- Trang Chủ
- Kinh tế học
- Thực hiện vai trò của chính phủ điều hành tầm vĩ mô về chính sách và pháp luật khi thực hiện Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
Xem mẫu
- THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỀU HÀNH
TẦM VĨ MÔ VỀ CHÍNH SÁCH VÀ PHÁP LUẬT
KHI THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG
ThS. Lê Thị Thu
Bộ Tư pháp
ThS.NCS. Trần Văn Duy
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
Tóm tắt
Tháng 11 năm 2011, Việt Nam đã chính thức tham gia đàm phán Hiệp định
Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP). Cho đến nay, các nước TPP đã
tiến hành vào giai đoạn cuối của các phiên đàm phán quan trọng và chuẩn bị kết
thúc để trình các Nghị viện/Quốc hội phê chuẩn. Việc đàm phán của Việt Nam thể
hiện sự nỗ lực thúc đẩy đàm phán của Chính phủ để sớm đạt được mục tiêu hội
nhập chủ động, sâu, rộng và nền kinh tế thế giới. Hiệp định TPP được coi là cơ
hội và đồng thời cũng là thách thức đối với Việt Nam. Việt Nam sẽ là nước đạt
được nhiều lợi ích nhất từ Hiệp định TPP. Tuy nhiên việc thực thi sẽ là thách
thức lớn vì những quy định khắt khe trong một số lĩnh vực như lao động và mua
sắm công. TPP sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích, như xuất khẩu nhiều hàng
hóa chế biến hơn (tăng tới 21-35%), tiếp cận với hàng nhập khẩu dễ dàng hơn,
thu hút nhiều đầu tư trực tiếp từ nước ngoài hơn (+7-11%), nâng cao năng suất
nói chung (16-18%) và tăng cường liên kết chuỗi. Ngoài ra, đây cũng là sức ép
buộc Việt Nam phải đẩy mạnh cải cách và nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo đà
tăng trưởng trong tương lai. Do vậy, có thể khẳng định rằng, cần có một quyết
tâm chính trị đủ mạnh của Chính phủ cho quá trình hội nhập kinh tế, tự do hóa
thương mại. Vậy nên những cam kết tự do hóa thương mại mang tính khu vực
trong phạm vi sân chơi toàn cầu là nhu cầu thực tế khách quan trong quá trình
hợp tác phát triển, cần có những quyết sách quan trọng và tổng thể toàn diện khi
gia nhập TPP.
451
- 1. Dẫn nhập
Khu vực thương mại tự do là một dạng liên kết thương mại giữa nhóm quốc
gia nhằm xóa bỏ rào cản thuế quan, hạn ngạch và các ưu đãi đối với hầu hết (nếu
không phải tất cả) hàng hóa và dịch vụ. Các quốc gia chọn hình thức liên kết kinh
tế này nếu cấu trúc nền kinh tế mang tính bổ trợ nhau. Mục tiêu của khu vực
thương mại tự do là giảm bớt rào cản thương mại để tăng trưởng kinh tế như kết
quả của quá trình chuyên môn hóa, phân công lao động và phát huy lợi thế cạnh
tranh [3].
Khu vực thương mại tự do được thiết lập trên cơ sở Hiệp định thương mại
tự do giữa các quốc gia; được gọi là “FTAs”. Hiệp định thương mại tự do là điều
ước quốc tế xóa bỏ hạn chế hạn ngạch hoặc rào cản hoặc sự thiếu cân bằng thuế
quan trong mua và bán, nhập và xuất hàng hóa, trong các vấn đề phi đầu tư hay
lao động giữa hai hay nhiều quốc gia [3].
Cho đến nay, Việt Nam là thành viên của Hiệp định Thương mại Tự do đa
phương trong khuôn khổ ASEAN và ASEAN với các nước đối tác như Úc -
Newzealand, Ấn Độ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản. Việt Nam cũng đã ký
Hiệp định thương mại tự do song phương với Chi lê; Hiệp định đối tác kinh tế toàn
diện với Nhật Bản; Hiệp định thương mại tự do với Lào; Hiệp định thương mại tự
do với Hàn Quốc; Hiệp định thương mại tự do với Liên minh kinh tế Á Âu.
