- Trang Chủ
- Xã hội học
- Thực trạng lồng ghép giới trong chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2006-2010
Xem mẫu
- Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010
tích số liệu Điều tra mức sống hộ gia chế xuất ở Việt Nam, Nhà xuất bản
đình Việt Nam, 2008. Lao động-Xã hội, Hà Nội, 2009.
5. ILSSA và UNIFEM, Tác động kinh tế- 7. ILSSA và WB, Tuổi nghỉ hưu của Lao
xã hội của việc gia nhập WTO tới lao động nữ Việt Nam – Bình đẳng giới và
động nữ nông thôn Việt Nam, trường Sự bền vững Quỹ Bảo hiểm xã hội, Hà
hợp Hải Hương và Đồng Tháp, Hà Nội, 2009.
Nội, 2009.
6. ILSSA và ILO Việt Nam, Thực trạng
tuyển dụng và việc làm của Lao động
nữ di cư tới các khu công nghiệp, khu
THỰC TRẠNG LỒNG GHÉP GIỚI TRONG CHƯƠNG
TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
GIAI ĐOẠN 2006-2010
Phạm Đỗ Nhật Thắng
sách an sinh xã hội, miễn giảm thuế sử
I. Khái quát các đánh giá việc thực hiện
dụng đất nông nghiệp, trợ giúp người
Chương trình Mục tiêu Quốc gia về xóa
nghèo về nhà ở, công cụ lao động và đất
đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 và
sản xuất).
công tác lồng ghép giới trong quá trình
thực hiện. - Các dự án hỗ trợ trực tiếp XĐGN,
gồm: Nhóm các dự án XĐGN chung (Dự
Chương trình Mục tiêu Quốc gia
án tín dụng cho hộ nghèo vay vốn phát
(CTMTQG) về xóa đói giảm nghèo
triển sản xuất kinh doanh; dự án khuyến
(XĐGN) được thực hiện với 2 giai đọan:
nông-lâm-ngư; dự án xây dựng mô hình
giai đoạn 2001-2005 và giai đoạn 2006 -
XĐGN ở các vùng đặc thù bãi ngang ven
2010. Kết thúc giai đoạn 1, Ban chỉ đạo
biển, vùng cao, biên giới hải đảo...) và
Quốc gia đã tiến hành tổ chức đánh giá,
nhóm các dự án XĐGN cho các xã nghèo
tổng kết toàn bộ các chương trình/dự án
không thuộc chương trình 135. (Dự án xây
đã/đang được triển khai thuộc giai đoạn.
dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu các xã nghèo:
Các nội dung cơ bản được thực hiện thủy lợi nhỏ, trường học, trạm y tế, đường
trong giai đoạn 2001-2005, bao gồm: dân sinh, điện, nước sinh hoạt, chợ; dự án
- Các chính sách hỗ trợ cho người hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề
nghèo, hộ nghèo, xã nghèo. (Đó là các các xã nghèo; dự án đào tạo bồi dưỡng cán
chính sách hỗ trợ về y tế, giáo dục, chính bộ làm công tác XĐGN; dự án ổn định di
21
- Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010
dân và xây dựng kinh tế mới định canh hiện từ 2007, những hoạt động với mục
định cư.) tiêu bình đẳng giới đã có những thành
công nhất định làm thay đổi tích cực diện
Theo đó các chương trình/dự án nêu trên
mạo các đóng góp của phụ nữ trong mọi
đồng loạt được thực hiện triển khai trên
lĩnh vực kinh tế - xã hội. Đánh giá về vấn
phạm vi toàn quốc tương ứng với đặc điểm
đề này ở Việt Nam Ngân hàng Thế giới
vùng/miền. Đánh giá kết quả đạt được theo
cho biết "Việt Nam là một trong những
báo cáo của Ban chỉ đạo quốc gia về
nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham
XĐGN cho thấy:
gia các hoạt động kinh tế, là một trong
"Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, trong Báo những nước tiến bộ hàng đầu về bình đẳng
cáo phát triển Việt Nam 2004 có ghi nhận: giới...là quốc gia đạt được sự thay đổi
Những thành tựu giảm nghèo của Việt nhanh chóng nhất về xóa bỏ khoảng cách
Nam là một trong những câu chuyện thành giới trong 20 năm qua ở khu vực Đông Á".
công nhất trong phát triển kinh tế. Tỷ lệ hộ (Tham luận của lãnh đạo Bộ LĐTB-XH tại
nghèo giảm nhanh trong vòng 5 năm từ Diễn đàn Bình đẳng giới và Giảm nghèo
17,2% năm 2001 (2,8 triệu hộ) xuống dưới bền vững-HN 2/6/2008)
7% năm 2005 (1,1 triệu hộ), bình quân mỗi
Hay: “So với các nước khác ở khu vực
năm giảm khoảng 34 vạn hộ." (Báo cáo
Đông Á và Thái Bình Dương, Việt Nam có
đánh giá thực hiện CTMTQG XĐGN giai
tỷ lệ đại biểu nữ trong Quốc hội cao nhất,
đoạn 2001-2005- Ban chỉ đạo Quốc gia).
tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động
Và đánh giá cũng cho thấy, tại giai đoạn
cao nhất trên thế giới; thật phấn khởi khi
này của CTMTQG, các chính sách, chương
thấy Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể
trình dự án cũng đã được tổng kết thành
về bình đẳng giới. Chính tôi thấy phụ nữ ở
công, hạn chế và những vấn đề cần được
đất nước này tham gia tích cực trong đời
khắc phục trong giai đoạn tiếp theo.
sống kinh tế, chính trị.
