Xem mẫu

  1. JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE 2013, Vol. 58, No. 6B, pp. 178-186 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn THỰC TRẠNG KÌ THỊ VÀ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VỚI NGƯỜI ĐỒNG TÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyễn Lê Hoài Anh Khoa Công tác Xã hội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Đồng tính, dị tính, song tính là 3 loại thuộc xu hướng tính dục tự nhiên của mỗi con người. Tuy nhiên, người đồng tính lại đang chịu sự kì thị và phân biệt đối xử từ chính gia đình, nhà trường, cộng đồng và xã hội. Điều này dẫn tới việc họ bị tổn thương cả về thể chất và tinh thần. Nguyên nhân chính của thực trạng này là do cộng đồng chưa có hiểu biết đúng đắn về đồng tính. Chính vì vậy truyền thông, giáo dục, cung cấp những thông tin kiến thức chính xác, khoa học sẽ góp phần quan trọng để xóa bỏ sự kì thị và phân biệt đối xử với người đồng tính, để họ được đảm bảo quyền con người của mình, để được sống là chính mình. Từ khóa: Đồng tính, xu hướng tình dục, kì thị, phân biệt đối xử. 1. Mở đầu Trong những năm gần đây, chủ đề đồng tính ngày càng được đề cập nhiều trên báo chí, các phương tiện truyền thông cũng như trong xã hội. Cho đến nay, mặc dù đồng tính đã được loại khỏi danh sách các bệnh tâm thần nhưng cộng đồng vẫn còn nhận thức sai lệch về vấn đề này, dẫn tới thái độ kì thị và hành vi phân biệt đối xử đối với người đồng tính. Điều này xảy ra ở nhiều quốc gia, các cộng đồng, trong đó có Việt Nam. Báo chí và các phương tiện truyền thông là một trong những kênh thông tin giúp mang kiến thức về đồng tính đến với những người dân trong cộng đồng. Tuy nhiên, hiện nay, tại Việt Nam, nhiều nội dung chưa chính xác về người đồng tính từ báo chí đã làm tăng sự kì thị đối với người đồng tính. Theo kết quả phân tích 500 bài báo có liên quan đến đồng tính ở Việt Nam trong những năm 2004, 2006 và 2008 do Viện Nghiên cứu Xã hội Kinh tế và Môi trường (iSEE) và Học viện Báo chí và Tuyên truyền tiến hành, có tới 41% bài báo còn kì thị người đồng tính. Hai cuộc điều tra về giá trị thế giới (World Value Survey) và Cuộc điều tra đánh giá giới trẻ Việt Nam lần thứ nhất (Survey Assessment of Vietnamese Youth - SAVY I) cũng chỉ ra khoảng 80% người được hỏi không chấp nhận đồng tính. Ngày nhận bài: 22/5/2013. Ngày nhận đăng: 30/8/2013. Liên hệ: Nguyễn Lê Hoài Anh, e-mail: hoaianh0231984@yahoo.com.vn. 178
  2. Thực trạng kì thị và phân biệt đối xử với người đồng tính ở Việt Nam hiện nay Sự kì thị và phân biệt đối xử đối với người đồng tính đến từ chính gia đình, cộng đồng và xã hội. Sự kì thị đối với những người đồng tính là việc làm không những sai lầm mà nhiều khi đưa đến những kết cục chua xót. Sự kì thị này không những chỉ xảy ra trong xã hội, mà còn ở ngay cả trong gia đình của người đồng tính. Điều này dẫn tới việc họ bị tổn thương cả về thể chất lẫn tinh thần. Đặc biệt, người đồng tính có thể là nạn nhân của bạo hành ở bất kì đâu, dù là trong gia đình hay ngoài xã hội. Nhiều người đồng tính trẻ tuổi có thể mắc trầm cảm và tính đến chuyện tự tử vì sự khó khăn trong việc giữ bí mật vấn đề tính dục, hay do họ sợ những hậu quả khi cho gia đình và cộng đồng biết. Đứng trước vấn đề kì thị và phân biệt đối xử mà những người đồng tính đang phải đối mặt, đã đến lúc cộng đồng cần có một sự nhìn nhận đúng đắn về vấn đề này. Thời gian gần đây, có nhiều tổ chức, cá nhân đã tiến hành những hoạt động để giúp cộng đồng nhìn nhận đúng đắn hơn về vấn đề đồng tính và bảo vệ quyền lợi cho người đồng tính. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những dấu hiệu tích cực ban đầu. Để giúp cộng đồng có cái nhìn đúng đắn hơn về người đồng tính và giúp người đồng tính vượt qua những khó khăn mà họ đã, đang và sẽ phải đối mặt, điều này đòi hỏi sự vào cuộc của rất nhiều cấp, ngành, tổ chức, cá nhân quan tâm và cả của tất cả mọi người trong xã hội và đặc biệt không thể thiếu được vai trò giáo dục trong nhà trường. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Một số khái niệm sử dụng trong nghiên cứu - Tính dục. Là một khái niệm bao gồm giới tính sinh học (có cơ thể là nam hay nữ), bản dạng giới (cảm nhận mình là nam hay nữ), xu hướng tính dục (yêu người cùng giới hay khác giới), thể hiện giới (thể hiện là nam tính hay nữ tính). Tính dục khác với tình dục. Tính dục trả lời cho câu hỏi: “Tôi là ai?” [5;1]. - Xu hướng tình dục (sexual orientation). Là một bốn yếu tố tạo nên tính dục, thể hiện bởi sự hấp dẫn có tính bền vững về cảm xúc, thể xác cũng như trí tuệ, và được cho là không hoàn toàn cố định của một cá nhân hướng tới những người cùng giới, khác giới hoặc cả hai giới [8;4]. Từ đó phân ra các loại xu hướng tính dục: + Thấy hấp dẫn bởi người khác giới: Dị tính; + Thấy hấp dẫn bởi người cùng giới: Đồng tính; + Thấy hấp dẫn bởi cả hai giới: Song tính [5;2]. Xu hướng tình dục trải trên một phổ, gọi là phổ xu hướng tình dục hoặc phổ dị tính-đồng tính. Vào thập niên 40 của thế kỉ XX, nhà tâm lí - tình dục học Alfred Kinsey đã đưa ra một thang để đo xu hướng tình dục với các giá trị từ 0 là hoàn toàn dị tính luyến ái đến 6 là hoàn toàn đồng tính luyến ái. Xu hướng tình dục không phải một tính trạng giống như chiều cao hay màu tóc có thể đo lường một cách khá đơn giản và khách quan. Để đo xu hướng tình dục, người ta thường dùng một chỉ số gộp gồm các giá trị trên các khía cạnh khác nhau của xu hướng tình dục. 179
  3. Nguyễn Lê Hoài Anh Khác với hành vi tình dục, xu hướng tính dục bao gồm cả những cảm nhận, tình cảm và cảm nhận cá nhân. Hành vi tình dục của một người có thể phản ánh xu hướng tính dục của họ, cũng có thể không. - Bản dạng tình dục (sexual identity). Là cảm nhận của một người tự xác định về xu hướng tình dục của mình, bao gồm xu hướng tình dục, sở thích tình dục, vai trò giới tính và quan trọng hơn là cách mà một cá nhân định nghĩa tình dục của mình. - Bản dạng giới (gender’s identity). Được dùng để miêu tả í thức nội tại của một cá nhân rằng bản thân mình là nam, nữ hoặc một bản dạng ở giữa hoặc không thuộc vào hai kiểu đó (Wilchins, 2002). Bản dạng giới không nhất thiết phải trùng với giới tính sinh học. Bản dạng giới cũng độc lập với xu hướng tính dục, vì bản dạng giới liên quan tới việc một người nghĩ mình là ai, còn xu hướng tính dục liên quan tới việc một người bị hấp dẫn bởi