Hiện Việt Nam đang đàm phán FTAs với một số các đối tác như với Liên
minh châu Âu (13 phiên); Hiệp định thương mại tự do EFTA với các nước Thụy
Sĩ, Na-uy, Ai-xơ-len, Lichteinsten (Phiên 11); Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện
khu vực (RCEP) hay còn gọi là Hiệp định ASEAN+6 ASEAN với 6 nước khác,
trong đó có Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand
và Hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN và Hồng Kông [5].
Bên cạnh các FTAs đang đàm phán như trên, Hiệp định thương mại khu
vực với những đặc điểm khác biệt nổi trội, là Hiệp định mẫu cho khuôn khổ hợp
tác thương mại tự do là Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (sau đây viết
tắt là TPP).
Hiệp định TPP là Hiệp định thương mại tự do nhiều bên, với mục tiêu thiết
lập một khu vực thương mại tự do trong phạm vi các nước đối tác khu vực châu
Á Thái Bình Dương. Cho đến nay, đã có 12 nước tham gia vào đàm phán TPP
(bao gồm New Zealand, Brunei, Chile, Singapore, Australia, Peru, Hoa Kỳ,
Malaysia, Việt Nam, Canada, Mexico và Nhật Bản - không có sự tham gia của
Trung Quốc). Đàm phán TPP hiện đang là một trong những đàm phán thương
452
- mại quan trọng nhất của Việt Nam, bao gồm không chỉ các vấn đề về mở cửa thị
trường hàng hóa và dịch vụ mà còn cả những vấn đề phi thương mại [4].
Do đó, việc nghiên cứu “Thực hiện vai trò của Chính phủ điều hành tầm vĩ
mô về chính sách và pháp luật khi thực hiện Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên
Thái Bình Dương” với mục tiêu để giúp Chính phủ thực hiện, tận dụng được
những cơ hội và thách thức mà TPP mang lại. Chính phủ phải tận dụng quá trình
hội nhập vào khu vực đang nổi lên đóng vai trò chủ đạo với nhiều hình thức
phong phú, đa dạng, đặc biệt là tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Qua đây,
với tư cách là chủ thể tầm vĩ mô việc nghiên cứu này cho thấy vị trị, vai trò của
Chính phủ tham gia Hiệp định TPP sẽ giúp Việt Nam có thêm điều kiện, tranh thủ
hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, triển khai chiến
lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương nói riêng, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và thông
qua Hiệp định TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội đàm phán để Hoa Kỳ mở cửa thị
trường cho hàng hóa của Việt Nam, tạo cú hích mạnh để thúc đẩy xuất khẩu,
kiềm chế nhập siêu. Bên cạnh đó, việc tham gia Hiệp định TPP sẽ góp phần thúc
đẩy hơn nữa đầu tư của Hoa Kỳ và các nước vào Việt Nam.
Nghiên cứu về “Thực hiện vai trò của Chính phủ điều hành tầm vĩ mô về
chính sách và pháp luật khi thực hiện Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình
Dương” sẽ giúp Chính phủ có tầm nhìn toàn diện, nhận thức những thách thức
khi tham gia Hiệp định TPP là sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh đối với
các doanh nghiệp của Việt Nam, vốn còn yếu, khả năng quản lý còn nhiều bất
cập... để từ đó giúp Chính phủ có sự chuẩn bị tốt để chuyển dịch cơ cấu kinh tế
thành công, theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, chất lượng và hiệu quả của tăng
trưởng kinh tế.
2. Nội dung đàm phán Hiệp định TPP
Nội dung đàm phán TPP (30 Chương) bao gồm các hướng chính sau:
+ Tiếp cận thị trường toàn diện: hướng tới việc bãi bỏ thuế và các rào cản
thương mại hàng hóa, dịch vụ và đầu tư;
+ Hiệp định khu vực toàn diện: hướng tới việc tạo thuận lợi để phát triển
chuỗi sản xuất và cung ứng giữa các thành viên TPP;
+ Các vấn đề thương mại hướng tới các mục tiêu: Hài hòa môi trường chính
sách pháp luật; tạo thuận lợi thúc đẩy năng lực cạnh tranh và kinh doanh; hỗ trợ
doanh nghiệp vừa và nhỏ; thúc đẩy phát triển;
453
- + Những vấn đề mới trong thương mại: tạo điều kiện thúc đẩy thương mại
và đầu tư đối với các sản phẩm và dịch vụ mang tính sáng tạo (nền kinh tế kỹ
thuật số và công nghệ xanh..)