Tuy nhiên để đánh giá chương trình theo
Việt Nam đã đạt tỷ lệ biết chữ ngang
cách tiếp cận Bình đẳng giới và giảm ngèo
nhau ở nam và nữ thanh niên. Việt Nam
bền vững thì còn có những vấn đề hạn chế
cũng có rất nhiều khả năng đạt được mục
của hoạt động lồng ghép giới trong các
tiêu xóa bỏ khoảng cách về giới ở bậc giáo
chương trình/dự án XĐGN, mà chính
dục tiểu học và trung học.
những hạn chế này là một trong các tác
động (không mong muốn) tới kết quả của Tuy nhiên, sân chơi vẫn chưa bằng
cả chương trình, điều cần được khắc phục phẳng, phụ nữ Việt Nam tiếp tục phải đối
trong thực hiện giai đoạn 2006-2010. mặt với những thách thức và trở ngại. Tỷ
lệ tham gia của phụ nữ ở một số ngành,
Xét trên bình diện chung trong sự phát
nghề quá cao, nhưng ở một số ngành nghề
triển của nền kinh tế đất nước, với mục
khác lại quá thấp. Nam giới được hưởng
tiêu xã hội công bằng, dân chủ văn minh,
lợi nhiều hơn từ những công việc đi kèm
vấn đề bình đẳng giới đang từng bước đi
với quyền lực và quyền gia quyết định.
vào đời sống xã hội nhất là từ sau khi có
Ngoài ra, vấn đề bạo hành gia đình vẫn
Luật Bình đẳng Giới (BĐG) được thực
còn là một vấn đề bức xúc”.(John Hendra,
22
- Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010
Điều phối viên Thường trú Liên hợp quốc thực hiện triển khai, nhưng lại chỉ được
tại Việt Nam -19/3/2009 tại lễ ký kết hiểu đến như một vấn đề cần ưu tiên phụ
chương trình hợp tác giữa Chính phủ Việt nữ mà thôi và đôi khi vượt lên cả mức cần
Nam và Liên hợp quốc, giúp tăng cường thiết, hệ quả là phụ nữ lại phải làm cả
vấn đề bình đẳng giới tại Việt Nam) những công việc nặng nhọc mà lẽ ra đó là
công việc mà nam giới phải thực hiện (ví
Giai đọan 2001-2005 chương trình Mục
dụ như tại một số dự án về giao thông
tiêu Quốc gia về XĐGN với vấn đề lồng
nông thôn, để ưu tiên phụ nữ có việc làm,
ghép giới trong quá trình thực hiện dường
có thêm thu nhập, người ta đã "ưu tiên"
như mới chỉ là sự nỗ lực của các nhà hoạch
cho phụ nữ làm cả những công việc như
định, các Ban chỉ đạo (BCĐ) cấp Trung
vác đá hộc lấp nền đường, làm việc ngay
ương và cấp tỉnh, phần còn lại để thực hiện
cả tại nơi nổ mìn khai thác đá...), có thể
trong thực tiễn thì hầu như không/không
hiểu một số nguyên nhân cơ bản về các
đáng kể. Điều này được thể hiện ngay
hạn chế trong thực hiện triển khai lồng
trong báo cáo đánh giá của BCĐ khi kết
ghép giới như sau:
thúc giai đoạn 1 và thiết kế cho giai đoạn 2
(2006-2010). Có thể thấy quan điểm lồng - Các khái niệm về giới chưa được hiểu
ghép giới để thực hiện bình đẳng giới đã một cách thấu đáo tại các cấp cơ sở
không có ngay từ giai đọan đầu của huyện/xã dẫn đến những nhận thức về giới
chương trình, tức là vấn đề hệ thống đã là chưa được đúng đắn.
không được nhắc đến, mặc dù mục tiêu đã - Bìng đẳng nam nữ được nhắc đến như
chỉ rõ phụ nữ nghèo/phụ nữ chủ hộ nghèo một khẩu hiệu, mặc dù đã có những tiến bộ
thuộc nhóm dễ tổn thương là đối tượng cần nhất định về bình đẳng, tuy nhiên để tiến
được quan tâm đặc biệt. tới sự thường trực lồng ghép giới trong các
Trong báo cáo đánh giá CT MTQG chương trình.dự án XĐGN nhằm thực hiện
XĐGN giai đoạn 2001-2005 rất tiếc đã Bình đẳng giới thì còn là một khoảng cách
không hề có nội dung nào tổng kết hiệu đáng kể.
quả của hoạt động lồng ghép giới vào các - Thiếu cán bộ có kiến thức/kỹ năng
giai đoạn của các chương trình/dự án được lồng ghép giới tại các cấp cơ sở, ở đó hội
thực hiện trong suốt giai đoạn này, trên phụ nữ tỏ ra có năng lực hơn cả về kỹ năng
thực tế như phần đầu đã đề cập, vấn đề này, tuy nhiên vai trò thực hiện ở địa bàn
lồng ghép giới chỉ mới được quan tâm ở lại thường không có vị trí quyết định.
tầm vĩ mô, khi tổ chức chỉ đạo thực hiện
triển khai xuống các địa phương, các hoạt - Quan trọng hơn vẫn là không có kiểm
động quản lý cũng đã chú ý tới công tác tra, giám sát đánh giá hoạt động của mỗi
tập huấn các nội dung liên quan tới vấn đề giai đoạn, định kỳ và phạm vi.
