Xem mẫu

  1. THỰC TRẠNG HÀNH VI TỰ GÂY TỔN THƯƠNG CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THÀNH PHỐ HUẾ NGUYỄN THỊ HẢI YẾN Khoa Tâm lý – Giáo dục Tóm tắt: Hành vi tự gây tổn thương đang là vấn đề diễn ra khá phổ biến ở giới trẻ hiện nay. Ở nước ngoài, vấn đề này đã được các nhà khoa học quan tâm và tiến hành nghiên cứu. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, đặc biệt là ở đối tượng học sinh trung học phổ thông (THPT). Với mong muốn cung cấp thêm cơ sở thực tiễn cho việc tham vấn tâm lý học đường trong nước cũng như đề xuất một số biện pháp giúp các em học sinh THPT ngăn chặn và hạn chế hành vi tự gây tổn thương bản thân, chúng tôi thực hiện nghiên cứu về thực trạng hành vi tự gây tổn thương của học sinh THPT Thành phố Huế. Từ khóa: Hành vi tự gây tổn thương, học sinh THPT 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tự gây tổn thương được định nghĩa là cá nhân ở tình huống không có ý đ tự sát, cố ý, lặp lại tự gây tổn thương hoặc thay đổi của các bộ ph n cơ th , v d như c t/rạch d ng b t lửa nung bỏng da hoặc đ p đầu vào tường… đây là hành vi không được xã hội chấp nh n, đ ng thời hành vi này thường không dẫn đến tử vong hoặc tỷ lệ tử vong tương đối thấp (Gratz, 2001). Định nghĩa này được nhiều học giả chấp nh n và thông qua. Định nghĩa này cần đ ng thời thoả mãn tiêu ch : (1) Hành vi không được xã hội hoặc văn hóa chấp nh n, ngoại tr hành vi cạo gió, hình xăm, xỏ l tai và hành vi tự gây tổn thương của một số tôn giáo (2) Trực tiếp gây tổn thương cơ th , tiêu ch này không bao g m hành vi tự gây tổn thương gián tiếp v d như hút thuốc lá, uống rượu, rối loạn ăn uống... ( ) Hành vi là do đương sự cố ý thực hiện, tiêu ch này là cá nhân lúc thực hiện hành vi luôn có ý thức r ràng, ngoại tr cá nhân thực hiện hành vi tự gây tổn thương trong trạng thái không có ý thức, v d như: tự gây tổn thương lúc bị động kinh, bệnh nhân không có cảm giác đau mà vô tình tạo thành tự gây tổn thương ( ) Không có ý đ tự sát r ràng, ngoại tr tự sát hoặc tự sát không thành ( ) ức độ tổn hại đối với cơ th là mức độ nh hoặc nặng, ngoại tr quá nặng dẫn đến nguy hi m t nh mạng (dẫn theo Yu, 2013). Những hành vi phổ biến của dạng tự gây tổn thương là tự đánh vào đầu mình, d ng dao hoặc v t s c cứa vào cơ th , d ng kim đâm hoặc xăm lên người hoặc tư cấu véo đ lại dấu vết trên da…, th phổ biến nhất của hành vi tự gây tổn thương tự c t vào tay mình. Không phải tất cả hành vi tự gây tổn thương đều là đối tượng quan tâm nghiên cứu của tâm bênh học, sự quan tâm nghiên cứu tâm bệnh học t p trung vào tự gây tổn thương là một hiện tượng tâm bệnh. Trong nghiên cứu của WHO về tự gây tổn thương, tại 16 quốc gia châu Âu, tỷ lệ này là 2,6- 2 trên 100.000 dân số m i năm, ph nữ chiếm tỷ lệ cao nhất. ột cuộc khảo sát Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Sinh viên năm học 2016-2017 Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, tháng 12/2016: tr. 195-202
