- Trang Chủ
- Nông nghiệp
- Thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị nông sản: Nghiên cứu điểm với chuỗi giá trị bí xanh tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình
Xem mẫu
- Thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị nông sản:
nghiên cứu điểm với chuỗi giá trị bí xanh tại
huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình
Nguyễn Hữu Nhuần(1), Dương Nam Hà(1), Nguyễn Thị Thu Huyền(1),
Bùi Văn Quang(1), Hoàng Hữu Thành(2), Giang Hương (1)
(1) Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Bộ NN&PTNT
(2) Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam, Bộ NN&PTNT
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc ứng dụng lý thuyết chuỗi giá trị trong lĩnh vực nông nghiệp
thường liên quan đến tăng cường tính liên kết nhằm phát triển kinh tế bao
gồm cả sinh kế và giảm nghèo (Berg và cs., 2007; Bolwig và cs., 2008,
2010; Humphrey, 2006; Tallontire và cs., 2009; Gereffi và Fernandez-
Stark, 2016). Thích ứng với những biến đổi lớn trong nông nghiệp hàng
hóa, sự tham gia của các nông hộ nhỏ vào chuỗi giá trị được coi là một
chiến lược mới trong xóa đói giảm nghèo (Gereffi và cs., 2016; Ruben,
2017). Phát triển các chuỗi giá trị nông sản không chỉ giúp các hộ nông dân
sản xuất quy mô nhỏ tăng cơ hội tiếp cận thị trường, đầu vào và tín dụng
mà còn cải thiện năng suất và hiệu quả sản xuất (Haggblade và cs., 2012;
Thorpe và cs., 2017; Burkitbayeva và cs., 2018). Ở Việt Nam, nhiều tổ chức
chính phủ và phi chính phủ đã vận dụng tiếp cận chuỗi giá trị trong các dự
án nghiên cứu và phát triển nông nghiệp có sự tham gia của nông dân như
CASRAD, IPSARD, MALICA, GIZ, Oxfam, ADB, M4P/M4P2… (Hoàng
Xuân Trường, 2010). Chính phủ Việt Nam cũng ngày càng quan tâm hơn
đến phát triển các chuỗi giá trị nông sản đặc biệt liên quan đến chiến lược
phát triển kinh tế quốc gia trong bối cảnh hội nhập với sức ép cạnh tranh
ngày càng tăng.
Trong những năm qua, thực hiện đề án tái cơ cấu nông nghiệp theo
hướng nâng cao giá trị và phát triển bền vững, các mô hình sản xuất nông
nghiệp theo chuỗi giá trị đã hình thành và phát triển ở nhiều địa phương.
Sản xuất nông nghiệp gắn với liên kết tác nhân theo chuỗi đã và đang góp
mang lại hiệu quả kinh tế cao, giúp người dân có thu nhập ổn định cho
người sản xuất. Hiện nay trên cả nước đã có 56 địa phương đã ban hành
603
- chính sách khuyến khích liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp
và đã hình thành 4.028 hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) tham gia liên kết
với 1.867 doanh nghiệp trong sản xuất, thu hoạch chế biến và tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp (Hải Lâm và Phúc Sơn, 2021).
Huyện Kỳ Sơn, nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Hòa Bình với điều
kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Trên địa bàn tỉnh đã hình
thành nhiều vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô tập trung với diện
tích toàn huyện đạt khoảng 641 ha, tập với các nông sản chính bao gồm
dưa chuột chế biến, bí xanh và mướp đắng. Theo thống kê của UBND
huyện Kỳ Sơn, diện tích bí xanh năm 2018 ước đạt 195 ha, chiếm khoảng
30% cơ cấu diện tích rau của cả huyện và đạt khoảng 1.100 ha năm 2020
(UBND huyện Kỳ Sơn, 2020). Thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp
bền vững và có hiệu quả kinh tế cao, huyện Kỳ Sơn đã tập trung đẩy mạnh
chuyển đổi cơ cấu cây trồng có giá trị kinh tế cao như bí xanh, bí đỏ, dưa
hấu, dưa chuột... theo hướng đáp ứng nhu cầu của thị trường. Nhờ chuyển
đổi diện tích canh tác lúa kém hiệu quả sang trồng bí xanh, nhiều nông hộ
đã thoát nghèo và vươn lên làm giàu tại địa phương (Hà Hoàng, 2019). Sản
phẩm rau nói chung, bí xanh nói riêng của huyện đã tiếp cận các thị trường
lớn như thành phố Hòa Bình, Hà Nội và Quảng Ninh. Trong sản xuất và
tiêu thụ bí xanh của huyện đã hình thành các mối liên ngang và liên kết
dọc. Tuy nhiên, các hình thức liên kết còn lỏng lẻo và mới tập trung ở một
số khâu trong chuỗi. Bên cạnh đó, những khó khăn thách thức về cơ sở hạ
tầng, vật chất và cơ chế chính sách hỗ trợ cho phát triển chuỗi và biến động
về thị trường, thiên tai và dịch bệnh đã và đang có những tác động tiêu cực
đến phát triển liên kết theo chuỗi.
Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu nghiên cứu tổng quan về cơ sở
lý luận đối với liên kết trong các chuỗi giá trị nông sản, đặc biệt các chuỗi
có sự tham gia của những hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ và vận dụng
lý thuyết vào phân tích trường hợp chuỗi giá trị bí xanh của huyện Kỳ Sơn,
tỉnh Hòa Bình. Bài viết tập trung vào phân tích đặc điểm và quan hệ liên
kết giữa các tác nhân trong chuỗi, kết quả liên kết và các yếu tố có ảnh
hưởng đến liên kết trong chuỗi giá trị bí xanh. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp
luận giải thêm cơ sở lý luận và liên kết trong chuỗi giá trị nông sản và đề
xuất một số giải pháp thúc đẩy liên kết giữa các tác nhân tham gia chuỗi
604
- giá nông sản nói chung, chuỗi giá trị bí xanh tại huyện Kỳ Sơn trong thời
gian tới.
2. MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ CHUỖI GIÁ TRỊ VÀ LIÊN KẾT TRONG
PHÁT TRIỂN CHUỖI GIÁ TRỊ NÔNG SẢN
2.1. Chuỗi giá trị nông sản
a) Chuỗi giá trị
Ba cách tiếp cận chuỗi nông sản phổ biến là ngành hàng, chuỗi cung
ứng và chuỗi giá trị. Tiếp cận chuỗi giá trị ngày càng trở nên phổ biến hơn
do những ưu thế của nó so với hai cách tiếp cận trước: trong khi tiếp cận
ngành hàng tập trung vào luồng di chuyển của sản phẩm, chuỗi cung ứng
tập trung vào tối ưu vận hành và tối thiểu hóa chi phí thì chuỗi giá trị nắm
bắt giá trị gia tăng và nguồn phát triển kinh tế (Kaplinsky và Morris, 2001;
Feller và cs., 2006; Sturgeon, 2008).
Xuất phát từ lợi thế cạnh tranh về kinh doanh trong lĩnh vực công
nghiệp, Michael Porter (1988) đề xuất thuật ngữ “chuỗi giá trị” lần đầu tiên
vào năm 1985 trong cuốn “Competitive Advantage” của mình. Trong khái
niệm này, chuỗi giá trị được mô tả là chuỗi của các hoạt động chính và hoạt
động hỗ trợ nhằm tạo ra giá trị gia tăng phản ánh trong lợi nhuận biên của
doanh nghiệp (Hình 1). Năm hoạt động chính trong lý thuyết này bao gồm:
(i) Hậu cần đến (liên quan đến tiếp nhận, lưu trữ và dịch chuyển đầu vào
sản phẩm), (ii) Sản xuất (các quy trình xử lý đầu vào tạo ra sản phẩm và
dịch vụ hoàn thiện), (iii) Hậu cần ngoài ra (kết hợp với việc thu thập, lưu
trữ và phân phối sản phẩm đến người mua), (iv) Tiếp thị và bán hàng (liên
quan đến quảng bá, khuyến mại, lựa chọn kênh phân phối, mối quan hệ
giữa các tác nhân trong kênh và định giá), và (v) Dịch vụ (liên quan đến
việc cung cấp dịch vụ nhằm gia tăng và duy trì sản phẩm như hỗ trợ, chăm
sóc khách hàng sau khi cung cấp sản phẩm/dịch vụ, điều chỉnh sản phẩm).
Bốn hoạt động bổ trợ trong chuỗi giá trị của doanh nghiệp gồm: (i) Cơ sở
hạ tầng, (ii) Quản trị nguồn nhân lực, (iii) Phát triển công nghệ, và (iv) Thu
mua nguyên vật liệu. Porter (1998) cũng đề cập khái niệm “hệ thống giá
trị” (value system) để vượt khỏi phạm vi doanh nghiệp khi xem xét thêm
mối liên hệ của một doanh nghiệp với các đối tác khác. Tuy nhiên, mối
605
- quan tâm chính ở đây vẫn là tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thông
qua cắt giảm chi phí và các chiến lược khác biệt hóa.
Hình 1. Chuỗi giá trị chung của một doanh nghiệp theo Michael Porter
(Nguồn: Dịch từ Porter, 1988)
Khái niệm chuỗi giá trị được mở rộng và trở nên phổ biến hơn trong
nhiều lĩnh vực thông qua sự phát triển lý thuyết của Kaplinsky và Morris
(2001). Với góc nhìn toàn cầu hóa, chuỗi giá trị được hiểu là một khối liên
kết của các tổ chức để đưa sản phẩm từ dạng thô sơ ở công đoạn ý tưởng,
qua nhiều bước trung gian đến sản phẩm hoàn thiện và tới tay người tiêu
dùng rồi thậm chí đến giai đoạn tiêu hủy hoặc tái chế sau sử dụng (Hình 2).
Theo lý thuyết này, phân tích chuỗi giá trị cần chỉ ra được sự trao đổi giữa
những người tham gia trong chuỗi, những thông tin được chia sẻ, các thể
chế trong chuỗi và sự liên kết giữa các tác nhân bao gồm cả sự hình thành
và phát triển các mối quan hệ đó.
Hình 2. Bốn chức năng và các liên kết trong một chuỗi giá trị đơn giản
(Nguồn: Kaplinsky và Morris, 2001)
606
- b) Chuỗi giá trị nông sản
Hình thành trên lý thuyết chung như trên, chuỗi giá trị nông sản cũng
bao gồm các tác nhân và hoạt động của họ từ sản xuất, phân phối và tiêu
thụ nông sản bao gồm dòng vật chất, dòng tiền và dòng thông tin (Hình 3).
Mỗi chuỗi giá trị nông sản cũng đều phát triển trong một bối cảnh kinh tế-
xã hội và chính trị cụ thể với các thể chế của nó (Trienekens, 2011). Tuy
nhiên, chuỗi giá trị nông sản khác với chuỗi giá trị của các ngành khác vì:
(1) bản chất của sản xuất nông nghiệp thường dựa vào quá trình sinh học,
do vậy làm tăng tính biến động và rủi ro; (2) bản chất của sản phẩm có
những đặc trưng tiêu biểu như dễ dập thối với nông sản tươi, thô (chưa qua
chế biến) và khối lượng/thể tích lớn nên yêu cầu chuỗi khác nhau cho các
sản phẩm khác nhau; và (3) thái độ của xã hội và người tiêu dùng liên quan
vấn đề an toàn thực phẩm và môi trường.
Hình 3. Một chuỗi giá trị nông sản điển hình với các tác nhân chính
(Nguồn: Các tác giả tổng hợp, 2021)
2.2. Liên kết trong phát triển chuỗi giá trị
a) Phân loại theo cấu trúc chuỗi
Tăng cường liên kết trong phát triển chuỗi giá trị là một xu thế tất yếu
đã và đang diễn ra trên thế giới. Hình thức phân loại liên kết phổ biến nhất
được các tác giả nghiên cứu chuỗi giá trị đề xuất dựa trên cấu trúc chuỗi là
liên kết theo chiều dọc và chiều ngang (Feller và cs., 2006; Kaplinsky và
Morris, 2001; Ponte, 2008; Bokelmann, 2010).
* Liên kết theo chiều dọc (Vertical linkages)
607
- Trong tiếp cận chuỗi giá trị, liên kết theo chiều dọc (hay liên kết dọc)
là sự trao đổi giữa các tác nhân có các vai trò hay chức năng khác nhau của
một chuỗi (Feller và cs., 2006; Ponte, 2008; Bokelmann, 2010). Trong các
trao đổi này, mỗi tác nhân là những người mua hoặc cung cấp sản phẩm
và/hoặc dịch vụ. Những liên kết dọc chặt chẽ sẽ giảm các chi phí, tạo sự
đồng thuận trong chuỗi và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng hay
chính là thị trường.
