĐTB-XH tháng 6/2008). được hiểu thấu đáo, còn có những cách 30
  11. Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010 hiểu khác nhau và chưa ý thức đầy đủ ý hoạt động bắt buộc nhằm tạo ra ý thức nghĩa của việc lồng ghép, dẫn đến "trách thường trực/thói quen lồng ghép giới trong nhiệm thực hiện lồng ghép giới chưa được các hoạt động của cá nhân/tổ chức. quán triệt đầy đủ trong toàn bộ các công đoạn xây dựng và thực thi pháp luật cũng như ở các cơ quan tổ chức và mọi lĩnh vực Có các hình thức đào tạo tích cực đối của đời sống xã hộ”. Bên cạnh đó là vấn với các cán bộ trực tiếp thực hiện tại các đề “thiếu các hướng dẫn mang tính kỹ cấp cơ sở nhiều hơn nữa, nên chọn điểm thuật để hình thành kỹ năng cho việc lồng thực hiện có căn cứ vào các đặc điểm để có ghép giới. Cho nên, nhiều người, kể cả khả năng nhân rộng, đặc biệt cần lưu ý công chức nhà nước vẫn lúng túng không phát huy hiệu quả hơn nữa mô hình phân biết làm thế nào để lồng ghép giới vào các cấp, trao quyền đến tận cấp cơ sở và người lĩnh vực mà họ đang quản lý..." (Tổng dân, nhưng trước hết để có thể làm tốt các quan về bình đẳng giới ở Việt Nam - Bộ nội dung trên, ngay từ bây giờ các cơ quan LĐTBXH). chức năng/các nhà nghiên cứu/nhà hoạch định chính sách cần bắt tay ngay vào việc Tóm lại, công tác lồng ghép giới trong xây dựng bộ chỉ số đánh giá mức độ bình các hoạt động kinh tế - xã hội nói chung và đẳng giới (TS Nguyễn Hải Hữu - Bộ trong các chính sách dự án thuộc chương LĐTBXH) cũng như hệ thống thống kê trình MTQG GN nói riêng trong niều năm quốc gia/địa phương/ngành phải được tính qua mặc dù có những tíên bộ, tuy nhiên đến yếu tố giới trong mọi chỉ số có liên chưa thể được đánh giá như mong đợi, một quan tới con người và phải được xem như số phân tích trên cho thấy sơ bộ thực trạng chỉ tiêu có ý nghĩa pháp lệnh của hoạt động này trong lĩnh vực XĐGN và nhận diện được những nguyên nhân của hạn chế kết quả. Sẽ còn là nhiều khó khăn Tài liệu tham khảo: cho thực hiện trong tương lai bởi sự hiểu 1. Báo cáo Đánh giá giữa kỳ Chương biết về lĩnh vực này, nhất là ở các đối trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo - Giai tượng là những cán bộ cơ sở còn nhiều đoạn 2006-2010. Bộ LĐTB-XH - Chương điểm cần khắc phục và điều cơ bản của sự trình phát triển Liên hiệp quốc. Hà Nội, thành công trong lồng ghép giới lại phải 2009. được bắt đầu từ đây. Mặt khác, phải có sự quyết tâm của các cấp các ngành trong 2. Tài liệu tham luận tại Diễn đàn Bình thực hiện đồng bộ để rút ngắn khoảng cách đẳng giới và Giảm nghèo bền vững. Hà giữa nhận thức và hành động, phải có một Nội 2/6/2008. cơ chế cho hoạt động này, về con người và 3. Luật Bình đẳng giới. Nhà xuất bản phương pháp và phải được xem như một Chính trị Quốc gia- Hà Nội 2007 31
nguon tai.lieu . vn