giới trong quá trình triển khai, tuy nhiên II. Thực trạng lồng ghép giới trong quá
khi thực hiện triển khai tại các địa bàn hoạt trình xây dựng, thực hiện, giám sát,
động này lại không là vấn đề được lưu tâm đánh giá CTMTQG về XĐGN 2006-
của các nhà quản lý cấp cơ sở, giới không 2010.
phải là việc bị bỏ quên hoàn toàn trong
23
- Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010
CTMTQG về XĐGN giai đoạn 2006- dung của hợp phần về đào tạo các kỹ năng
2010 đã triển khai được 4 năm, đã có hoạt cho cán bộ các cấp thì kỹ năng lồng ghép
động đánh giá giữa kỳ, xét riêng về hoạt giới là một trong các kỹ năng được quan
động lồng ghép giới trong các chương tâm và là một trong các phương pháp
trình/dự án thuộc chương trình thì dường hướng tới việc thực hiện hiệu quả của dự
như không khả quan so với giai đoạn án. Tuy nhiên điều đáng lưu ý ở đây là, kỹ
trước, mặc dù trong một số dự án của giai năng lồng ghép giới được quan tâm tập
đoạn, đối tượng là phụ nữ nghèo cũng đã huấn cho cán bộ các cấp trong thực hiện
được xem như đối tượng được ưu tiên và giảm nghèo, vấn đề này lại không được
cần có sự quan tâm hơn. Trong 10 chính thể hiện trong cả 10 chương trình/dự án
sách, dự án được triển khai mà đối tượng của cả giai đoạn tại cách xác định đối
thụ hưởng trực tiếp là người nghèo trên tượng, phạm vi, tại nội dung, tại cơ chế
phạm vi toàn quốc tại các vùng miền khác thực hiện ở mỗi chính sách/dự án thuộc
nhau, có 2 nội dung mà phụ nữ nghèo được chương trình. Như vậy ngay từ khâu thiết
nhắc tới thuộc đối tượng ưu tiên và xem kế chương trình, vấn đề lồng ghép giới đã
như có dấu hiệu về giới, đó là: không được quan tâm một cách triệt để cho
toàn bộ nội dung, phạm vi của chương
- Chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ
trình, có thể vì lẽ đó khi triển khai ở các
nghèo, theo đó "hộ nghèo, ưu tiên phụ nữ
cấp cơ sở lồng ghép giới đã không thực sự
là chủ hộ..." là thuộc đối tượng, phạm vi
được chú ý với đầy đủ ý nghĩa của nó.
của chính sách dự án.
Cần được nhắc lại một lần nữa, các phân
- Dự án khuyến nông - lâm - ngư và hỗ
tích đánh giá sau đây đối với các chính
trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành
sách, dự án thuộc CTMTQG GN với
nghề, "...ưu tiên cho các đối tượng là phụ
phương pháp tiếp cận theo quan điểm lồng
nữ nghèo..." là đối tượng được ưu tiên
ghép giới trong triển khai thực hiện, nhằm
ngoài các đối tượng được qui định khác
tìm hiểu mức độ nhận thức, hiểu biết và
của dự án.
các kỹ năng cần thiết về giới, lồng ghép
Như vậy với cách xác định đối tượng thụ giới và bình đẳng giới trong giảm nghèo
hưởng của dự án thì 2 dự án trên đây, phụ bền vững, vì vậy cũng cần thiết để chỉ ra
nữ nghèo xem như một điểm nhấn trong được hoạt động lồng ghép giới đã thực sự
thực hiện triển khai, 8/10 dự án còn lại được triển khai ở mức độ nào và hiệu quả
người nghèo nói chung/phụ nữ nghèo nói của nó, đồng thời có thể khuyến nghị cho
riêng đều thụ hưởng chung tác động của dự ngắn hạn trong thời gian còn lại của
án. chương trình.
Một nội dung quan trọng khác thuộc Tại Diễn đàn bình đẳng giới và giảm
chương trình đó là dự án nâng cao năng lực nghèo bền vững diễn ra ngày 02/6/2008
giảm nghèo, bao gồm 2 hợp phần: đào tạo tại Hà Nội do Bộ Lao động, Thương binh
cán bộ giảm nghèo và hoạt động truyền và Xã hội (LĐTBXH) và tổ chức SIDA
thông, tại hợp phần nâng cao năng lực cán Thụy Điển đồng tổ chức, nhiều diễn văn
bộ làm công tác giảm nghèo, trong các nội tham luận được trình bày tại Diễn đàn
24
- Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010
xung quanh vấn đề Giới và Bình đẳng giới việc lồng ghép giới nói chung cũng như
với công cuộc XĐGN bền vững ở Việt trong các dự án thuộc CTMTQGGN là
Nam, diễn đàn cũng đã chỉ ra những thành chưa đạt được kết quả như kỳ vọng. Mặc
công nhất định trong nhiều năm lại đây về dù trong nhiều năm trở lại đây, việc thống
phấn đấu cho một xã hội công bằng nói kê các chỉ tiêu có liên quan tới con người
chung và bình đẳng giới nói riêng ở Việt đều được qui định phân lớp theo giới tính,
Nam và đặc biệt trong các thành tựu của thực tế trong triển khai tại nhiều cấp cơ sở,
công tác XĐGN, tuy nhiên cần thấy rằng, yêu cầu này nhiều khi bị quên lãng, hoặc
các tham luận, ý kiến tại Diễn đàn cũng không thể thực hiện do nhiều lý do cả về
cho thấy: vấn đề lồng ghép giới trong chủ quan lẫn khách quan, đặc biệt không
XĐGN còn nhiều hạn chế, đồng thời bình có tính hệ thống về không gian, thời gian
đẳng giới trong tương lai được xem là một và phạm vi, nếu có chỉ là các thống kê của
giải pháp để giảm nghèo bền vững và vấn các cuộc điều tra có tính chuyên biệt.