  2. 196 NGUYỄN THỊ HẢI YẾN tại Úc năm 1997, trên 106 1 người lớn thì có đến , % là ph nữ và nam giới là 2, %. ột nghiên cứu tương tự ở New Zealand khảo sát năm 1986 cho thấy tỷ lệ này là , % ở ph nữ và 0,7% ở nam giới. Nghiên cứu của Briere và Gil (1998) chỉ ra rằng nhưng ở nhóm thanh thiếu niên bình thường thì lệ tự gây tổn thương là 1 % đến 6% ( oss và Heath, 2002) Trong nhóm thanh thiếu niên có trở ngại tâm lý, tỷ lệ tự gây tổn thương là 82,4% (Nock và Prinstein, 200 ), sinh viên đại học là 1 % đến 8% ( oss và Heath, 2002). ở Châu Á, như Nh t Bản và Úc tỷ lệ tự gây tổn thương là 10 đến 12%, ở Trung Quốc, nhóm thanh thiếu niên có tỷ lệ tự gây tổn thương là trên dưới 0%. Nguyễn Thị Ngọc Bé và cộng sự (201 ) trong nghiên cứu của mình về “Thích nghi hóa thang đo hành vi tự gây tổn thương của thanh thiếu niên (ASIS) phiên bản Trung Quốc trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đã làm r khái niệm hành vi tự gây tổn thương, phân biệt hành vi tự gây tổn thương với tự sát, rối loạn nhân cách ranh giới. Tác giả đã sử d ng khái niệm hành vi tự gây tổn thương và các kết quả nghiên cứu đã có đ sửa đổi tr c nghiệm cho ph hợp với văn hóa, văn phong của người Việt Nam. Đánh giá hành vi tự gây tổn thương t hai phương diện là số lần phát sinh hành vi và mức độ tổn hại, thông qua giá trị phân biệt, giá trị hội t , giá trị tiêu chu n làm chỉ số đ ki m định t nh hiệu lực của thang đo SIS. Kết quả khảo sát trên 2 học sinh trung học thành phố Huế cho thấy thang đo sau khi th ch ứng có t nh hiệu lực và độ tin c y cao, có th có th sử d ng được và đem lại kết quả ch nh xác, khoa học và khách quan cho các nghiên cứu về hành vi tự gây tổn thương của thanh thiếu niên Việt Nam. Trong các nghiên cứu về hành vi tự gây tổn thương trong năm 2016, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Bé và cộng sự đã làm rõ thực trạng hành vi tự gây tổn thương ở thanh thiếu niên (bao g m vị thành niên phạm tội, thanh thiếu niên có vấn đề, học sinh trung học cơ sở), kết quả nghiên cứu cũng cho thấy hành vi tự gây tổn thương ở thanh thiếu niên Việt Nam là khá phổ biến. ặt khác, chương trình m c tiêu Quốc gia của Việt Nam về sức khỏe tâm thần được b t đầu t năm 1999. Chương trình m c tiêu quốc gia phòng, chống một số bệnh xã hội giai đoạn 2006-2010 trong đó có “Dự án bảo vệ sức khỏe tâm thần cộng đồng đã được phê duyệt. Năm 2006 Bộ Y tế đã ban hành “Kế hoạch tổng thể quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe của vị thành niên và thanh niên Việt Nam, giai đoạn 2006-2010 và tầm nhìn 2020 . Trong đó “Sang chấn về tinh thần và các vấn đề khác liên quan đến sức khỏe tâm thần được coi là một trong các nguy cơ ch nh đối với sức khỏe của vị thành niên và thanh niên Việt Nam. Đ ng thời sức khỏe tâm thần được xếp là một trong vấn đề ưu tiên cần giải quyết của Kế hoạch trong giai đoạn 2006-2010. Tuy nhiên, các can thiệp nâng cao sức khỏe tâm thần, đặc biệt cho học sinh nói riêng và thanh thiếu niên nói chung còn rất hạn chế. Nhìn chung, những nghiên cứu về hành vi tự gây tổn thương ở Việt Nam còn rất t, đây cũng là một thu t ngữ còn mới mẻ đối với nhiều độc giả. Có một số t nghiên cứu chỉ t p trung chủ yếu trao đổi và thảo lu n trên diễn đàn hay những câu chuyện chia sẽ trên mạng internet mà thiếu t nh thực tiễn và điều tra chuyên sâu. Trong khi đó, các báo cáo của các bệnh viện và trung tâm tham vấn trị liệu chỉ ra rằng hành vi tự gây tổn thương ở