Liên kết dọc có thể được tăng cường hoặc mở rộng bởi hoạt động mở
rộng sản xuất kinh doanh của các tác nhân hoặc thông qua việc tham gia
các sự kiện thương mại như hội chợ, triển lãm nơi tập hợp nhiều tác nhân
trong cùng một chuỗi. Phát triển các liên kết dọc qua hợp đồng kinh tế giữa
các doanh nghiệp, tổ chức hay tác nhân trong chuỗi cũng giúp đảm bảo việc
cung cấp đầu vào - đầu ra rõ nguồn gốc và kiểm soát được chất lượng sản
phẩm. Phát triển liên kết dọc cũng là một trong các chiến lược nâng cấp
chuỗi giá trị, đặc biệt là ở các nước đang phát triển với mục tiêu giảm nghèo
(Mitchell và cs., 2009).
* Liên kết theo chiều ngang (Horizontal linkages)
Khác với liên kết dọc, liên kết theo chiều ngang (hay liên kết ngang)
là sự phối hợp giữa các tác nhân có cùng vai trò hoặc chức năng trong một
chuỗi (Feller và cs., 2006; Ponte, 2008; Bokelmann, 2010). Liên kết ngang
mạnh mẽ có thể mang lại những lợi ích như giảm chi phí sản xuất, tăng giá
bán sản phẩm, tăng số lượng sản phẩm… thông qua hành động tập thể.
Trong nông nghiệp, việc các tác nhân (thường là tác nhân nhỏ) liên kết
thành các tổ hợp tác, nhóm sở thích, câu lạc bộ, hợp tác xã... sẽ làm tăng
sức mạnh của các tác nhân này trong chuỗi, đặc biệt là khả năng tiếp cận
các nguồn lực đầu vào, khả năng thương thuyết (mặc cả) và trao đổi thông
tin. Phát triển liên kết ngang cũng là một trong các chiến lược nâng cấp
chuỗi giá trị nhằm đạt được hiệu quả kinh tế theo quy mô (economy of
scale) và giảm chi phí giao dịch, chủ yếu tại các khâu sản xuất và chế biến
(Mitchell và cs., 2009).
b) Phân loại theo tính chính thống
Bên cạnh cách phân loại theo cấu trúc chuỗi như trên, nhiều hình thức
liên kết khác cũng đã được ghi nhận. Chẳng hạn, liên kết thông qua các hợp
608
- đồng sản xuất liên quan đến việc cung cấp giống, phân bón, công nghệ và
các yếu tố đầu vào khác của nhà thầu và các hợp đồng tiếp thị liên quan
đến việc thu mua và bán nhiều loại hàng hóa mà không có sự tham gia sản
xuất của nhà thầu đều được sử dụng trong sản xuất trồng trọt và chăn nuôi
(Guo và cs., 2007). Dựa trên tính chính thống của liên kết, Guo và cs.
(2007) chỉ ra rằng cả hợp đồng bằng văn bản và bằng miệng đều tồn tại.
Trong đó, hợp đồng miệng thường được sử dụng bởi người trung gian cá
nhân và hợp đồng bằng văn bản thường được sử dụng bởi các doanh nghiệp.
Một ví dụ điển hình là với các chuỗi ở Trung Quốc: trong khi có sự gia tăng
quan hệ hợp đồng liên kết với các hợp tác xã (HTX) và đơn vị sử dụng công
nghệ thì quan hệ hợp đồng với người trung gian và chính quyền làng xã
giảm (Guo và cs., 2007). Theo khảo sát của Bộ Nông nghiệp Trung Quốc
năm 2001, số lượng các công ty kinh doanh nông nghiệp tham gia vào canh
tác theo hợp đồng tăng gấp bốn lần từ năm 1996 đến năm 2000 và số lượng
nông dân theo hợp đồng tăng gấp hai lần so với cùng kỳ (Guo, 2006; Guo
và cs., 2007). Tuy nhiên, vẫn còn một lượng lớn hàng nông sản Trung Quốc
không được bán theo hợp đồng.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Huyện Kỳ Sơn được chọn làm địa điểm nghiên cứu chuỗi giá trị bí
xanh do thỏa mãn được bốn tiêu chí sau: (1) Tiềm năng lớn về đất đai phù
hợp cho việc phát triển bí xanh; (2) Cây rau bí xanh là một trong những mô
hình chủ đạo trong chương trình phát triển của huyện, đóng góp quan trọng
cho đời sống, kinh tế, xã hội của một bộ phận người dân địa phương; (3)
Trồng bí xanh ở đây tập trung thành các vùng so với các loại rau khác còn
manh mún; (4) Sản phẩm bí xanh của huyện không chỉ đáp ứng nhu cầu
địa phương mà còn phục vụ các thị trường lớn như Hà Nội và các vùng lân
cận.
Nhằm đánh giá toàn cảnh về chuỗi giá trị bí xanh của huyện Kỳ Sơn,
3 xã được chọn điểm khảo sát là Độc Lập, Dân Hạ và Yên Quang. Đây là
những xã trồng bí xanh với quy mô lớn đem lại thu nhập khá cao cho các
hộ. Đồng thời, người dân ở đây sản xuất lâu năm nên có nhiều kinh nghiệm
hoặc đang có tiềm năng phát triển trồng bí xanh.
609
- 3.2. Thu thập số liệu
Số liệu thứ cấp về lý thuyết chuỗi giá trị, liên kết chuỗi và thông tin
tổng quan về tình hình kinh tế- xã hội, sản xuất của địa phương được thu
thập từ các công bố nghiên cứu và báo cáo thống kê của huyện Kỳ Sơn và
các xã được chọn trong các năm từ 2016 - 2018.
Số liệu sơ cấp từ các tác nhân tham gia chuỗi tại huyện Kỳ Sơn được
thu thập qua điều tra sử dụng bảng hỏi và phỏng vấn sâu (Bảng 1). Tác
nhân người trồng bí xanh được lựa chọn theo phương pháp ngẫu nhiên theo
từng xã với số lượng mẫu phân bổ tùy theo hiện trạng quy mô diện tích
trồng bí xanh của 3 xã có diện tích sản xuất bí lớn nhất trong huyện. Tác
nhân thu gom (tập thể (HTX) và thu gom cá nhân) được chọn ngẫu nhiên
qua thông tin của người trồng bí xanh. Tác nhân bán buôn được chọn là các
hộ bán buôn sinh sống tại huyện Kỳ Sơn và bán buôn khu vực ngoài huyện
và tỉnh. Tác nhân bán lẻ được phỏng vấn sâu tại chợ bán lẻ Mông Hóa của
huyện Kỳ Sơn. Ngoài ra, cán bộ quản lý nông nghiệp và khuyến nông viên
của huyện cũng được phỏng vấn sâu để tìm hiểu về thực trạng trồng và
chăm sóc cây bí xanh tại huyện, cũng như giải pháp cho việc phát triển
chuỗi giá trị sản xuất và tiêu thụ bí xanh của huyện Kỳ Sơn.