đề này cần được nghiêm túc thiết kế/có kế Về hoạt động phân tích tổ chức và
hoạch chi tiết và thực hiện ngay trong thời chương trình hoạt động của tổ chức, có lẽ
gian tiếp theo của chương trình MTQGGN nội dung này được thực hiện chủ yếu và
một cách hệ thống. hầu như chỉ ở phạm vi cấp Trung ương/vĩ
Về thực trạng của công tác thu thập mô, nhìn chung khi tổ chức triển khai dự
thông tin, số liệu và phân tích giới, đây án/chương trình vấn đề yêu cầu lồng ghép
chính là một nội dung quan trọng và trước giới luôn được đề cập, tập huấn kỹ năng, tổ
hết để có thể thực hiện các kỹ năng lồng chức thực hiện, tuy nhiên khi triển khai
ghép giới vào các giai đoạn trong các trên thực tế địa bàn, việc lồng ghép thường
chính sách, dự án, tuy nhiên có thể thấy không được quan tâm chặt chẽ, lý do:
đây là vấn đề còn nhiều hạn chế ở ngay cả - Thiếu thống kê, thông tin phân tích
hệ thống vi mô lẫn vĩ mô. Vấn đề này cũng theo giới từ cấp cơ sở (như đã đề cập ở
được nêu ra trong báo cáo của Bộ trên)
LĐTBXH "Tổng quan về Bình đẳng giới ở
Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong - Thiếu cán bộ có kỹ năng, vì đây là một
thực hiện triển khai bình đẳng giới", trong kiến thức còn mới đối với cán bộ cơ sở, từ
đó thiếu thông tin, dữ liệu tách biệt theo nhận thức đến trở thành thói quen trong lập
giới tính ở tất cả các lĩnh vực được xem là kế hoạch/thực hiện triển khai còn là một
một khó khăn, thách thức: "Không có khoảng cách lớn.
thông tin, dữ liệu tách biệt theo giới hoặc - Những cán bộ được tập huấn nhiều hơn
có nhưng ít, không đầy đủ, không đồng bộ, (trong hội phụ nữ) tại các cấp cơ sở lại
không toàn diện, nên khó có thể đánh giá thường tham gia với tư cách thành viên, ít
chính xác những vấn đề liên quan tới bình được phụ trách/đảm nhận những nội dung
đẳng giới cũng như đưa được ra những cụ thể và ít có cơ hội áp dụng kiến thức
giải pháp hữu hiệu nhằm đảm bảo và đạt cũng như tham mưu cho lãnh đạo.
được mục tiêu bình đẳng giới". Đây chính
là một trong các thực chất của vấn đề mà
25
- Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010
- Chưa có cơ chế theo dõi, kiểm soát về Cách làm phổ biến trong thời gian qua
hoạt động lồng ghép giới trong thực hiện chính là điểm hạn chế, là rào cản "vô tình"
triển khai các dự án/chính sách. trong thực hiện hoạt động lồng ghép giới,
cũng chính vì vậy hiệu quả của công tác
Về lập kế hoạch lồng ghép giới, đánh
lồng ghép giới trong CTMTQG GN mới
giá giám sát trên quan điểm giới, như trên
chỉ đạt được ở khâu vận động tuyên truyền
đề cập, các bước tiến hành trên đều đã hạn
nâng cao nhận thức, nhưng để có được
chế thì ở nội dung này lẽ đương nhiên trở
hành động/thói quen trong lồng ghép thì
thành hệ quả. Các chính sách/dự án dành
còn là vấn đề trong tương lai. Có thể chính
cho XĐGN được áp dụng trực tiếp cho
vì sự hạn chế này nên trong báo cáo đánh
người nghèo, là những người sống tại địa
giá giữa kỳ 2006-2010 các kết quả hoạt
bàn cơ sở, việc lồng ghép giới về nguyên
động lồng ghép giới cũng không được đề
tắc phải được xây dựng lập kế hoạch từ
cập.