+ Hiệp định mở: Hiệp định có thể cập nhật về nội dung cam kết cũng như
mở rộng thành viên định hướng
+ Đàm phán cả gói (tất cả các vấn đề cơ bản về thương mại và có liên quan
tới thương mại); Đàm phán bao gồm các nội dung về quy tắc (legal texts) và các
nội dung về mở cửa thị trường (hàng hóa, dịch vụ, mua sắm công); Đàm phán
“tiêu chuẩn cao”, có tính đến các lĩnh vực nhạy cảm và thách thức riêng mà các
nước đang phát triển trong TPP phải đối mặt thông qua hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng
năng lực và lộ trình thực hiện cam kết thích hợp [7].
Trong 9/30 Chương đàm phán TPP thì tranh cãi trước khi kết thúc đàm
phán bao gồm: - Cạnh tranh và tạo thuận lợi kinh doanh - Hợp tác và xây dựng
năng lực - Thương mại dịch vụ qua biên giới - Hải quan - Phát triển - Hài hòa
pháp lý - Doanh nghiệp vừa và nhỏ - Viễn thông - Tạm nhập (những nội dung ít
gây tranh cãi trong phạm vi tạo thuận lợi liên quan đến thương mại ít gắn với các
cam kết mở cửa ngành cụ thể). Vấn đề khó khăn nhất đối với Việt Nam là: đầu tư;
doanh nghiệp nhà nước; mua sắm Chính phủ và sở hữu trí tuệ. Đối với riêng Việt
Nam, một số vấn đề khác cũng được cho là còn vướng mắc và chưa hẳn đã đạt
được thỏa thuận thống nhất trong TPP là lao động và mở cửa thị trường trong một
số lĩnh vực dịch vụ cụ thể như phân phối, viễn thông [15].
3. Những thách thức mà Chính phủ cần giải quyết khi thực hiện vai
trò điều hành tầm vĩ mô về chính sách và pháp luật khi thực hiện
Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương khi gia nhập TPP
trong thời gian tới
TPP cũng là thách thức đối với Chính phủ Việt Nam như về sở hữu trí tuệ,
lao động, môi trường, doanh nghiệp nhà nước, công ty nhỏ và trung bình. Quyền
lao động, bao gồm quyền thành lập nghiệp đoàn độc lập, quyền tụ họp, quyền
đình công, chỉ là một phần của vấn đề rộng lớn hơn là nhân quyền. Theo đó, ba
vấn đề khó khăn nhất là bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ: Những quy định của TPP về
lĩnh vực này cao hơn, chế tài khắc nghiệt hơn khi các thành viên vi phạm thương
mại tự do. Đồng thời, vấn đề doanh nghiệp nhà nước, cạnh tranh, mua sắm Chính
phủ tham gia TPP phải xóa bỏ hết sự phân biệt, đối xử, áp dụng luật chơi bình
đẳng giữa các thành phần kinh tế trên thị trường cũng như trong đấu thầu các
khoản mua sắm công trừ mua sắm cho an ninh quốc phòng; mọi doanh nghiệp
454
- bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực, tài nguyên, vốn, thị trường; kiểm soát đầu tư
công, công khai toàn bộ ngân sách quốc gia, mua sắm Chính phủ. Và phải cam
kết trao cho người lao động quyền lập hội để làm việc với giới chủ, để hỗ trợ
nhau lúc khó khăn.
Vấn đề mà Việt Nam phải vượt qua là việc cải tổ các doanh nghiệp nhà
nước để loại bỏ sự cạnh tranh thiếu công bằng giữa nhà nước và tư nhân. Khu vực
quốc doanh chiếm khoảng gần 40% tổng sản lượng nội địa mà lại luôn luôn làm
ăn thua lỗ, ngăn cản sự phát triển kinh tế, nhưng lại được ưu tiên về vốn đầu tư
của nhà nước, quỹ phát triển quốc tế ODA và vay nợ ngân hàng. Trên 50% nợ
xấu của các ngân hàng là xuất phát từ các doanh nghiệp nhà nước. Hơn 10 năm
nay, nhà nước bàn thảo việc cải tổ khu vực quốc doanh, nhưng không đạt được
tiến bộ cụ thể đáng kể nào [15].