  3. THỰC T ẠNG HÀNH VI TỰ GÂY TỔN THƯƠNG CỦ HỌC SINH... 197 thanh thiếu niên đang có xu hướng gia tăng. Thực trạng này cho thấy, đây là vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu. Với t nh cấp thiết trên, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu thực trạng hành vi tự gây tổn thương của học sinh THPT Thành phố Huế, t đó đề xuất một số biện pháp nhằm ngăn chặn và hạn chế hành vi tự gây tổn thương của học sinh. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đ đánh giá thực trạng hành vi tự gây tổn thương ở học sinh THPT Thành phố Huế, chúng tôi đã sử d ng thang đo hành vi tự gây tổn thương của thanh thiếu niên (Adolescents’ Self-injury Scale, ASIS), thang đo được th ch nghi hóa ở Việt Nam do Nguyễn Thị Ngọc Bé (201 ) c ng cộng sự thực hiện. Thang đo bao g m 18 phương thức hành vi TGTT, kết quả khảo sát cho thấy những chỉ số khả quan về t nh hiệu lực và độ tin c y của thang đo SIS: Cronbach alpha là 0,887 t nh hiệu lực hội t r 0, t nh hiệu lực phân biệt r -0,1 , t nh hiệu lực tiêu chu n cao, trong đó cao nhất với r 0,675. Kết quả này cho thấy thang đo có th sử d ng được và đem lại kết quả ch nh xác, khoa học và khách quan cho các nghiên cứu hành vi tự gây tổn thương của thanh thiếu niên Việt Nam. Công c này được chúng tôi khảo sát trên 221 học sinh khối 10, 11 và 12 tại trường THPT Gia Hội và trường THPT Cao Th ng, Thành phố Huế. Kết quả được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Khái quát về thực trạng tự gây tổn thương của học sinh THPT Thành phố Huế Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 76/221 học sinh THPT có hành vi tự gây tổn thương (chiếm , %), kết quả này thấp hơn so với các nghiên cứu trước đây ở trong và ngoài nước (Đ u inh Long và Nguyễn Thị Ngọc Bé, 2016, Nguyễn Thị Ngọc Bé, 2016; Yu, 2013; Feng Yu, 2008). Kết quả nghiên cứu trên 21 trẻ vị thành viên phạm tội của trường giáo dưỡng số 2 của Bộ Công an do Đ u inh Long và Nguyễn Thị Ngọc Bé (2016) thực hiện cho thấy có 46,7% học sinh tự gây tổn thương. Nguyễn Thị Ngọc Bé (2016) nghiên cứu trên 117 học sinh trường phổ thông nội trú thuộc Viện nghiên cứu phát tri n V Việt Nam và Th thao, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng có 51/117 học sinh có hành vi TGTT (chiếm ,6%). Yu (201 ) nghiên cứu về hành vi tự gây tổn thương của thanh thiếu niên thành phố Vũ Hán – Trung Quốc, kết quả nh n được là có 9,06% trẻ vị thành niên phạm tội và 0, % học sinh trung học có hành vi tự gây tổn thương bản thân. Điều này cũng có th xuất phát t nhiều nguyên nhân, trong đó có th thấy yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến các em là môi trường sống ở địa