Bảng 1. Tổng hợp mẫu điều tra tác nhân và đối tượng liên quan
đến chuỗi giá trị bí xanh huyện Kỳ Sơn
Địa điểm điều tra trên địa bàn huyện
Tổng số
Loại tác nhân Xã Độc Xã Yên Xã Dân Nơi
phiếu
Lập Quang Hạ khác
Người trồng bí
90 40 30 20 -
xanh
Người thu gom 10 5 3 2
Người bán buôn 7 2 - - 5
Người bán lẻ 8 - - - 8
Nhà quản lý 2 - - - 2
Cán bộ khuyến
3 1 1 1 0
nông
Tổng cộng 120 48 34 23 15
(Nguồn: Các tác giả tổng hợp, 2018)
3.3. Phương pháp phân tích
Các thông tin chung về thực trạng sản xuất kinh doanh trong chuỗi
được phân tích bằng phương pháp thống kê mô tả và so sánh. Bên cạnh đó,
610
- phương pháp chuyên gia cũng được sử dụng nhằm tham khảo ý kiến chuyên
môn của các nhà quản lý địa phương và các chuyên gia kinh tế. Các công
cụ trong phương pháp phân tích chuỗi giá trị của Kaplinsky và Morris
(2001) được sử dụng chính trong việc lập sơ đồ chuỗi cũng như mô tả và
phân tích các liên kết trong chuỗi giá trị bí xanh của huyện. Ngoài ra,
phương pháp phân tích SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức)
được vận dụng để hiểu sâu hơn đặc điểm của các tác nhân và bối cảnh tổng
thể của chuỗi giá trị bí xanh huyện Kỳ Sơn. Phân tích SWOT cũng giúp tạo
ra các căn cứ cho việc đề xuất giải pháp thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá
trị nông sản trong tình huống nghiên cứu này.
4. LIÊN KẾT TRONG CHUỖI GIÁ TRỊ BÍ XANH HUYỆN KỲ SƠN,
TỈNH HÒA BÌNH
4.1. Tổng quan chuỗi giá trị bí xanh huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong sơ đồ chuỗi giá trị bí xanh ở huyện
Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình (Hình 4), các tác nhân tham gia vào chuỗi gồm có
người cung ứng đầu vào (giống, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật), người
sản xuất, người thu gom, người bán buôn, người bán lẻ và người tiêu dùng.
Các tác nhân này thực hiện các chức năng khác nhau từ sản xuất, thu gom,
phân phối đến tiêu dùng.
Hình 4. Sơ đồ chuỗi giá trị bí xanh ở huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình
(Nguồn: Các tác giả tổng hợp, 2018)
611
- Hơn nữa, vai trò của các tác nhân này trong chuỗi là không cân bằng.
Những người thu gom cá nhân mua phần lớn bí xanh từ người sản xuất
(chiếm khoảng 90,4%). Sau đó, họ chủ yếu bán cho người bán buôn
(khoảng 85,6%). Trên địa bàn huyện Kỳ Sơn có 1 thu gom tập thể là hợp
tác xã nông nghiệp (HTXNN) Yên Quang. Tại thời điểm khảo sát, HTXNN
Yên Quang thu mua được khoảng 6,3% lượng bí xanh của người sản xuất
và HTX cũng chủ yếu bán cho người bán buôn (78,3%). Ở giai đoạn sau
của khâu phân phối, gần như toàn bộ bí xanh của người bán buôn được bán
cho người bán lẻ (khoảng 98,9%) trước khi đến tay người tiêu dùng. Chỉ
một lượng rất nhỏ (1,1%) được bán trực tiếp cho người tiêu dùng. Ngoài
ra, người tiêu dùng cũng có thể mua bí xanh trực tiếp từ người sản xuất
nhưng tỷ lệ cũng rất thấp (3,3%). Như vậy, các tác nhân trung gian chính
là các thu gom cá nhân, người bán buôn và bán lẻ đóng vai trò quan trọng
nhất trong trao đổi vật chất (Hình 4) và tiền của chuỗi (Bảng 2). Nói cách
khác, những tác nhân trung gian này có sức mạnh lớn hơn các tác nhân còn
lại trong chuỗi như người sản xuất, hợp tác xã và người tiêu dùng.
Bảng 2. Dòng tiền và phân phối thu nhập của các tác nhân
theo các kênh chính trong chuỗi (ĐVT: Triệu đồng/tấn)
Giá trị
Chi phí Giá trị gia tăng Thu
Giá tăng thêm
trung của từng tác nhập
Chỉ tiêu bán trong
gian nhân thuần
(1) chuỗi
(3) (4 =1 - 3) (5)
(2)
Kênh 1: Hộ sản xuất -> Người thu gom -> Người bán buôn -> Người bán lẻ -> Người
tiêu dùng
Người sản xuất 4.85 - 1.16 3.69 2.76
Người thu gom 5.50 0.65 4.99 0.51 0.29
Người bán buôn 10.50 5.00 7.17 3.33 1.98
Người bán lẻ 13.50 3.00 10.92 2.58 2.33
Tính chung - 8.65 24.24 10.11 7.36
Kênh 2: Hộ sản xuất -> Người thu gom -> Người bán lẻ -> Người tiêu dùng
Người sản xuất 4.85 - 1.16 3.69 2.76
Người thu gom 10.50 5.65 6.10 4.40 3.50
Người bán lẻ 13.50 3.00 10.92 2.58 2.33
Tính chung - 8.65 18.18 10.67 8.59
(Nguồn: Các tác giả tổng hợp, 2018)
612
- 4.2. Liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị bí xanh
Qua phỏng vấn các tác nhân trong chuỗi giá trị bí xanh ở huyện Kỳ
Sơn, tỉnh Hòa Bình, một số liên kết dọc và liên kết ngang đã được quan sát.