Khi tham gia TPP, thuế quan giảm nhưng hàng rào phi thuế quan lại tăng,
đó là những yêu cầu khắt khe về rào cản kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ. Điển hình là
trong quá trình đàm phán, một khó khăn nghiêm trọng mà Việt Nam gặp phải là
vấn đề xuất xứ hàng hóa ngành Dệt may. Theo đó, Hoa Kỳ đòi hỏi quần áo chỉ
được coi là hàng hóa của Việt Nam nếu vải làm bằng tơ sợi cũng phải được sản
xuất tại Việt Nam hay mua của các nước trong TPP. Trên thực tế, việc chứng
minh xuất xứ hàng hóa là rất khó khăn [15]. Ngành hàng trong nước có thể gặp
khó khăn đầu tiên là ô tô nếu chúng ta mở cửa thị trường hoàn toàn cho Hoa Kỳ
và Nhật Bản. Cùng với đó, TPP sẽ ảnh hưởng mạnh đến giá thành nông sản. Các
nông hóa phẩm mà Việt Nam hiện nay sử dụng đều có bảo hộ sáng chế, vì vậy
chi phí sản xuất sẽ cao. Việc sử dụng những sản phẩm có bảo hộ sở hữu trí tuệ
trong TPP khắt khe hơn. Các mặt hàng thịt gà, lợn, bò là lợi thế của Hoa Kỳ hoặc
mặt hàng đường là thế mạnh của Australia, thì các ngành hàng tương ứng của ta
cũng có thể gặp khó khăn.
4. Những giải pháp thực hiện vai trò của Chính phủ điều hành tầm vĩ
mô về chính sách và pháp luật khi thực hiện Hiệp định Đối tác Kinh
tế xuyên Thái Bình Dương
Thứ nhất, khẩn trương thúc đẩy cải tổ cơ cấu nền kinh tế, cải thiện môi
trường kinh doanh, thu hút đầu tư của các nước đối tác có công nghệ nguồn
Chính phủ Việt Nam cần thực hiện tốt quan điểm là hội nhập sâu rộng và
bền vững. Cần coi chất lượng hội nhập khi tham gia TPP hướng tới mục tiêu cao
nhất là việc tham gia vào khu vực thương mại tự do chất lượng cao. Tạo điều kiện
thúc đẩy nhanh cải tổ cơ cấu nền kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút
455
- đầu tư của các nước đối tác có công nghệ nguồn, hoàn chỉnh nền kinh tế thị
trường, nâng cao vị thế của Việt Nam góp phần giữ vững hòa bình, ổn định để
phát triển.
Đối với sự tham gia vào khu vực thương mại tự do có thể mang lại sự tăng
trưởng chung cho nền kinh tế, do đó, Chính phủ ở tầm vĩ mô cần chú ý tận dụng
cơ hội, phát huy lợi thế cạnh tranh, tăng cường chuyên môn hóa và tận dụng lợi
ích phân công lao động khi tham gia thị trường thương mại tự do.
Khi tham gia vào sân chơi trong khuôn khổ TPP với tiêu chuẩn cao, hình
mẫu cho thương mại tự do trong tương lai, Chính phủ Việt Nam cần tiếp tục phát
huy lợi thế từ các ngành hàng thế mạnh của Việt Nam. Tận dụng hàng rào thuế
quan bị gỡ bỏ và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa cũng không đơn giản.
Chẳng hạn, để tránh sự lợi dụng thông qua tái xuất, các quốc gia thành viên sử
dụng hệ thống chứng nhận xuất xứ, trong đó yêu cầu tỷ lệ tối thiểu sử dụng nguyên
liệu đầu vào và giá trị gia tăng hàng hóa trong khu vực. Hàng hóa không đáp ứng
tiêu chuẩn này sẽ không được hưởng quy chế của khu vực thương mại tự do.