phương và môi trường giáo d c nhà trường. Thành phố Huế có môi trường sinh sống ổn định và môi trường giáo d c tốt. Lối sống phong kiến, nề nếp gia phong và truyền thống hiếu học của người Huế ảnh hưởng tích cực đến t ch cách người Huế nói chung và lứa tuổi học sinh THPT nói riêng như sự tế nhị, lễ nghĩa, k n đáo và trọng đạo lý... (B i inh Đức, 2011), đây có th là nhân tố dẫn đến học sinh THPT ít có hành vi làm tổn thương đến bản thân hơn so với các địa phương khác. Tuy nhiên, ở độ tuổi “khủng hoảng tuổi d y thì của học
  4. 198 NGUYỄN THỊ HẢI YẾN sinh THPT, xét t góc độ tâm lý, sự phát tri n nhảy vọt về tự ý thức khiến các em có tâm lý thoát ly khỏi bố m , xuất hiện nhu cầu tự l p, tự khẳng định mình nhưng vì trên mọi phương diện phát tri n chưa hài hòa, cân đối, sự phát tri n năng lực tâm lý của trẻ vị thành niên lạc h u so với khả năng tự nh n thức, t đó xuất hiện nguy cơ khó ứng phó, điều này có th dẫn đến các em có hành vi tự gây tổn thương. Bảng 1. Tần suất thực hiện hành vi tự gây tổn thương. Stt Phương thức tự gây tổn thương Số lượng Tỷ lệ (%) 1 Cố tình c t/rạch làm tổn thương da mình. 14 6,3 2 Cố tình đâm/cào cấu vết thương của mình. 15 6,8 3 Cố tình d ng các v t nóng đ ng vào cơ th làm 2 0,9 phỏng/đốt cháy da của mình. 4 Cố tình kh c chữ hoặc hình ảnh v.v lên thân th của 11 5 mình (ngoại tr hình xăm, có m c đ ch). 5 Cố tình d ng các đ v t (s c, góc cạnh) cạo/chà xát làm 9 4,1 tổn thương da mình. 6 Cố tình d ng v t s c nhọn chọc/đâm vào da gây thương 7 3,2 t ch hoặc đâm những v t s c nhọn vào móng tay. 7 Cố tình đ p đầu hoặc cọ xát vào tường, những v t cứng. 19 8,6 8 Cố tình kéo/gi t tóc của mình. 33 14,9 9 Cố tình d ng tay d n sức đấm mạnh vào tường hoặc 38 17,2 thủy tinh, đ v t cứng. 10 Cố tình d ng tay cào cấu/véo làm tổn thương mình. 9 4,1 11 Cố tình d ng tay đấm mạnh vào đầu mình hoặc các bộ 24 10,9 ph n khác của cơ th . 12 Tự bạt tai mình. 26 11,8 13 Cố tình d ng dây buộc chặt, th t chặt làm tổn thương tay 6 2,7 hoặc bộ ph n khác của mình. 14 Cố tình đ cho người khác đánh mình hoặc c n mình. 19 8,6 15 Cố tình khiến bản thân bị điện gi t trong tình trạng 3 1,4 không nguy hi m đến t nh mạng. 16 Cố tình c n bản thân bị thương. 13 5,9 17 Cố tình tự đốt hoặc đ bản thân tiếp xúc với lửa. 2 0,9 18 Cố tình ăn và uống những đ có hại hoặc những đ nguy 13 5,9 hi m. Dựa vào bảng 1 chúng ta có th nh n thấy, hành vi “Cố tình dùng tay dồn sức đấm mạnh vào tường hoặc thủy tinh, đồ vật cứng” là hành vi có tần suất sử d ng cao nhất, chiếm 17,2%, hành vi “Cố tình kéo/ giật tóc của mình”, “Tự bạt tai mình”, “Cố tình dùng tay đấm mạnh vào đầu mình hoặc các bộ phận khác của cơ thể” cũng có tần suất sử d ng cao tiếp theo, thứ tự lần lượt là 1 ,9%, 11,8% và 10,9%. “Cố tình dùng các vật nóng đụng vào cơ thể làm phỏng/đốt cháy da của mình” và “Cố tình tự đốt mình hoặc để bản thân tiếp xúc với lửa” là hai hành vi mà học sinh t sử d ng nhất, đều chiếm tỷ lệ là 0,9% và hành vi “Cố tình khiến bản thân bị điện giật trong tình trạng không nguy hiểm đến tính mạng” tương đối thấp với tần suất sử d ng là 1, %. Điều này có th giải