Mức độ chặt chẽ của các hình thức liên kết được ghi nhận khác nhau thể
hiện các trình độ phát triển chưa đồng đều giữa các khâu trong chuỗi. Dòng
thông tin trong chuỗi cũng được quan sát thông qua các liên kết trong chuỗi.
Liên kết dọc trong chuỗi giá trị bí xanh huyện Kỳ Sơn được thể hiện
ở một số hình thức như sau:
- Liên kết giữa hộ trồng bí xanh và HTXNN Yên Quang: Các hộ trồng
bí xanh có thỏa thuận về giá cả và HTX cam kết bao tiêu sản phẩm cho các
hộ xã viên. Đồng thời, HTX cũng cung ứng các dịch vụ đầu vào cho xã
viên (Hình 5). Tuy nhiên, số lượng xã viên còn nhỏ và khối lượng bí xanh
được tiêu thụ qua kênh này còn tương đối ít (khoảng hơn 6% lượng bí xanh
được sản xuất). Hầu hết các hộ trồng bí xanh này không có mối liên kết nào
với những người thu gom và buôn bán.
- Liên kết giữa tác nhân thu gom và những người bán buôn ngoài
tỉnh: Một số người thu gom ở huyện có “mối quan hệ làm ăn lâu dài” với
một số người bán buôn ngoài tỉnh. Người thu gom ở huyện đóng vai trò là
người trung gian thỏa thuận giữa người trồng bí xanh với người người bán
buôn lớn ngoài tỉnh. Mặc dù những thỏa thuận này không có hợp đồng
chính thống, thỏa thuận bằng miệng nhưng giữa họ có sự liên kết chặt thông
qua phần trăm tiền đặt cọc. Do đó, liên kết giữa họ tương đối chặt chẽ.
- Liên kết giữa người bán buôn và bán lẻ tại chợ đầu mối: Theo kết
quả nghiên cứu, những người bán buôn đều là những người đã hoạt động
nhiều năm nên có mối quan hệ với người người bán lẻ. Trước khi chuẩn bị
hàng, người bán buôn thường có liên hệ với những người bán lẻ qua điện
thoại, trao đổi thông tin về giá cả, số lượng hàng. Dù không có hợp đồng
chính thống, sự liên kết giữa những người bán buôn và bán lẻ cũng không
lỏng lẻo mà gắn kết dựa trên sự giao kết lâu năm và niềm tin.
613
- Hình 5. Mối liên kết giữa các hộ trồng bí xanh,
HTX nông nghiệp Yên Quang và các tác nhân bán buôn
Ghi chú: BVTV - Bảo vệ thực vật; HTXNN - Hợp tác xã nông nghiệp
(Nguồn: Các tác giả tổng hợp, 2018)
Liên kết ngang gồm có liên kết giữa những hộ trồng bí xanh và liên
kết giữa các tác nhân trung gian theo chức năng.
- Liên kết giữa các hộ trồng bí xanh: Trên địa bàn huyện có 1 hợp tác
xã dịch vụ nông nghiệp đó là HTXNN Yên Quang, ở xã Yên Quang với
khoảng 30 hộ thành viên trồng bí xanh. Đây là một hình thức liên kết củng
cố cho hành động tập thể. Tuy nhiên, liên kết giữa những hộ trồng bí xanh
khác trong huyện còn lỏng lẻo, chưa có hợp đồng chính thống. Giữa các hộ
mới hình thành sự liên kết tự phát như trao đổi lao động trong các khâu làm
đất, phun thuốc bảo vệ thực vật, trong thu hoạch và trao đổi kiến thức, kỹ
thuật trồng và chăm sóc bí xanh.
- Liên kết giữa những người thu gom: rất lỏng lẻo do sự cạnh tranh
về việc thu gom sản phẩm trên địa bàn và các mối cung cấp cho những
người bán buôn.
- Liên kết giữa các tác nhân bán buôn: Thường mỗi người bán buôn
có địa bàn kinh doanh riêng, do đó, ít có sự cạnh tranh và họ trao đổi với
nhau về thông tin giá mua vào và bán ra và thống nhất giá cả với nhau. Đây
cũng là một hình thức liên kết phi chính thống giữa những người bán buôn.
614
- - Liên kết giữa các hộ bán lẻ: Giữa những người bán lẻ cũng chưa có
liên kết chính thống, chủ yếu liên kết với nhau để trao đổi thông tin giá cả,
số lượng sản phẩm, thời gian hàng về,…
4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết trong chuỗi giá trị bí xanh huyện
Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình
Qua phân tích thực trạng và trao đổi với các chuyên gia và lãnh đạo
địa phương, năm nhóm yếu tố tác động đến sự liên kết trong chuỗi bí xanh
đã được xác định.
(1) Năng lực sản xuất của hộ: Về lý thuyết, các học giả trên thế giới
đã chỉ ra nhiều yếu tố ảnh hưởng đến liên kết trong chuỗi giá trị trong đó
có năng lực sản xuất của hộ. Nhiều học giả cho rằng nông dân có nhiều đất
hơn, có quy mô sản xuất lớn hơn có nhiều khả năng tham gia vào các hợp
đồng chính thức hơn là sản xuất độc lập (Tiongco và cs., 2009). Mức độ
thương mại hóa trong sản xuất có ảnh hưởng tích cực đáng kể đến việc
người nông dân tham gia vào hợp đồng. Ở Kỳ Sơn, có nhiều hộ trồng bí
xanh nhưng quy mô sản xuất nhỏ lẻ, áp dụng phương thức canh tác cũ dựa
trên kinh nghiệm sản xuất là chính, do đó chưa thúc đẩy phát triển liên kết
với các tác nhân khác trong chuỗi giá trị.
(2) Tổ chức sản xuất: Sự liên kết giữa các tác nhân là người trồng bí
xanh với nhau mới dừng lại ở mức hợp tác sản xuất ở một số khâu nhất
định và đa phần theo hình thức tự phát. Quá trình liên kết sản xuất theo mô
hình HTX mới phát triển manh nha ở quy mô nhỏ và chưa phát huy hiệu
quả rõ rệt. Nguyên nhân chủ yếu là khả năng tiếp cận thị trường đầu vào và
đầu ra cho sản phẩm của HTX còn hạn chế, chưa thực sự là cầu nối cho các
tác nhân là người sản xuất. Mối liên kết giữa hộ trồng bí xanh - người sản
xuất chưa có những tương tác tích cực với các tác nhân khác như thu gom
vào những thời điểm thu hoạch sản phẩm bí xanh của hộ. Thêm vào đó, các
tác nhân khác trong chuỗi giá trị có sự tương tác mờ nhạt, không tích cực
với nhau dẫn đến những hạn chế trong sự phát triển bền vững của chuỗi giá
trị sản phẩm bí xanh trên địa bàn.