đây, phải có sự tham vấn và sự tham gia
xây dựng kế hoạch của người dân và làm Trở lại với tất cả các chính sách, dự án
như vậy mới cho rõ những nhu cầu có tính thuộc CTMTQG GN giai đoạn 2006-2010
chất giới. Một số năm gần đây, các Ban chỉ cho thấy có các nhóm nội dung sau:
đạo cấp tỉnh/huyện cũng đã chủ trương áp - Nhóm chính sách và dự án hỗ trợ
dụng phương pháp lập kế hoạch theo mô người nghèo phát triển sản xuất và tạo thu
hình phân cấp trao quyền, người dân được nhập:
tham gia xây dựng kế hoạch phát triển kinh
tế-xã hội địa phương, đây là một chủ Chính sách về tín dụng ưu đãi hộ
trương thể hiện nhiều ưu điểm và về lý nghèo
thuyết sẽ tạo được những tiêu chí cơ bản Chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho hộ
cho hoạt động lồng ghép giới: các nhu cầu nghèo dân tộc thiểu số (DTTS)
có tính chất giới. Tuy nhiên trên thực tế áp
Dự án khuyến nông - lâm - ngư và hỗ
dụng vẫn còn nhiều yếu kém mà chưa thể
trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành
áp dụng trên phạm vi rộng, nhiều địa
nghề
phương vẫn phải làm theo phân bổ kế
hoạch/kinh phí, cầm tay chỉ việc. Đánh giá Dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng
giữa kỳ của giai đoạn 2006-2010 cũng cho thiết yếu cho các xã đặc biệt khó khăn
thấy:" Thiết kế của một số chính sách và vùng bãi ngang ven biển và hải đảo
dự án của CTMTQG GN còn phụ thuộc Dự án dạy nghề cho người nghèo
chủ yếu vào nguyên tắc tập trung "một
Dự án nhân rộng mô hình giảm nghèo
mẫu hình cho tất cả" và theo phương pháp
tiếp cận từ trên xuống, có thể không phù - Nhóm chính sách hỗ trợ người nghèo
hợp với những đặc thù riêng của nhiều tình tiếp cận các dịch vụ xã hội
huống nghèo đói khác nhau diễn ra ở cấp Chính sách hỗ trợ về y tế cho người
cơ sở và như vậy sẽ gây lãng phí đáng kể nghèo
về phí vận hành qua nhiều cấp trong hệ
thống hành chính công" Chính sách hỗ trợ giáo dục cho người
nghèo
26
- Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010
Chính sách nhà ở và nước sạch cho ra ở đây một số các chính sách dự án thuộc
người nghèo chương trình:
Chính sách hỗ trợ pháp lý cho người Chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ
nghèo nghèo là một minh chứng, trong thực tế
thực hiện tại cấp cơ sở, chính sách này có
- Nhóm dự án hỗ trợ nâng cao năng lực
thể được đánh giá là một trong những
và nhận thức
chính sách có hiệu quả cao, 70% hộ nghèo
Dự án nâng cao năng lực giảm nghèo được tiếp cận với nguồn vốn tín dụng
Giám sát và đánh giá (2006-2008), tuy nhiên số liệu về tỷ lệ nữ
chủ hộ nghèo được vay vốn ưu đãi là
Báo cáo này không nhằm đánh giá kết
không có. Mặt được của chính sách này là
quả kinh tế - xã hội của từng chính sách/dự
nhằm hướng tới những thuận lợi hơn cho
án trong cả chương trình, mà chỉ thông qua
phụ nữ nghèo khi tiếp cận vốn vay (phụ nữ
đánh giá chung của các nội dung thuộc
phát huy/quản lý tốt hơn nguồn vốn vay),
CTMT để xem xét và phân tích hoạt động
thủ tục đơn giản hơn khi vay (Hội phụ nữ
lồng ghép giới trong quá trình thực hiện
nhận uỷ thác hay đứng làm tín chấp), vay
triển khai. Trong đánh giá giữa kỳ, các
các nguồn vốn khác phải có sự đồng thuận
chính sách/dự án đều được đánh giá theo
cả vợ chồng khi cần thế chấp "sổ đỏ" vì
khung đánh giá bao gồm 5 nội dung và cho
phụ nữ và nam giới có quyền như nhau
điểm theo từng nội dung, như đã nhắc tới ở
trong vai trò chủ sử dụng đất...Thực tế cho
trên, các đánh giá về hoạt động lồng ghép
thấy phụ nữ vay vốn quản lý vốn hiệu quả
giới trong quá trình thực hiện là không
hơn so với nam giới, ít rủi ro, đồng thời tỷ
được đề cập, mặc dù lồng ghép giới là một
lệ hoàn vốn (đồng vốn/thời gian hoàn vốn)
hoạt động đã được quán triệt trong quá
cao hơn.
trình triển khai, trong xác định đối tượng,
nhưng lại không có trong nội dung của Báo Chính sách hỗ trợ đất sản xuất cho hộ
cáo đánh giá giữa kỳ CTMTQG GN, giải nghèo DTTS, đây là chính sách đặc biệt đối
thích về vấn đề này chỉ có thể được hiểu với người nghèo DTTS được tiếp cận với
rằng lồng ghép giới chưa thực sự được đất sản xuất, một tư liệu sản xuất quan
quan tâm/được hiểu theo đúng ý nghĩa, trọng vào bậc nhất đối với hoạt động sản
thiếu tính hệ thống (cả về không gian, thời xuất nông nghiệp, nhất là đối với người
gian và con người) và cuối cùng là thiếu cơ DTTS với tập quán du canh và thường
chế kiểm tra giám sát cho hoạt động. không có đất sản xuất. Với tập quán cũ phụ
nữ nghèo DTTS chịu nhiều thiệt thòi do
Tuy nhiên, cũng không hoàn toàn là
ảnh hưởng của tập quán và khả năng di
không có tính đến các yếu tố giới trong
chuyển cơ học.,Chính sách đã tạo cơ hội
thực hiện chương trình, điều cần lưu ý ở
nhiều hơn cho người nghèo DTTS về đất
đây là phải làm cho vấn đề này trở thành
sản xuất đồng thời cũng đem lại những cơ
thói quen trong thiết kế, tổ chức và triển
hội bình đẳng về quyền sử dụng đất cho cả
khai thực hiện. Đã có những kết quả nhất
nam và nữ khi đăng ký quyền sử dụng đất,
định trong từng chính sách/dự án, xin nêu
cũng như trong khai thác nguồn lợi đất đai
27
- Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010
và các quyền khác trong sử dụng đất như thuộc chiến lược lồng ghép giới trong nông
thế chấp, thừa kế v.v. Tuy nhiên trong thực nghiệp và phát triển nông thôn do Bộ Nông
tế, ý nghĩa của chính sách này lại chưa nghiệp và Phát triển Nông thôn xây dựng,
thực sự đem lại hiệu quả như mong muốn, nhằm tạo cơ hội và phát huy vai trò nhiều
bởi lẽ nó chưa thực sự đồng bộ với các hỗ hơn của phụ nữ nông thôn, tuy nhiên cũng
trợ cần thiết khác trong sử dụng đất hiệu không có được những thống kê hay kết
quả, trong hoạt động canh tác như kỹ thuật, luận về hiệu quả của hoạt động lồng ghép
vật tư nông nghiệp, tín dụng...điều này sẽ giới trong báo cáo đánh giá, ít nhất cũng ở
không cho thấy có một khả năng cho hoạt những đối tượng thuộc diện ưu tiên như
động lồng ghép vì trong thực hiện chính cách xác định ban đầu.