  5. THỰC T ẠNG HÀNH VI TỰ GÂY TỔN THƯƠNG CỦ HỌC SINH... 199 th ch như sau, các hành vi như đấm vào tường, v t cứng kéo gi t tóc của mình tự bạt tai mình hay cố tình đấm mạnh vào đầu mình hoặc các bộ ph n khác của cơ th ,… đều dễ thực hiện, có th giải quyết tức thì tình trạng cảm xúc lúc đó, mặt khác bản thân có th dự đoán, điều khi n mức độ tổn hại đến cơ th . Còn các hành vi như d ng các v t nóng, lửa hay điện đ gây tổn thương bản thân là khá nguy hi m, cá nhân không th khống chế được sự nguy hi m đến t các phương tiện này. Bên cạnh đó, lúc cá nhân muốn tự gây tổn thương phải chu n bị hoặc mất thời gian tìm kiếm các phương tiện đ gây hại nên hành vi này hạn chế sử d ng hơn so các hành vi tự gây tổn thương khác. 3.2. Thực trạng hành vi tự gây tổn thương của học sinh THPT * Hành vi tự gây tổn thương xét theo giới Bảng 2. Tỷ lệ tự gây tổn thương xét theo giới tính Giới tính Số lượng Tổng số Tỷ lệ Nam 41 105 39% Nữ 35 116 30,2% Căn cứ vào bảng 2 chúng ta có th thấy, trong 6 tháng gần đây nhất có 1/10 học sinh nam thực hiện hành vi tự gây tổn thương (chiếm 39%) và nữ giới là /116 học sinh (chiếm 30,2%). Tỷ lệ hành vi tự gây tổn thương ở nam giới cao hơn nữ giới cho thấy đối tượng nam giới là đối tượng đáng được lưu tâm đặc biệt. Cũng dễ hi u rằng ở lứa tuổi này, các học sinh nam dễ bị k ch động và khó kiềm chế cảm xúc hơn các học sinh nữ. * Hành vi tự gây tổn thương xét theo độ tuổi Bảng . Tỷ lệ tự gây tổn thương theo độ tuổi Tuổi Số lượng Tổng số Tỷ lệ 15 35 80 43,75% 16 23 73 31,5% 17 18 68 26,5% Số liệu ở bảng 3 cho thấy học sinh THPT càng lớn tuổi thì tỷ lệ tự gây tổn thương càng thấp, c th 1 tuổi là ,7 %, 16 tuổi là 1, % và 17 tuổi là 26, %. Điều này cũng có th dễ dàng giải th ch bằng tâm lý học phát tri n, khi mà ở tuổi 1 , các em v a bước chân t trường THCS lên trường THPT. ôi trường học thay đổi, tâm sinh lý lứa tuổi đó cũng có những thay đổi đáng k . Áp lực t học t p, gia đình, bạn bè và những cám d t xã hội dẫn đến các em chưa th ch nghi và làm chủ bản thân mình được tốt, t đó dễ dàng nảy sinh các hành vi tự gây tổn thương bản thân. Và ngược lại, với các em học sinh lớp 12, 17 tuổi đã gần như được xem là lứa tuổi trưởng thành, các em đã có th định hướng được tương lai, đứng trước kỳ thi THPT Quốc gia đang c n kề, các em ý thức cao hơn trong học t p, quen hơn với những áp lực t học t p, cũng có th kỹ năng quản lý cảm xúc của các em tốt hơn so với lớp dưới. Mặt khác, có th các em nh n thấy mối nguy hi m của hành vi tự gây tổn thương mang lại nên tỷ lệ tự gây tổn thương thấp hơn. Mặc dù v y, với tỷ lệ hành vi tự gây tổn thương khá cao, lứa tuổi học sinh THPT là đối tượng cần nh n được nhiều sự quan tâm t nhà các tham vấn tâm lý, giáo viên và