(3) Cơ sở hạ tầng và khoa học công nghệ: Cơ sở vật chất - kỹ thuật
bao gồm hệ thống cơ sở hạ tầng như đường giao thông, phương tiện vận
tải, hệ thống nhà kho, bến bãi, hệ thống thông tin liên lạc. Hệ thống này
615
- đóng vai trò quan trọng trong việc lưu thông nhanh chóng kịp thời, đảm
bảo an toàn cho sản xuất cũng như tiêu thụ bí xanh. Các nhân tố về kỹ thuật
và công nghệ sản xuất đặc biệt quan trọng trong việc tăng khả năng tiếp
cận và mở rộng thị trường tiêu thụ của cơ sở sản xuất kinh doanh, sự liên
kết sẽ không bị giới hạn trong phạm vi địa phương. Hiện nay, tại huyện Kỳ
Sơn, việc áp dụng kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất, đặc biệt là vận
chuyển, lưu thông hàng hóa vẫn còn hạn chế. Chỉ có duy nhất HTXNN Yên
Quang, mới được đầu tư nhà kho lạnh bảo quản rau quả còn lại các cơ sở
hạ tầng khác chưa có như: nhà kính, nhà lưới để sản xuất cây con sạch
bệnh…
(4) Chính sách của Nhà nước: Theo Guo và cộng sự (2007), sự hỗ trợ
của chính phủ là yếu tố quan trọng thúc đẩy nông dân tham gia vào các
liên kết và sản xuất theo hợp đồng. Thực tế tỉnh Hòa Bình và huyện Kỳ Sơn
đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển sản xuất và tiêu thụ rau an
toàn nói chung và cây bí xanh nói riêng. Cụ thể như: Quyết định số
1340/QĐ-UBND ngày 5/6/2018 của UBND tỉnh Hòa Bình về phê duyệt
Đề án “Xây dựng và phát triển sản xuất nông sản hàng hóa chủ lực theo
chuỗi giá trị đảm bảo an toàn thực phẩm” giai đoạn 2018 - 2020, định
hướng đến 2025 trên địa bàn tỉnh Hòa Bình; Quyết định số 1121/QĐ-
UBND ngày 8/5/2018 của UBND tỉnh Hòa Bình về việc chuyển đổi cơ cấu
cây trồng trên đất trồng lúa trên địa bàn tỉnh đến năm 2020; Quyết định số
2515/QĐ-UBND ngày 22/10/2018 của UBND huyện Kỳ Sơn về việc phê
duyệt đề án “Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng và phát triển bền vững giai đoạn 2018 - 2021 và tầm nhìn đến năm
2030”. Những chính sách này khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp
theo hướng sản xuất hàng hóa có giá trị kinh tế cao, trong đó đối tượng bí
xanh nằm trong kế hoạch ưu tiên phát triển của huyện và tỉnh. Đó cũng là
điều kiện để phát triển liên kết trong chuỗi giá trị. Tuy vậy, một vấn đề cần
lưu tâm là sự nhận thức của các tác nhân trong chuỗi, đặc biệt là các nông
dân nhỏ, về các chính sách và thể chế hỗ trợ trong chuỗi để có thể tận dụng
được các cơ hội này.
(5) Các yếu tố bất định khác (thiên tai, dịch bệnh...): Khi khí hậu, thời
tiết thuận lợi sẽ có tác động tích cực đến quá trình trồng bí xanh. Ngược
lại, thời tiết bất lợi bí xanh dễ bị sâu bệnh, năng suất thấp, từ đó làm tăng
616
- chi phí sử dụng thuốc BVTV, công chăm sóc. Trong những năm qua, ở Kỳ
Sơn, diễn biến thời tiết có nhiều bất thường, rét thường đến muộn hơn và
kéo dài, mưa đầu mùa bất thường, nhiệt độ cao, thời tiết nắng nóng gây ảnh
hưởng đến năng suất và sản lượng bí xanh. Những ảnh hưởng từ thời tiết
tác động trực tiếp đến hộ sản xuất nói riêng và cả chuỗi giá trị nói chung.
Nếu sự bấp bênh trong sản xuất kéo dài, nó có thể làm ảnh hưởng đến sự
phát triển của chuỗi giá trị.
Nghiên cứu thực tế liên kết trong chuỗi giá trị sản phẩm bí xanh
huyện Kỳ Sơn chỉ ra những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức tác
động tới sự phát triển chuỗi giá trị sản phẩm bí xanh nói chung và sự liên
kết giữa các tác nhân trong chuỗi nói riêng (Bảng 3).
Bảng 3. Phân tích SWOT đối với liên kết trong chuỗi giá trị bí xanh huyện Kỳ Sơn
Điể m mạnh (S) Điể m yếu (W)
- Là địa bàn trồng bí xanh tập trung có nhiều - Một số người sản xuất vẫn sử
kinh nghiệm với nguồn lực về lao động dồi dào, dụng nhiều thuốc BVTV để kháng
được người dân hưởng ứng mở rộng sản xuất sâu bệnh cho bí xanh, do đó chất
và mong muốn thúc đẩy liên kết. lượng chưa đảm bảo và đồng đều.
- Điều kiện đất đai, thủy lợi thuận lợi cho - Năng lực liên kết và tiếp cận thị
trồng bí xanh hàng hóa quy mô lớn, có thể hình trường của người sản xuất còn hạn
thành đa dạng các chuỗi giá trị. chế.
- Các tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị bí - Các hình thức tổ chức kinh tế hợp
xanh trên địa bàn có thời gian hoạt động trong tác còn ở quy mô nhỏ.
nghề tương đối lâu và có những ràng buộc - Các hình thức liên kết ngang mới
kinh tế nhất định. hình thành, liên kết dọc qua hợp đồng
- Vùng sản xuất có những giá trị văn hóa bản chưa hình thành, các liên kết khác
địa có thể chuyển đổi vào giá trị nông sản. trong các chuỗi còn lỏng lẻo.