sách khi điều tra thống kê về hộ thiếu đất Đối với dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ
sản xuất đã không tính đến nhu cầu sử tầng thiết yếu cho các xã đặc biệt khó khăn
dụng đất được chia theo giới tính: " Tỷ lệ vùng bãi ngang ven biển và hai đảo, trong
bao phủ thấp, tiêu chí phân bổ đất không báo cáo đánhgiá giữa kỳ CT MTQG GN có
luôn luôn rõ ràng và có thể có sự rò rỉ. chỉ ra tồn tại của dự án: "người nghèo phải
Dường như nhu cầu của địa phương về được tham gia vào tất cả các khâu của qui
chính sách này còn hạn chế vì đất sẽ không trình đầu tư, nếu không chi phí đầu tư cho
phát huy tác dụng nếu không có những yếu xây dựng cơ bản sẽ kém phù hợp và hạn
tố sản xuất khác như nhân lực." (Báo cáo chế tác dụng đối với người nghèo, dẫn đến
Đánh giá giữa kỳ CTMTQG GN) hạn chế tham gia, không đáp ứng được
Dự án khuyến nông - lâm - ngư, hỗ trợ nhu cầu và kém tính bền vững" và trong
phát triển sản xuất và phát triển ngành nội dung đánh giá về nhận thức của người
nghề, là một dự án mà ngay từ việc xác hưởng lợi có một chỉ số thống kê cho thấy
định đối tượng, phạm vi thì phụ nữ nghèo liên quan đến giới, tuy nhiên lại chỉ ra rằng
và đồng bào DTTS là các đối tượng thuộc sự hướng tới bình đẳng giới còn là hạn
diện ưu tiên của dự án, cũng như việc đánh chế: "51% được tham gia lựa chọn loại
giá cho các chính sách/dự án khác của công trình (có 75% là nam giới)...”. Như
chương trình, kết quả vẫn là sự "tính gộp" vậy cho thấy rằng, ngay trong phương
cho tất cả các đối tượng thụ hưởng: "Tỷ lệ pháp cùng tham gia thì vấn đề giới đã
bao phủ rộng: 43,6% người hưởng lợi từ không được quan tâm khi mà chỉ số cho
chính sách này" (báo cáo Đánh giá giữa kỳ thấy tỷ lệ phụ nữ được hỏi, tỷ lệ phụ nữ
CTMTQG GN) và đánh giá cũng đã đưa ra được bầy tỏ nhu cầu của giới là nhỏ, chỉ
những hạn chế trong thực hiện dự án. Thực chiếm 25% trong số được tham vấn?
tế, dự án này là một dự án mà có thể phân Vấn đề tương tự cho tất cả các chính
tích kết quả được tiếp cận theo yếu tố giới, sách/dự án còn lại, báo cáo đánh giá hoàn
đây là một dự án có nhiều hoạt động đào toàn không đề cập tới yếu tố giới trong kết
tạo, tập huấn và chuyển giao công nghệ, quả của các nội dung đánh giá, như thế có
thực tế tại các địa bàn cơ sở hoạt động này thể được hiểu rằng hoạt động lồng ghép
thu hút được đông đảo phụ nữ/phụ nữ giới trong thực hiện các chính sách/dự án
nghèo tham gia và đây cũng là một dự án thuộc CTMTQG GN là không/hầu như
28
- Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010
không được áp dụng trong quá trình thực vấn đề bình đẳng giới, cao nhất có Hiến
hiện, hoặc nếu có chỉ là cá biệt mà không pháp và các Luật khác như Luật Lao động,
hệ thống. Một nội dung trong báo cáo đánh Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Thừa
giá là "hiệu quả xác định đối tượng", "đối kế...tiếp theo là Luật Bình đẳng giới ra đời
tượng" ở đây được hiểu là "người nghèo", có hiệu lực từ 01/7/2007 đang dần đi vào
tuy nhiên ở hầu hết các kết luận trong đánh đời sống xã hội. Mối quan hệ giữa bình
giá đều có kết luận: "tỷ lệ/độ bao phủ đẳng giới và giảm nghèo bền vững là mối
thấp", thậm chí như trong Dự án dạy nghề quan hệ có tính biện chứng, nhận thức rõ
cho người nghèo thì độ bao phủ của dự án vấn đề này, Chính phủ Việt Nam đã cam
chỉ là 1,9%! Rõ ràng với độ bao phủ nhỏ kết vì phát triển bền vững, bình đẳng xã
như vậy, người nghèo hưởng lợi sẽ là nhỏ hội và giảm nghèo. Cam kết đó được thể
so với mục tiêu đề ra và với cách hiểu lâu hiện trong Chiến lược toàn diện về tăng
nay cho rằng "giới là 50/50, cứ có phụ nữ trưởng và giảm nghèo đã được Thủ tướng
tham gia là được" thì số phụ nữ Chính phủ phê duyệt vào tháng 5/2002.