Đối với ngành hàng thế mạnh như may mặc, sản phẩm dệt may, dầu thô,
giày dép, thủy sản, gỗ và các sản phẩm từ gỗ. Chính phủ cần có hướng dẫn doanh
nghiệp Việt Nam cần lưu ý đến đáp ứng yêu cầu quy tắc xuất xứ (ví dụ, quy tắc
“yarn-forward” - “từ sợi trở đi” của TPP, theo đó nguyên liệu dệt phải có nguồn
gốc trong khu vực TPP).
Thứ hai, Chính phủ cần có những giải pháp quản lý kinh tế nâng cao
mức độ chuyên môn hóa và tăng cường khả năng tham gia vào việc gia tăng
giá trị hàng hóa trong khu vực thương mại tự do.
Trong quá trình hội nhập, Việt Nam cần có những giải pháp tạo ra nguồn
nhân lực đủ có trình độ cao trong hầu hết các ngành nghề công nghệ cao, đòi hỏi
kỹ năng chuyên nghiệp. Việc làm có thể gia tăng nhưng tình trạng dư thừa lao
động ở một số ngành nghề tạm thời vẫn có thể xảy ra. Do đó, cần có chính sách
tầm Chính phủ về cơ cấu lao động theo vùng miền, ngành nghề, giới tính, độ tuổi,
trình độ, mức thu nhập lao động cũng thay đổi. Hội nhập và dỡ bỏ rào cản thương
mại sẽ tạo ra thất nghiệp trong từng thời điểm nhất định. Môi trường cạnh tranh
sẽ trở nên khốc liệt hơn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó, khi đàm
phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do, Việt Nam cần gắn với chiến lược
phát triển kinh tế xã hội dài hạn và tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô
hình tăng trưởng.
456
- Ở những lĩnh vực công nghệ cao, nhà sản xuất thiết kế gốc; nhà thầu sản
xuất đạt lợi thế theo quy mô, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển ở mọi cấp độ
trong chuỗi cung ứng. Ở những lĩnh vực sản xuất yêu cầu công nghệ thấp hơn
như da giầy cần phải đổi mới kiểu dáng và xoay vòng sản xuất chu kỳ ngắn. Nhà
thầu nào có lợi thế tiết kiệm thời gian sản xuất sẽ có lợi thế cạnh tranh [6].
Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp phải biến một trong những thách
thức trở thành cơ hội đối với các Việt Nam ở trình độ phát triển thấp hơn so với
các nước đối tác TPP là sự lo ngại trước thâm hụt thương mại và khả năng dễ tổn
thương về tài chính. Vậy nên việc cơ cấu lại nền kinh tế và cải cách thể chế sẽ đòi
hỏi thực tế hơn.
Thứ ba, Chính phủ cần có những giải pháp mạnh mẽ cải cách thể chế
quản lý kinh tế không đi trên những đường ray cũ khi tham gia TPP
Liên quan đến cải cách thể chế, trong số những vấn đề còn gây nhiều chia rẽ
trong đàm phán TPP, có thể nhận diện ra một số những khác biệt về quan điểm
đứng từ lập trường của một quốc gia có nền kinh tế yếu trong số 12 quốc gia TPP
như sau:
Một là, cần cải cách thể chế quản lý kinh tế mạnh mẽ đối với doanh
nghiệp nhà nước, các tập đoàn kinh tế nhà nước lớn khi thực hiện các nguyên
tắc của TPP
Chính phủ cần có những quan niệm thống nhất về sự khác biệt thể hiện
trong quy định về Doanh nghiệp Nhà nước (SOEs) liên quan đến khái niệm và
việc áp dụng các nguyên tắc đối với SOEs. Về lý thuyết, quy tắc chung trong các
FTAs áp dụng đối với SOEs là không phân biệt đối xử; Nhà nước quản lý tốt
nhằm bảo đảm các SOEs tôn trọng pháp luật, chống hối lộ và không cấp vốn ưu
đãi cho SOEs [1].