  6. 200 NGUYỄN THỊ HẢI YẾN ph huynh đ giúp các em thành kỹ năng quản lý cảm xúc tốt, nhằm hạn chế hành vi tự gây tổn thương. * Hành vi tự gây tổn thương xét theo học lực Bảng . Tỷ lệ tự gây tổn thương theo học lực Học lực Số lượng Tổng số Tỷ lệ Kém 1 2 50% Yếu 1 2 50% Trung bình 26 69 37,7% Khá 47 140 33,6% Giỏi 1 8 12,5% Kết quả nghiên cứu cho thấy, hành vi tự gây tổn thương của học sinh tỷ lệ nghịch với học lực, học lực càng cao thì tỷ lệ tự gây tổn thương càng thấp. Kết quả này tương đ ng với kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước (Nguyễn Thị Ngọc Bé, 2016; Yu, 2013; Li, 1997). Nguyễn Thị Ngọc Bé nghiên cứu trên 117 học sinh trường phổ thông nội trú thuộc Viện nghiên cứu phát tri n V Việt Nam và Th thao về thực trạng hành vi tự gây tổn thương, kết quả cho thấy tự đánh giá học lực của học sinh càng thấp thì tỷ lệ tự gây tổn thương càng cao. Yu (201 ) đã tiến hành phân t ch số liệu lu n văn thạc sĩ của eng (2008), kết quả cho thấy giữa thành t ch học t p và mức độ tự gây tổn thương có tương quan nghịch. Tự gây tổn thương càng cao thì thành t ch học t p càng thấp. Li (1997) nghiên cứu trên 126 học sinh trung học cơ sở về mối quan hệ giữa thành t ch học t p, quan hệ bạn bè và hành vi có vấn đề, kết quả cho thấy học sinh có thành t ch học t p không tốt và th ch bài x ch bạn bè nhiều hơn so với học sinh khác, đ ng thời hành vi có vấn đề càng nghiêm trọng, mặt khác, hành vi mang t nh công k ch, sai trái của họ và học t p có mối quan hệ m t thiết. Kết quả nghiên cứu có th được lý giải như sau, học lực các em càng cao thì nh n thức, ý thức của các em về bản thân sẽ tốt hơn, các em đã phần nào tìm được m c đ ch trong học t p cho bản thân, về tương lai, về công việc và cuộc sống của mình sau này, biến áp lực học t p thành động lực đ học t p cho tương lai. Mặt khác, các em cũng phần nào nh n thức được sự nguy hi m t hành vi tự gây tổn thương. Vì v y, có th khi gặp các vấn đề về tâm lý, các em giải quyết nó bằng nhiều biện pháp t ch cực hơn. Còn đối với các em có học lực thấp, tương lai các em đối mặt với khó khăn, cám d t xã hội càng lớn. Vấn đề khó khăn mà các em phải đối mặt càng lớn thì các em sẽ khó giải quyết hơn, sẽ luôn cảm thấy vướng m c, áp lực đè nặng, khó thoát ra khỏi vòng lu n qu n đó. T đó các em dễ tìm đến các biện pháp tiêu cực đ thỏa mãn bản thân và trốn tránh hoặc thoát khỏi những cảm xúc tiêu cực như hành vi tự gây tổn thương. 4. KẾT LUẬN - Hành vi tự gây tổn thương ở học sinh THPT Thành phố Huế là tương đối phổ biến. - Xét theo phương thức tự gây tổn thương thì “Cố tình d ng tay d n sức đấm mạnh vào tường hoặc thủy tinh v.v… đ v t cứng là hành vi có tỷ lệ cao nhất và hành vi “Cố tình
  7. THỰC T ẠNG HÀNH VI TỰ GÂY TỔN THƯƠNG CỦ HỌC SINH... 201 d ng các v t nóng đ ng vào cơ th làm phỏng/đốt cháy da của mình và “Cố tình tự đốt hoặc đ bản thân tiếp xúc với lửa là 2 hành vi có tỷ lệ thấp nhất. - Xét theo tỷ lệ giới t nh thì ở nam cao hơn nữ. - Xét theo độ tuổi thì tuổi càng cao tỷ lệ tự gây tổn thương càng giảm. - Xét theo học lực cá nhân, kết quả nghiên cứu cho thấy học lực tỷ lệ nghịch với hành vi tự gây tổn thương, học lực càng cao đ ng nghĩa với tỷ lệ tự gây tổn thương càng thấp. Với