ai. - Vai trò giới (gender’s role). Là các biểu hiện cá tính bên ngoài vốn phản ánh bản dạng giới (Ghosh 2010). Vì rằng bản dạng giới là tự xác định, vai trò giới được thể hiện trong xã hội thông qua các yếu tố có thể quan sát được như cách ăn mặc, lời nói, cử chỉ và điệu bộ (An Activist Guide to the Yogyakarta Principles 2010). - LGBT. Là viết tắt tiếng Anh của người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới (Lesbian, Gay, Bisexual, Transgender) - Đồng tính (homosexual). + Đồng tính: chỉ việc bị hấp dẫn trên phương diện tình yêu hay tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau. + Người đồng tính: người có cảm giác thấy hấp dẫn về tình cảm, thể chất với người cùng giới. + Các dạng đồng tính: Đồng tính nam (Gay) là những người nam giới có xu hướng hấp dẫn về tình cảm và tình dục đối với những người nam giới khác; Đồng tính nữ (Lesbian) là những nguời nữ giới có xu hướng hấp dẫn về tình cảm và tình dục đối với những người nữ giới khác. - Công khai/ Lộ diện (come out). Công khai chỉ thuật ngữ dùng để chỉ việc một người đồng tính, song tính hoặc hoán tính tự nguyện tiết lộ xu hướng tình dục và bản dạng giới của mình với những người xung quanh [4;11]. 2.2. Thực trạng người đồng tính ở Việt Nam Tỉ lệ người đồng tính luyến ái gần như không thay đổi ở mọi xã hội, thời đại. Họ chiếm khoảng 3-5% dân số mỗi quốc gia, tỉ lệ này gồm cả người có quan hệ luyến ái với người cùng giới ở mức độ thi thoảng. Rất khó ước lượng đúng tỉ lệ người đồng tính trong xã hội vì ít ai dám chịu nhận mình là đồng tính [6;36]. Trên thế giới có nhiều nghiên cứu khác nhau nhưng cho các tỉ lệ khác nhau, biến động từ 1% đến 9% người ở độ tuổi sinh hoạt tình dục tự nhận họ là người đồng tính và song tính. Điều tra quốc gia về phát triển gia đình ở Hoa Kì năm 2002 cho kết quả 4,1% nam giới và 4,1% nữ giới tự nhận mình là người đồng tính và song tính. Ở Canada, theo 180
  4. Thực trạng kì thị và phân biệt đối xử với người đồng tính ở Việt Nam hiện nay kết quả điều tra tháng 6 năm 2012 thì có 5% dân số tự nhận mình là người đồng tính, song tính và chuyển giới [10;3]. Hiện chưa có thống kê chính thức, chưa có cuộc điều tra nào ước lượng về số lượng người đồng tính ở Việt Nam. Có một khảo sát của bác sĩ Trần Bồng Sơn ước tính cả nước có khoảng 70.000 người nam đồng tính. Trong khi một nghiên cứu khác do tổ chức phi chính phủ Care thực hiện tại Việt Nam nói con số này khoảng 50.000 đến 125.000 [15]. Như vậy, nếu lấy tỉ lệ trung bình, “an toàn” mà nhiều nhà khoa học thừa nhận là 3% thì số người đồng tính và song tính tạm tính ở Việt Nam trong độ tuổi từ 15 đến 59 vào khoảng 1,65 triệu người (Tính theo dân số Việt Nam năm 2012 là 88,78 triệu người, trong đó có 52,58 triệu người trong độ tuổi 15-59) [6;36]. 2.3. Kì thị xã hội và phân biệt đối xử với người đồng tính Bị định kiến, bị kì thị, bị phân biệt đối xử là vấn đề người đồng tính gặp phải ở nhiều nước trên thế giới. Khác với nhiều nước trên thế giới, quan hệ đồng giới ở Việt Nam không bị tội phạm hóa. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Viện Xã hội Kinh tế và Môi trường (iSEE) thì kì thị với người đồng tính còn phổ biến. Có nhiều dạng thức thể hiện vấn đề này. Trước hết và phổ biến nhất là mọi người có những hành vi, lời nói miệt thị, chế nhạo, khinh bỉ với người đồng tính. Họ bị gọi là pê đê, bóng, hifi, xăng pha nhớt, thế giới thứ ba. . . - những từ ngữ mà nếu chính bản thân chúng ta khi tự đặt mình vào vị trí của họ mới thấu hiểu được tâm trạng, cảm xúc, nỗi buồn. . . Không ít các bạn trẻ đã phải trải qua những tháng ngày như thế này “Tuổi thơ tôi là những ngày dài buồn bã. Mỗi ngày đến lớp là một ngày nặng nề với tôi vì phải nghe những lời trêu chọc của đám bạn. Đi đến đâu tôi cũng bị chúng chỉ trỏ, bêu riếu, ném đá, ném dép vào mặt, vào lưng rồi cười phá lên mặc cho tôi khổ sở thế nào. “Hô hô thằng này ái chúng mày ơi”, “đồ pê-đê, đồ xăng pha nhớt”. . . Những câu nói kia, tiếng cười kia cứ vây lấy tôi mỗi khi tôi xuất hiện, ám ảnh tôi trong mỗi giấc mơ [8]. Đặc biệt theo kết quả nghiên cứu của iSEE có 95% người đồng tính nam được hỏi đã từng nghe người khác nói người đồng tính là không bình thường. Vấn đề bạo lực với người đồng tính diễn ra khá phổ biến. Theo một nghiên cứu của Trung tâm sáng kiến sức khỏe và dân số (CCIHP) vào năm 2012, 46% người đồng tính và chuyển giới từng bị phân biệt đối xử và bạo lực về thể chất, tinh thần, tình dục và kinh tế ngay khi còn đi học. Điều đáng tiếc là ngay khi được báo cáo thì thầy cô cũng không làm gì (44%). Thậm chí 18% các trường hợp bạo lực và phân biệt đối xử gây ra bởi thầy cô và cán bộ trong trường [8]. Đây là vấn đề mà ngành giáo dục cần đặc biệt quan tâm, xem xét. Tiếp theo, họ bị vi phạm quyền học hành, quyền lao động, bị gây tổn thương thân thể và tính mạng. Khi bị phát hiện là người đồng tính 20% mất bạn, 15% bị gia đình chửi mắng hoặc đánh đập; Nghiêm trọng hơn, 4,5% đã từng bị tấn công vì là người đồng tính, 1,5% nói bị đuổi học, 4,1% đã từng bị đuổi ra khỏi chỗ ở và 6,5% bị mất việc vì là người đồng tính [12]. Trong gia đình, nhiều bạn trẻ cũng đã từng trải qua những ngày tháng bị bạo hành 181
  5. Nguyễn Lê Hoài Anh bởi chính cha mẹ hoặc người thân của mình. Khi phát hiện con là đồng tính, cha mẹ thường sốc thậm chí là hoảng loạn. Vì không có kiến thức về đồng tính và thậm chí kì thị hoặc lo lắng con mình không có tương lai nên cha mẹ thường có những hành vi không kiểm soát dẫn đến đánh đập, xích, nhốt, hoặc cấm đoán khác. Đặc biệt, nhiều bậc cha mẹ đưa con đi tư vấn tâm lí hoặc thậm chí đưa con vào bệnh viện tâm thần để chữa trị. Đây chỉ là một trong số vô vàn những câu chuyện của người đồng tính bị phân biệt đối xử và có lẽ đau lòng nhất trong bối cảnh của Việt Nam, đó chính là bạo lực diễn ra ngay chính tại gia đình của người đồng tính. Vậy, nguyên nhân nào dẫn đến việc người đồng tính phải chịu sự kì thị và phân biệt đối xử lớn như vậy? 2.4. Nguyên nhân của sự kì thị và phân biệt đối xử với người đồng tính Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn tới sự kì thị và phân biệt đối xử với người đồng tính nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng là hiểu biết về xu hướng tính dục đồng tính ở Việt Nam còn hạn chế, thậm chí là sai lệch. Hầu hết những hành động lời nói gây tổn thương cho các người đồng tính đều xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về đa dạng tính dục và lo lắng con cái, người thân của mình hoặc gia đình mình sẽ bị xã hội kì thị. Theo kết quả nghiên cứu của ISEE năm 2011 về hiểu biết của xã hội về đồng tính ở Hà Nội, Hà Nam, TP. Hồ Chí Minh và An Giang thì một phần lớn người dân đang có kiến thức sai về đồng tính hoặc có thái độ tiêu cực về đồng tính. Bảng 1. Quan điểm sai lầm về đồng tính Stt Quan điểm về đồng tính Đồng ý (%) 1. Đồng tính có thể chữa được 48 2. Đồng tính là trào lưu xã hội 57 3. Người đồng tính không thể sinh con 62 4. Thất vọng nếu con là đồng tính 77 5. Ngăn cản con chơi với người đồng tính 58 Hay theo kết quả nghiên cứu ban đầu về nhận thức của sinh viên trường ĐHSP Hà Nội về quyền tình dục năm 2012 thì vẫn có 17,8% sinh viên coi đồng tính là bệnh và 23,7% sinh viên nghĩ rằng người đồng tính là không bình thường [1;8]. Các con số trên thấy rằng cần phải có nhiều hoạt động truyền thông, giáo dục rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và ngay từ trong nhà trường, đặc biệt ở khối sư phạm để giảm định kiến, kì thị tiến tới bảo vệ quyền bình đẳng cho người đồng tính. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã loại đồng tính ra khỏi danh sách bệnh vào năm 1990. Đã không phải là bệnh thì không phải chữa và không thể chữa. Xu hướng tính dục là tự nhiên, không thể học đòi hoặc thay đổi nên một người là dị tính thì không thể học đòi thành đồng tính và ngược lại. Người đồng tính là những người nam giới hoặc phụ nữ như những người dị tính với khác biệt duy nhất là xu hướng tình dục - thay vì yêu người khác giới họ yêu người cùng giới. 182
  6. Thực trạng kì thị và phân biệt đối xử với người đồng tính ở Việt Nam hiện nay 2.5. Bàn luận và kiến nghị 2.5.1. Giải pháp đối phó của người đồng tính và hậu quả xã hội Đứng trước sự kì thị và phân biệt đối xử của gia đình, bạn bè, mọi người trong cộng đồng với người đồng tính, bản thân họ đã đưa ra những chiến lược đối phó riêng của mình. Nhiều người đồng tính chia cuộc sống của mình thành hai thế giới riêng biệt, với cộng đồng của mình họ sống thật, có người yêu hoặc bạn tình cùng giới. Với gia đình, đồng nghiệp và bạn bè họ hoàn toàn bí mật, sống với vỏ bọc của một người dị tính. Trong nghiên cứu Câu chuyện của bốn mươi người nữ yêu nữ của ISEE năm 2010 thì một trong những chiến lược phổ biến được sử dụng bởi người đồng tính nữ, đặc biệt khi bị nghi ngờ hoặc ép lấy chồng là yêu một người nam giới. Nhiều người đồng tính đã và muốn lập gia đình với người khác giới để thoát khỏi những sức ép và tạo vỏ bọc dị tính cho mình. Theo kết quả nghiên cứu nam đồng tính, 19% người được hỏi dự định lập gia đình với người khác giới, 40% không muốn và 41% chưa có í định rõ ràng. Lí do muốn lập gia đình là vì người đồng tính muốn có con (66%), vì sức ép gia đình (50%), vì muốn có ai đó để nương tựa (44%) và vì áp lực của xã hội (40%). Nhiều người trong số họ, sau khi lập gia đình vẫn tiếp tục duy trì mối quan hệ đồng tính ở nhiều mức độ khác nhau như người yêu, bạn tình hoặc bạn bè. Như vậy để đối phó, người đồng tính đã tạo bình phong che dấu và điều này gây ra nhiều sức ép về tâm lí, lo lắng và có thể dẫn