Thực hiện tốt để các SOEs của Việt Nam hoạt động theo cách thức quản lý
chung Luật Doanh nghiệp chung, hay nói cách khác, theo luật chơi chung của các
chủ thể tham gia thị trường. Không có ngoại lệ, tạo sân chơi bình đẳng theo luật
chung, cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Hai là, Chính phủ cần coi trọng việc phát triển xanh bền vững trong lĩnh
vực môi trường
TPP hướng tới nâng cao các cam kết khác đã ràng buộc các nước đối tác
trong lĩnh vực môi trường. Bên cạnh đó, TPP quy định có tính bắt buộc về bảo
tồn động thực vật hoang dã và quy định tranh chấp môi trường sẽ được xử lý theo
cơ chế giải quyết tranh chấp áp dụng chung cho tất cả các lĩnh vực khác. Việt
457
- Nam đã ký kết Tuyên bố London về bảo tồn động vật hoang dã 2014, đó cũng là
bước đi ban đầu trong vấn đề này.
Ba là, Chính phủ cần mở rộng áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp đối
với các khoản đầu tư về dịch vụ tài chính và những vấn đề khác có liên quan
đến nhà đầu tư
Áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp nhà nước - nhà đầu tư (ISDS) với
phạm vi rất rộng, trong đó mở rộng áp dụng đối với các khoản đầu tư về dịch vụ
tài chính và những vấn đề khác có liên quan đến nhà đầu tư. Do đó, Chính phủ
Việt Nam cần giải quyết quy định thể chế, chính sách và pháp luật theo hướng:
Khi tham gia TPP, có một số nguyên tắc sau mà phía cơ quan nhà nước Việt Nam
cần phải tuân theo:
- Nguyên tắc công bằng: Mọi nhà đầu tư đến từ các nước thuộc TPP đều
phải được đối xử, xét xử một cách công bằng.
- Nếu cơ quan quản lý Việt Nam thực hiện hành vi vi phạm các nguyên tắc
trong TPP, nhà đầu tư có thể thông qua Chính phủ nước đó để khởi kiện Chính
phủ VN ra một tòa án quốc tế.
- Nếu một nhà đầu tư đến từ 1 nước mà vừa tham gia TPP, vừa có FTA
riêng với VN, thì nhà đầu tư đó có thể chọn lựa các ưu đãi theo TPP hoặc FTA
đó, nhưng nếu đã chọn lựa theo hiệp định nào, thì sẽ phải theo hiệp định đó tới
cùng. Nếu vi phạm thì phải có cơ chế giải quyết tranh chấp triệt để.
Bên cạnh đó, gia nhập TPP có thể thúc đẩy nhà đầu tư tham gia vào Việt
Nam cũng như quy mô của việc đầu tư, kèm theo đó là số lượng tranh chấp/mâu
thuẫn phát sinh có thể gia tăng. Do đó, Chính phủ cần có quy định cụ thể để tạo
hành lang pháp lý để giải quyết các vụ việc tranh chấp có thể sẽ được tiến hành
hoặc điều chỉnh phù hợp với thỏa thuận của các bên (chọn quy tắc hòa giải, luật
áp dụng trong hợp đồng) và có thể được giải quyết tại Việt Nam.
Cũng giống như các thỏa thuận FTA khác, TPP có quy định về việc giải
quyết tranh chấp (Chương 28), trong đó có quy định về trung gian hòa giải. Tuy
nhiên, pháp luật Việt Nam hiện chưa có quy định chặt chẽ và cụ thể về trung gian
hòa giải nên thời gian tới, để phù hợp với TPP, pháp luật Việt Nam sẽ cần ban
hành thêm hành lang pháp lý cho trung gian hòa giải, cũng như hoàn thiện hành
lang pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp thương mại.
Việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam thay vì giải quyết tại
một nước khác sẽ mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư tại Việt Nam như: tiết kiệm
chi phí đi lại, lưu trú, phí giải quyết tranh chấp,... Điều này đồng thời cũng góp
458
- phần mang lại chi phí và lợi ích cho các tổ chức hòa giải, trọng tài tại Việt Nam,
nâng cao năng lực và kinh nghiệm giải quyết tranh chấp, từ đó tạo uy tín và thu
hút các nhà đầu tư trong việc giải quyết tranh chấp...