kết quả nghiên cứu thu được, chúng tôi đề xuất một số biện pháp kh c ph c và hạn chế hành vi tự gây tổn thương ở học sinh như: tổ chức t p huấn giáo d c cho các em về tác hại của hành vi tự gây tổn thương bản thân hướng dẫn, gợi ý, rèn luyện cho các em kỹ năng ứng phó áp lực căng thẳng, kỹ năng quản lý cảm xúc của bản thân; xây dựng mô hình các văn phòng tư vấn tâm lý ở các trường THPT trên địa bàn thành phố… TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] B i inh Đức (2011). Bản s c của con người xứ Huế. http://www.ykhoahuehaingoai.com/ky/k_BANSACCONNGUOIXUHUE_BUIMINH DUC.html, (10-11-2016). [2] Đ u inh Long, Nguyễn Thị Ngọc Bé (2016). Thực trạng hành vi tự gây tổn thương ở trẻ vị thành niên phạm tội, Tạp chí Tâm lý học xã hội, Số 1/2016. 1 -21. [3] Favazza, A. R. (1996). Bodies under siege: Self-mutilation and body modification in culture and psychiatry, Baltimore, Maryland: Johns Hopkins University Press. [4] Feng, Y. (2008). The Relation of Adolecents’Self-Harm Behaviors, Individual Emotion Characteristics and Family Environment Factors, A Master Thesis, school of psychology Central China Normal University. [5] Gratz, K. L. (2001). Measurement of deliberate self-harm: Preliminary data on the Deliberate Self-Harm Inventory, Journal of Psychopathology and Behavioral Assessment, 23(4), 253-263. doi: 10.1023/a:1012779403943. [6] Nguyễn Thị Ngọc Bé, Đ u inh Long, iang Guang ong, Yu Li Xia (201 ). Th ch nghi hóa thang đo hành vi tự gây tổn thương của thanh thiếu niên ( SIS) phiên bản Trung Quốc trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, Tạp chí Tâm lý học xã hội, (1),12-22. [7] Nguyễn Thị Ngọc Bé (2016). Thực trạng hành vi tự gây tổn thương của học sinh trường phổ thông nội trú thuộc viên nghiên cứu phát triển v Việt Nam và thể thao, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế Tâm lý học đường lần thứ , Phát tri n Tâm lý học đường trên thế giới và ở Việt Nam, NXB Thông tin và Truyền thông. [8] Nguyễn Thị Ngọc Bé (2016). The Reported Current Situation of Self-injurious Behaviors in Middle School Students, Journal of Jiamusi Vocational Institute, (9), 444-445. [9] Nock, M. K., & Prinstein, M. J. (2004). A Functional Approach to the Assessment of Self Mutilative Behavior, Journal of Consulting and Clinical Psychology, 72(5), 885-890. [10] Ross, S., & Heath, N. (2002). A study of the frequency of self-mutilation in a community sample of adolescents, Journal of Youth and Adolescence, 31(1), 67-77. [11] Walsh, B. W. (2006). Treating self-injury: A practical guide, New York: The Guilford Press.
  8. 202 NGUYỄN THỊ HẢI YẾN [12] Yu, L. X. (2013). “Same” in ehaviors, Different in Kinds: The Classification of Adolescent Non-Suicidal Self-Injurers, Unpublished Doctoral Thesis, school of psychology Central China Normal University. NGUYỄN THỊ HẢI YẾN SV lớp TL-GD 3, khoa Tâm lý – Giáo d c, trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế ĐT: 0909 470 706, Email: haiyensp995@gmail.com
nguon tai.lieu . vn