Cơ hội (O) Thách thức (T)
- Huyện Kỳ Sơn và tỉnh Hòa Bình có chiến - Vấn đề giá cả thị trường không ổn
lược quy hoạch, phát triển các vùng rau an toàn, định, chưa yên tâm cho người sản
trong đó có chính sách khuyến khích liên kết xuất.
cho phát triển các chuỗi giá trị bí xanh. - Cạnh tranh tăng khi bí xanh được
- Cách trung tâm Hà Nội - thị trường tiêu thụ trồng nhiều hơn ở các vùng khác
rộng lớn không quá xa (90km). ngoài huyện và các chủng loại rau
- Nhu cầu tiêu thụ bí xanh lớn. khác khi tiêu thụ trên thị trường.
- Sự phát triển của các sàn thương mại nông - Việc sản xuất nhiều, liên tục và
sản điện tử và hệ thống thông tin thị trường thường xuyên sẽ làm phát sinh các
minh bạch. nguồn sâu bệnh hại làm giảm năng
suất, chất lượng bí xanh.
- Năng lực ứng dụng công nghệ số
của người sản xuất và các tác nhân
trong chuỗi còn rất hạn chế.
(Nguồn: Các tác giả tổng hợp, 2018)
617
- 4.4. Giải pháp thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị nông sản
Qua nghiên cứu thực trạng liên kết trong sản xuất và tiêu thụ trong
chuỗi giá trị bí xanh của huyện Kỳ Sơn, chúng tôi nhận thấy, để thúc đẩy
liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi cần những giải pháp đồng bộ về tăng
cường nguồn lực sản xuất, năng lực liên kết của các tác nhân, cải thiện cơ
sở vật chất kỹ thuật hỗ trợ sản xuất và tiêu thụ và xây dựng, phát triển hệ
thống thương mại điện tử cho marketing và tiêu thụ sản phẩm. Các nhóm
giải pháp đề xuất bao gồm:
a) Tăng cường nguồn lực sản xuất và năng lực liên kết cho các tác
nhân
Tập huấn kỹ thuật cho hộ nông dân về sản xuất, sơ chế và tiêu thụ
rau nói chung và sản phẩm bí xanh nói riêng để nâng cao năng suất và chất
lượng nông sản đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tiếp tục hình thành và quy hoạch sản vùng xuất bí xanh trong vùng
phát triển nông nghiệp ổn định, lâu dài; gắn chặt với quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội của địa phương và với phát triển dịch vụ hình thành các vùng
sản xuất chuyên môn hóa cao, góp phần nâng cao chất lượng và giảm chi
phí sản xuất và tiêu thụ.
Xây dựng và thúc đẩy ứng dụng công cao trong phát triển các vùng
sản xuất và thâm canh rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, từng bước xây
dựng thương hiệu, nhãn hiệu cho từng sản phẩm, phát triển liên kết để tiếp
cận tới những thị trường cao cấp như siêu thị hay cửa hàng chuyên kinh
doanh thực phẩm an toàn hướng đến nâng cao hiệu quả kinh tế.
b) Tăng cường phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong sản
xuất và tiêu thụ
Khuyến khích thành lập và tăng cường vai trò của các tổ hợp tác, các
HTX sản xuất và dịch vụ nông nghiệp để làm cầu nối liên kết giữa người
sản xuất với thị trường đầu vào và đầu ra cho sản phẩm, từng bước tạo ra
thị trường ổn định và bền vững.
Tăng cường liên kết dọc và ngang với các tác nhân đầu vào, đầu ra
bằng các hợp đồng kinh tế có tính pháp lý và ràng buộc lợi ích lẫn nhau.
618
- Đa dạng hóa các kênh phân phối bí xanh cho người sản xuất, phát triển các
kênh tiêu thụ theo hướng bền vững và có tổ chức.
Bảo đảm tính minh bạch, trung thực của chất lượng sản phẩm: Người
bán lẻ là mắt xích quan trọng trong việc kết nối giữa sản phẩm với khách
hàng cuối cùng. Vì vậy, cần có thông tin đầy đủ và chính xác về chất lượng
của sản phẩm, thông tin đầy đủ về nguồn hàng, mối quan hệ giữa các mắt
xích phía trước và sự thay đổi về chất lượng của sản phẩm, để cung cấp cho
người tiêu dùng những thông tin xác thực nhất.
Phát triển tác nhân thu gom kiêm bán buôn đóng vai trò tổ chức chuỗi
giá trị bí xanh. Tác nhân này là cầu nối quan trọng giữa người sản xuất và
các tác nhân khác trong chuỗi. Hiện nay, quy mô hoạt động của tác nhân
này là rất lớn nhưng hình thức mua bán, trao đổi thương mại hiện nay chủ
yếu dựa trên hình thức hợp đồng miệng, trao đổi thông tin đặt hàng qua
điện thoại. Để kiểm soát được chất lượng sản phẩm và giá cả của sản phẩm,
tác nhân này cần đẩy mạnh việc giao dịch thông qua các hợp đồng thương
mại, có tính pháp lý và ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên tham
gia.
c) Cải thiện cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật
Huy động nguồn lực đầu tư đồng bộ hệ thống giao thông nội đồng và
đường giao thông, tạo điều kiện tốt cho sản phẩm của huyện tiếp cận thị
trường, nâng cao năng lực cạnh tranh, đem lại giá trị kinh tế lớn hơn. Thành
lập nhiều chuỗi liên kết tiêu thụ bí xanh từ người sản xuất đến tiêu dùng,
phát triển các chuỗi giá trị bí xanh theo hướng liên kết kinh tế bền vững.
d) Phát triển sàn giao dịch thương mại nông sản điện tử
Chính quyền địa phương cần huy động nhiều nguồn lực hỗ trợ phát
triển sản xuất bí xanh theo hướng bền vững bằng cách: xây dựng thương
hiệu sản phẩm gắn liền với địa phương như chỉ dẫn địa lý, hoặc hệ thống
tem nhãn giúp truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Tăng cường hỗ trợ thông tin về thị trường, đặc biệt hệ thống thông
tin dựa trên nền tảng số cho các tác nhân thông qua các sàn giao dịch nông
sản thương mại điện tử, bản tin thị trường cập nhật trên các phương tiện
619
- truyền thông đại chúng, các tiện ích ứng dụng (apps) về thông tin sản xuất
và thị trường trên các thiết bị di động.
Đa dạng hóa hình thức quảng bá sản phẩm, gắn chất lượng với yếu
tố văn hóa, sản phẩm vùng miền trong kết nối thị trường, chủ động mở rộng
các thị trường, đảm bảo hệ thống thông tin thị trường minh bạch, kịp thời
và hiệu quả kinh tế cao cho các chuỗi giá trị nông sản.