Bốn là, Chính phủ cần giải quyết hài hòa vấn đề lao động trong chính
sách kinh tế hậu TPP
Chính phủ cần có quy định cụ thể, đánh giá tác động kỹ và sâu về một trong
những cách hiểu khác nhau giữa các nước TPP liên quan đến quyền tự do lập hội
(công đoàn), quyền can thiệp vào các trường hợp sử dụng lao động trẻ em, vào
việc giải quyết các tranh chấp lao động… Đây là những vấn đề mới mà Chính
phủ Việt Nam cần nghiên cứu để thể chế hóa nhằm đảm bảo thực hiện tốt góc độ
quyền của người lao động như quyền con người thì Việt Nam đã tham gia các
Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, Công ước quốc tế về kinh tế, xã hội
và văn hóa cũng như ghi nhận các quyền của người lao động trong Hiến pháp và
pháp luật Việt Nam. Chính phủ cần có giải pháp tăng cường áp dụng pháp luật
giải quyết tốt vấn đề lao động để tránh dẫn đến việc vô hiệu hóa khả năng xuất
khẩu đối với hàng hoá của Việt Nam với lý do - không đáp ứng quy định về lao
động theo TPP…
5. Kết luận chung
Bên cạnh các thách thức xuất phát từ nội dung đàm phán TPP, một trong
những rào cản “mềm” nằm ở chính chúng ta. Sự thiếu chiến lược dài hạn, sự khát
thông tin cũng như việc thiếu sáng tạo và tìm tòi phương thức, con đường riêng
trong quá trình phân công lao động, chuyên môn hóa và thương mại cũng như các
vấn đề khác sẽ đẩy các doanh nghiệp Việt Nam vào tình trạng rủi ro hơn trong
cạnh tranh khi tham gia vào khu vực thương mại tự do. Nếu các doanh nghiệp
được thông tin đầy đủ và sẵn sàng nâng cao năng lực cạnh tranh sẽ ngăn ngừa
nhiều bất lợi trong quá trình tham gia khu vực thương mại tự do.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng CSVN, Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng,
www. dantri.com.vn
2. http://baochinhphu.vn/The-gioi-va-Viet-Nam/Tuyen-bo-chung-Viet-
Nam Hoa-Ky/177490.vgp
459
- 3. http://mfat.govt.nz/Trade-and-Economic-Relations/2-Trade-
Relationships -and-Agreements/Trans-Pacific/index.php trang web của
Bộ Ngoại giao và ngoại thương New Zealand (truy cập ngày 10/3/2014)
4. http://thelawdictionary.org/free-trade-agreement/#ixzz2raAydaJ8
Black’s law dictionary
5. http://www.trungtamwto.vn/chuyen-de/tpp truy câp ngày 05/07-2015
6. http://www.trungtamwto.vn/fta
7. Jonathan R.Pincus/ Phân công lao động, chuyên môn hóa và thương
mại/ Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright. Nhập môn chính sách
công và phân tích thể chế, Ghi chú bài giảng số 3 (Quý Tâm dịch)
8. Khung đàm phán sơ bộ TPP mà các lãnh đạo TPP chính thức đưa ra
ngày 12/11/2011
9. Khuyến nghị của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam về phương án đàm
phán Chương Đầu tư trong TPP.
10. Tổng hợp thông tin từ vòng đàm phán thứ 19 TPP.
11. Alan W.Wolff - Hội đồng ngoại thương Hoa kỳ/ Quy định về các quy
tắc thương mại quốc tế trong các FTAs/Tài liệu hội thảo FTA - Ủy ban
Đói ngoại Quốc hội 8/2012
12. http://www.duthaoonline.quochoi.vn/ “Thách thức đối với thị trường lao
động và việc làm”
13. http://www.princeton.edu/~achaney/tmve/wiki100k/docs/Free_trade_area.
html- trang web của trường Princeton
14. Tuyên bố chung của các nhà lãnh đạo TPP bên lề APEC 2013
15. Theo nhận định của Tổng Giám đốc DABACO - Tập đoàn, Công ty Cổ
phần chuyên sản xuất thức ăn chăn nuôi gia súc trong chuyên mục tin
tức thời sự VTV1 ngày 5/2/2014
16. Trung tâm WTO - VCCI “Cập nhật tình hình Đàm phán TPP (Tính đến
tháng 5/2015)”
460
nguon tai.lieu . vn