đến những đổ vỡ gia đình khi bị phát hiện. Còn khi những người đồng tính công khai để được là chính mình thì những hành vi bạo lực để lại những hậu quả nghiêm trọng về tâm lí như trầm cảm, lo sợ thậm chí là có í định tự tử hoặc hành vi tự tử. Ở Mỹ, tỉ lệ thanh niên đồng tính tự tử cao gấp 4 lần tỉ lệ trung bình và những thanh niên không được thừa nhận bởi gia đình thì có tỉ lệ tự tử cao gấp 9 lần tỉ lệ trung bình. Còn ở Việt Nam, theo nghiên cứu trực tuyến về kì thị, phân biệt đối xử và bạo lực với người LGBT tại trường học của CCIHP năm 2012, nhiều người không í thức hoặc lường được hết hậu quả của việc mình làm. Sự trêu trọc, chế nhạo và hành hung của bạn bè cùng lớp có thể cướp đi cơ hội học tập và sống của nhiều bạn trẻ đồng tính và chuyển giới: 54% thấy căng thẳng và không tập trung học tập; 26% chán học và học sút; và nghiêm trọng hơn, 31% có í định tự tử. Bên cạnh đó, nhiều em bỏ nhà vì không khí gia đình ngột ngạt hoặc do cha mẹ không chấp nhận bị rơi vào môi trường đường phố, công viên với nhiều cạm bẫy như sử dụng chất gây nghiện, mại dâm, trộm cắp, nguy cơ nhiễm HIV và bệnh lây qua đường quan hệ tình dục. Theo kết quả nghiên cứu của iISEE, những trẻ đường phố đồng tính, song tính và chuyển giới có nguy cơ bị bóc lột cao, bởi những kẻ môi giới gạt các em tham gia hoạt động bất hợp pháp, đặc biệt là mại dâm [9]. Như vậy, người đồng tính đã và đang phải đối mặt với rất nhiều nguy cơ, rủi ro, chịu nhiều áp lực ảnh hưởng tới sức khỏe thể chất và tinh thần. Do vậy, nếu như cộng đồng không có được nhận thức đúng đắn về đồng tính thì thực trạng này sẽ ngày càng nghiêm 183
  7. Nguyễn Lê Hoài Anh trọng hơn bởi lẽ cộng đồng người đồng tính sống công khai, có quan hệ tình cảm với nhau ngày càng tăng và đó là những nhu cầu hết sức chính đáng của họ. 2.5.2. Kiến nghị Hiện nay đã có một tổ chức đứng ra bảo vệ cho quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới (LGBT) là Trung tâm Kết nối và chia sẻ thông tin (ICS) và một số các tổ chức phi chính phủ thực hiện các chương trình, dự án về quyền tình dục cho các nhóm thiểu số như Liên minh Quyền tình dục, trong đó phải kể tới vai trò hỗ trợ đắc lực nhất cho cộng đồng những LGBT là iSEE, Trung tâm Sáng kiến Sức khỏe dân số (CCIHP), Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng khoa học về giới - gia đình - phụ nữ - vị thành niên (CSAGA). . . Tuy nhiên, để công cuộc xóa bỏ sự kì thị, phân biệt đối xử với những người đồng tính thành công, cần có sự tham gia của cả cộng đồng, trong đó phải kể tới vai trò của ngành giáo dục. Do vậy, tác giả đề xuất một số kiến nghị để có thể xóa bỏ sự kì thị và phân biệt đối xử với người đồng tính như sau: * Đối với gia đình: - Thay vì có những hành vi bạo lực gây tổn thương cho chính những người thân yêu nhất của mình, cha mẹ, người thân của những người đồng tính hãy dành thời gian để lắng nghe, trò chuyện, chia sẻ với những câu chuyện, suy nghĩ, cảm xúc của con. - Chủ động tìm hiểu những kiến thức về đồng tính, xu hướng tính dục; tìm tới sự trợ giúp của các chuyên gia tham vấn để trợ giúp khi có nhiều căng thẳng, áp lực và cần sự hỗ trợ; tham gia các cuộc hội thảo, tọa đàm, tiếp xúc với