nghèo/nhóm dễ tổn thương sẽ lại càng thiệt Việc lồng ghép giới được quan tâm như
thòi. một điều kiện cần và đủ cho mọi hoạt động
Cũng cần thấy rằng, phụ nữ nghèo cũng của đời sống xã hội trong thời gian qua
thuộc nhóm người nghèo được thụ hưởng phải kể như là những nỗ lực của các cơ
chung từ các chính sách/dự án của chương quan/tổ chức/cá nhân, tuy nhiên vẫn mới
trình, không có tình trạng phụ nữ/phụ nữ được thể hiện rõ ở cấp vĩ mô, mà những
nghèo bị đặt ra "bên lề/lề hoá" của quá tác động cụ thể trong các hoạt động kinh tế
trình thực hiện, đơn giản là khi thực hiện - xã hội ở mức độ cơ sở còn nhiều hạn chế
thì đương nhiên những phụ nữ nghèo cũng và hiệu quả là nhỏ, chưa đạt được những
sẽ được thụ hưởng, tuy nhiên người ta đã mục tiêu như mong muốn. Nguyên nhân
quên mất đi nhu cầu của mỗi giới là không của những hạn chế này là:
giống nhau về mức độ, điều này dẫn đến - Cấp Trung ương đã tổ chức bộ máy
tác động của dự án cho mỗi nhóm đối hoạt động về bình đẳng giới, có nhóm công
tượng là hạn chế hiệu quả và sẽ không có tác giúp việc, có các cán bộ chuyên trách
tác động trực tiếp đến được những nhu cầu về bình đẳng giới và mô hình này cũng
cần thiết của từng nhóm thụ hưởng. Đồng được thiết lập tương tự cho cấp tỉnh, các
thời vấn đề cũng cho thấy, khi lập kế Bộ, ngành có các qui định thể chế hoá
hoạch cho dự án thì khâu tham vấn cộng công tác lồng ghép giới, xây dựng kế
đồng thực sự là chưa hiệu quả và đôi khi là hoạch, phân công vai trò và trách nhiệm
sự hời hợt. đối với các thành viên. Tuy nhiên cho đến
III. Nguyên nhân, khó khăn, thách thức nay, sự vận hành bộ máy vẫn chưa thật
và cơ hội của việc lồng ghép giới trong đồng bộ, ở nhiều bộ, ngành và nhiều tỉnh
các chính sách/dự án thuộc CTMTQG sau khi có tổ chức bộ máy nhưng khâu vận
GN. hành lại còn hạn chế mà chủ yếu trông chờ
vào hoạt động của cơ quan Hội phụ nữ các
Trong hệ thống pháp lý, đã có các văn
cấp.
bản thể hiện đầy đủ ý chí của nhà nước về
29
- Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010
- Việc hiệu quả thấp của công tác lồng - Vấn đề phân cấp, trao quyền thực tế
ghép giới trong các chính sách/dự án của được áp dụng trong một số dự án của các
CTMTQG GN là do trước hết từ nhận thức tổ chức nước ngoài với mục tiêu XĐGN
chưa đầy đủ, chưa đúng và chưa thấu đáo (như dự án Chia sẻ/SIDA Thụy Điển,
về ý nghĩa của hoạt động lồng ghép giới ở Giảm nghèo/WB...) và ngay cả trong
các cấp cơ sở, sự trang bị kiến thức giới và chương trình MTQG với những dự án có
các kỹ năng về giới mới chỉ ở mức độ hình qui mô nhỏ cũng được áp dụng, tuy nhiên
thức mà không thể thực sự áp dụng, ngay vấn đề này còn nhiều hạn chế đối với dự án
cả cán bộ của hội phụ nữ cũng chỉ có thể có tính "nội" mà hiệu quả nhiểu hơn ở các
thực hành ở một phạm vi, qui mô nhỏ. dự án có nguồn vốn nước ngoài do qui
trình thiết kế và tổ chức thực hiện, tổ chức
- Không áp dụng lồng ghép giới hoặc bỏ
giám sát rõ ràng và chặt chẽ. Về phương
ngỏ công tác này chưa bị coi là không tuân
diện lý thuyết cũng như thực tế, thì đây là
thủ pháp luật, vì vậy khi triển khai tại cấp
một phương pháp cho kết quả cao nếu như
cơ sở thường rơi vào tình trạng dễ làm khó
được nghiêm túc thực hiện một cách bài
bỏ, tổ chức các hoạt động cứ có phụ nữ
bản và hàng ngũ cán bộ cơ sở được đào tạo
tham gia (cũng là một bước tiến) được coi
những kỹ năng cần thiết trong thiết kế lập
như đã quan tâm tới giới, tuy nhiên phụ
kế hoặch. Phương pháp này cũng sẽ tạo
nữ/tiếng nói của phụ nữ/phụ nữ nghèo vẫn
những cơ hội tốt nhất cho thực hiện lồng
chưa thực sự được các cấp lãnh đạo xem
ghép giới ngay từ khâu đầu tiên của quá
xét, đặc biệt tại các địa phương vùng sâu,
trình làm dự án, nhưng các kỹ năng này
xa và vùng núi DTTS.
hầu như mới chỉ được thực hiện ở qui mô
- Thực tế để có thể thực hiện các kỹ nhỏ do chưa đủ các điều kiện về con
năng lồng ghép giới, ngoài nhận thức và ý người, vì thế khả năng nhân rộng của nó
thức thường trực/thói quen thì các thông còn hạn chế.