cộng đồng của người đồng tính và cha mẹ của người đồng tính như cộng đồng PFLAG - Cha mẹ, Gia đình, Bạn bè của Người đồng tính (Parents, Families and Friends of Lesbians and Gays) để cùng nhau chia sẻ, bảo vệ cho con cái của chính mình trước những sự kì thị và định kiến của xã hội. * Đối với ngành giáo dục: - Đưa một số nội dung liên quan đến giới tính, giới, xu hướng tính dục, bản dạng giới, LGBT vào chương trình giảng dạy ở các cấp học khác nhau, có thể tích hợp trong một số môn học khác nhau có nội dung liên quan từ tiểu học đến đại học. - Tổ chức những buổi nói chuyện chuyên đề, seminar, cuộc thi liên quan tới các chủ đề về LGBT tại trường học, mời các chuyên gia, những người đồng tính đến chia sẻ, nói chuyện để giúp thầy cô giáo và học sinh, sinh viên hiểu rõ hơn về cuộc sống của người đồng tính. - Tổ chức các hoạt động ngoại khóa như đi xem triển lãm về chủ đề đồng tính, đến thăm và giao lưu với câu lạc bộ của người đồng tính và gia đình; xem phim, thảo luận nhóm về các vấn đề có liên quan tới đồng tính mà các phương tiện thông tin đại chúng đề cập tới rất nhiều trong thời gian hiện nay. - Đưa nội dung công tác xã hội với người đồng tính, song tính, chuyển giới vào chương trình giảng dạy của các trường đại học, cao đẳng đào tạo công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay. 184
  8. Thực trạng kì thị và phân biệt đối xử với người đồng tính ở Việt Nam hiện nay * Đối với cộng đồng, xã hội: - Truyền thông, nâng cao nhận thức, cung cấp những thông tin khoa học, đúng đắn cho cộng đồng về đồng tính, xu hướng tình dục. - Báo chí, phim ảnh cần có sự kiểm soát, tham vấn của những chuyên gia trong lĩnh vực LGBT để đưa những thông tin, kiến thức, thông điệp về người đồng tính đúng đắn, phù hợp trên các phương tiện thông tin đại chúng, để có thể từ đó thay đổi thái độ với người đồng tính. - Phát huy vai trò của các nhân viên công tác xã hội, chuyên gia tham vấn để hỗ trợ cho người đồng tính và gia đình vượt qua những khó khăn, khủng hoảng và bảo vệ sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm và quyền của người đồng tính. * Đối với bản thân người đồng tính: - Không tự kì thị bản thân, không đổ lỗi cho mình bởi xu hướng tính dục là tự nhiên và không thể thay đổi được, tránh những hành động gây hại cho chính mình. - Tìm hiểu các kiến thức về đồng tính, tham gia các câu lạc bộ, nhóm của người đồng tính và tham vấn các chuyên gia tâm lí, công tác xã hội, tìm tới các trung tâm trợ giúp như ICS để nhận được sự giúp đỡ khi cần. - Có sự chuẩn bị cho bản thân và gia đình trước khi quyết định công khai. 3. Kết luận Xu hướng tính dục là tự nhiên đã phân chia loài người chúng ta thành những nhóm khác nhau: người đồng tính, người dị tính và người song tính, chỉ khác là người đồng tính là nhóm thiểu số trong xã hội. Họ là những thành viên trong cộng đồng của chúng ta ở mọi quốc gia, mọi thời đại. Họ có thể là người thân, là bạn bè của chúng ta. Hiện nay họ đang bị kì thị, bị phân biệt đối xử bởi lẽ cộng đồng còn có những hiểu biết sai lệch về đồng tính. Do đó cần từ bỏ những thái độ khinh miệt, kì thị, chấm dứt những hành vi bạo lực, chế nhạo làm tổn thương họ. Tất nhiên quá