tin, dữ liệu ban đầu được xem như điều
- Cuối cùng là thiếu kỹ năng lồng ghép
kiện cần để thực hiện hoạt động lồng ghép,
giới, đây là một kỹ năng mà hầu hết những
nhưng đáng tiếc nhũng điều kiện này hiện
cán bộ làm dự án, các tổ chức đều đã được
tại vẫn là rất thiếu, không đầy đủ, thiếu hệ
trang bị, nhưng thực sự đưa vào áp dụng
thống và chưa thống nhất về các tiêu chí
lại là cả vấn đề không đơn giản, bởi lẽ:
thống kê: "...hầu hết các số liệu phân biệt
theo giới tính chỉ được thực hiện trong các Hàng ngũ cán bộ thành thạo về kỹ năng
dự án phát triển hoặc theo đơn đặt hàng là mỏng không thể đáp ứng với yêu cầu về
của dự án, nó chưa được quan tâm và trở phạm vi, chỉ tập trung chủ yếu ở đội ngũ
thành một việc làm thường xuyên của cơ cán bộ hội phụ nữ hay những người làm về
quan thống kê nói riêng cũng như của tất giới và lại tập trung ở cấp Trung ương hay
cả các cơ quan, tổ chức khác; chưa trở ở những vị trí chỉ đạo, đội ngũ cán bộ thực
thành những chỉ tiêu quốc gia, trong kế hiện ít được tập huấn hoặc tập huấn không
hoạch cũng như của các ngành quản lý hệ thống nên việc áp dụng gặp khó khăn.
nhà nước." (Tổng quan về bình đẳng giới ở Khái niệm về giới/bình đẳng giới chưa
Việt Nam. Bộ LĐTB-XH tháng 6/2008). được hiểu thấu đáo, còn có những cách
30
- Nghiªn cøu, trao ®æi Khoa häc Lao ®éng vµ X· héi - Sè 23/Quý II - 2010
hiểu khác nhau và chưa ý thức đầy đủ ý hoạt động bắt buộc nhằm tạo ra ý thức
nghĩa của việc lồng ghép, dẫn đến "trách thường trực/thói quen lồng ghép giới trong
nhiệm thực hiện lồng ghép giới chưa được các hoạt động của cá nhân/tổ chức.
quán triệt đầy đủ trong toàn bộ các công
đoạn xây dựng và thực thi pháp luật cũng
như ở các cơ quan tổ chức và mọi lĩnh vực Có các hình thức đào tạo tích cực đối
của đời sống xã hộ”. Bên cạnh đó là vấn với các cán bộ trực tiếp thực hiện tại các
đề “thiếu các hướng dẫn mang tính kỹ cấp cơ sở nhiều hơn nữa, nên chọn điểm
thuật để hình thành kỹ năng cho việc lồng thực hiện có căn cứ vào các đặc điểm để có
ghép giới. Cho nên, nhiều người, kể cả khả năng nhân rộng, đặc biệt cần lưu ý
công chức nhà nước vẫn lúng túng không phát huy hiệu quả hơn nữa mô hình phân
biết làm thế nào để lồng ghép giới vào các cấp, trao quyền đến tận cấp cơ sở và người
lĩnh vực mà họ đang quản lý..." (Tổng dân, nhưng trước hết để có thể làm tốt các
quan về bình đẳng giới ở Việt Nam - Bộ nội dung trên, ngay từ bây giờ các cơ quan
LĐTBXH). chức năng/các nhà nghiên cứu/nhà hoạch
định chính sách cần bắt tay ngay vào việc
Tóm lại, công tác lồng ghép giới trong xây dựng bộ chỉ số đánh giá mức độ bình
các hoạt động kinh tế - xã hội nói chung và đẳng giới (TS Nguyễn Hải Hữu - Bộ
trong các chính sách dự án thuộc chương LĐTBXH) cũng như hệ thống thống kê
trình MTQG GN nói riêng trong niều năm quốc gia/địa phương/ngành phải được tính
qua mặc dù có những tíên bộ, tuy nhiên đến yếu tố giới trong mọi chỉ số có liên
chưa thể được đánh giá như mong đợi, một quan tới con người và phải được xem như
số phân tích trên cho thấy sơ bộ thực trạng chỉ tiêu có ý nghĩa pháp lệnh
của hoạt động này trong lĩnh vực XĐGN
và nhận diện được những nguyên nhân của
hạn chế kết quả. Sẽ còn là nhiều khó khăn Tài liệu tham khảo:
cho thực hiện trong tương lai bởi sự hiểu
1. Báo cáo Đánh giá giữa kỳ Chương
biết về lĩnh vực này, nhất là ở các đối
trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo - Giai
tượng là những cán bộ cơ sở còn nhiều
đoạn 2006-2010. Bộ LĐTB-XH - Chương
điểm cần khắc phục và điều cơ bản của sự
trình phát triển Liên hiệp quốc. Hà Nội,
thành công trong lồng ghép giới lại phải
2009.
được bắt đầu từ đây. Mặt khác, phải có sự
quyết tâm của các cấp các ngành trong 2. Tài liệu tham luận tại Diễn đàn Bình
thực hiện đồng bộ để rút ngắn khoảng cách đẳng giới và Giảm nghèo bền vững. Hà
giữa nhận thức và hành động, phải có một Nội 2/6/2008.
cơ chế cho hoạt động này, về con người và 3. Luật Bình đẳng giới. Nhà xuất bản
phương pháp và phải được xem như một Chính trị Quốc gia- Hà Nội 2007
31
nguon tai.lieu . vn