trình này không phải ngay lập tức có thể thực hiện được. Nhưng nếu có sự chung tay góp sức của cả cộng đồng, đặc biệt bắt đầu từ ngành giáo dục mà nhanh nhất và sớm nhất từ các khối các trường sư phạm sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc xóa bỏ kì thị và phân biệt đối xử với người đồng tính để họ được sống là chính mình, bảo đảm những quyền con người cơ bản của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Lê Hoài Anh, Ngô Thu Trà My, 2012. Thực trạng nhận thức của sinh viên trường ĐHSP Hà Nội về quyền tình dục. Kỉ yếu Hội nghị Quốc gia về Giới, tình dục và sức khỏe, Hà Nội. [2] Bộ Y tế, Tổng cục Thống kê, WHO, UNICEF, 2003. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (Survey Assessment of Vietnamese Youth - SAVY I). [3] Gerald P. Mallon, DSW, 2008. Social Work Practice with Lesbian, Gay, Bisexual, and Transgender People. 185
  9. Nguyễn Lê Hoài Anh [4] Bùi Thị Thanh Hòa, Nguyễn Vân Anh, Lê Hồng Giang, Trần Hương Thanh, CSAGA, 2011. Cẩm nang dành cho cán bộ tư vấn về đồng tính nữ [5] PFLAG Việt Nam, 2012. Những đứa con của chúng ta, Hỏi - đáp dành cho phụ huynh của người đồng tính, song tính. [6] Phạm Quỳnh Phương, 2013. Cộng đồng người đồng tính, song tính và chuyển giới ở Việt Nam. Hà Nội. [7] Trung tâm Sáng kiến sức khỏe và dân số (CCIHP), 2011. Nghiên cứu về bạo lực và phân biệt đối xử trong trường học. [8] Trung tâm Sáng kiến sức khỏe và dân số (CCIHP), 2012. Nghiên cứu trực tuyến về kì thị, phân biệt đối xử và bạo lực với người LGBT tại trường học. [9] Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE), 2012. Đánh giá thực trạng trẻ em đồng tính, song tính và chuyển giới thành phố Hồ Chí Minh. [10] Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE), 2012. Hôn nhân cùng giới - Xu hướng thế giới, tác động xã hội và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. [11] Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (ISEE), 2012. Đánh giá thực trạng trẻ em LGBT lang thang đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh. [12] Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường, 2012. Nghiên cứu thái độ xã hội với người đồng tính. Hà Nội [13] Viện nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường, 2010. Thông điệp về đồng tính trên báo in và báo mạng. Học viện Báo chí và Tuyên truyền. [14] Đồng tính và những thắc mắc, theo http://taoxanh.vn [15] Thi Trần, Khát vọng hôn nhân của người đồng tính, http://www.baomoi.com/Khat-vong-hon-nhan-cua-nguoi-dong-tinh/139/8722575.epi ABSTRACT The situation of stigma and discrimination with homosexual people in Viet Nam Homosexuality, heterosexuality, bisexuality are three types of natural sexual orientation of every human. However, homosexual people were stigmatized and discriminated from families, schools, community and society. This led them being hurt both physically and mentally. The main cause of this epdidemic is lacking of correct knowledge about LGBT of the community’s people. Therefore, educating the scientific informations about homosexuality will contribute to reduce the stigma and discrimination with them, guarantee their human rights. 186
nguon tai.lieu . vn