KẾT LUẬN
Tăng cường liên kết theo chuỗi giá trị là xu thế tất yếu của sản xuất
nông sản hàng hóa, đặc biệt các chuỗi giá trị có sự tham gia của các hộ
nông dân sản xuất nhỏ. Tổng quan lý thuyết về liên kết trong chuỗi giá trị
nông sản trên thế giới và Việt Nam đã cho thấy tồn tại hai hình thức phân
loại cơ bản nhất là theo cấu trúc chuỗi (gồm liên kết ngang và liên kết dọc
giữa các tác nhân tham gia chuỗi) và theo tính chính thống của liên kết (hợp
đồng bằng văn bản và thỏa thuận không văn bản). Mức độ chặt chẽ của các
mối liên kết là yếu tố quyết định đến tính sự bền vững của chuỗi. Liên kết
ngang được thực hiện chủ yếu thông qua hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ
của các nhóm tác nhân có vai trò trong chuỗi. Ở các vùng mới hình thành
phát triển sản xuất hàng hóa thì các mối liên kết ngang tập trung nhiều hơn
ở khâu sản xuất thông qua các hình thức tổ chức hợp tác trong sản xuất các
hợp tác xã, đặc biệt giữa các hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ. Các liên
kết dọc đa dạng hơn thông qua các liên kết chính thống (hợp đồng kinh tế,
thỏa thuận) giữa các doanh nghiệp, tổ chức hay tác nhân trong chuỗi cũng
giúp đảm bảo dòng chảy từ đầu vào đến đầu ra rõ ràng, minh bạch, nguồn
gốc và chất lượng sản phẩm được kiểm soát. Phát triển liên kết dọc là một
chiến lược hiệu quả về nâng cấp chuỗi giá trị, đặc biệt là ở các nước đang
phát triển với mục tiêu giảm nghèo. Liên kết chặt chẽ giữa các tác nhân
giúp giảm chi phí sản xuất, tăng sản lượng tiêu thụ và tăng giá trị nông sản
cũng như phân phối công bằng lợi ích giữa các tác nhân.
Kết quả đánh giá liên kết trong chuỗi giá trị sản xuất bí xanh của
huyện Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình đã cho kết quả tương tự với tổng kết từ cơ sở
lý luận và thực tiễn trên thế giới trong phát triển liên kết theo chuỗi giá trị
có sự tham gia của các hộ nông dân sản xuất quy mô nhỏ. Liên kết trong
chuỗi giá trị bí xanh khá lỏng lẻo, hợp tác trong sản xuất còn mạnh mún,
620
- chưa hình thành được các tác nhân có vai trò chủ chuỗi và hệ thống thông
tin thị trường chưa minh bạch, thông suốt. Nguyên nhân chính đối với các
hạn chế này đó là: năng lực sản xuất và xây dựng thương hiệu và tiếp cận
thị trường của người sản xuất còn yếu; các tổ chức kinh tế hợp tác có năng
lực tổ chức sản xuất và kinh doanh hạn chế; nguồn lực và quy hoạch sản
xuất chưa đầy đủ, đồng bộ; cơ sở hạ tầng thông tin còn yếu; và đặc biệt
mức độ ứng dụng công nghệ số trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm còn ở
mức thấp.
Do vậy, để tăng cường liên kết trong chuỗi giá trị bí xanh của huyện
Kỳ Sơn, tỉnh Hòa Bình cần có những giải pháp toàn diện về công nghệ sản
xuất, quản lý tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ cũng như các dịch vụ
hỗ trợ. Hệ thống khuyến nông cần đẩy mạnh tập huấn nâng cao năng lực
cho các tác nhân, phát triển các hình thức tổ chức hợp tác trong sản xuất,
tăng cường liên kết dọc giữa các tác nhân trong đó phát triển các chủ chuỗi
để dẫn dắt chuỗi phát triển. Chính quyền địa phương và các bộ ngành cần
nỗ lực cải thiện cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật và hệ thống thông tin thị
trường gắn với thúc đẩy thương mại điện tử đảm bảo hệ thống thông tin thị
trường minh bạch, kịp thời cũng như nâng cao hiệu quả kinh tế cao cho các
chuỗi giá trị nông sản. Tuy nhiên, để duy trì và phát triển các mối liên kết
đòi hỏi người sản xuất và các tác nhân tiêu thụ có nhận thức đầy đủ và đánh
giá được những cơ hội và thách thức do sự thay đổi về nhu cầu và thị hiếu
của người tiêu dùng với nông sản ở các thị trường khác nhau, mùa vụ khác
nhau, và có khả năng ứng phó với những tác động do biến động không
ngừng của thị trường, thiên tai và dịch bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Berg van den M., Boomsma M., Cucco I., Cuna L., Janssen N., Moustier P., Prota
L., Purcell T., Smith D., Wijk van S. (2007). Making Value Chains Work
Better for the Poor: A Toolbook for Practitioners of Value Chain
Analysis. Available at:
http://valuechains4poor.pbworks.com/w/page/12518341/FrontPage
Bokelmann W. (2010). Value chain analysis. Lectures in Agricultural Marketing,
February 2010. Humboldt University in Berlin.
Bolwig, S., Ponte, S., du Toit, A., Riisgaard, L., and Halberg, N. (2008).
Integrating poverty, gender and environmental concerns into value chain
621
- analysis: A conceptual framework and lessons for action research. DIIS
Workig Paper no. 2008/16. Copenhagen.
Bolwig, S., Ponte, S., du Toit, A., Riisgaard, L., and Halberg, N. (2010).
Integrating Poverty and Environmental concerns into value chain
analysis: A Conceptual Framework. Development Policy Review, 2010,
Vol. 28 (2). Pp.173-194.
Burkitbayeva S, Swinnen J (2018). Smallholder agriculture in transition
economies. Journal of Agrarian Change. Vol18: 882-892.
Feller A., Shunk D., and Callarman T. (2006). Value Chains Versus Supply
Chains. Available at:
http://www.ceibs.edu/knowledge/papers/images/20060317/2847.pdf
Gereffi G, Fernandez-Stark K. (2016). Global Value Chain Analysis: A Primer.
edn 2. Center on Globalization, Governance &Competitiveness, Duke
University.
Guo, H. (2006). "Contractual arragement and enforcement in transition
agriculture" Theory and evidence from China." Studies on the agricultural
and food sector in Central and Eastern Europe 33: 169-183.
Guo, H., R. W. Jolly, và cs. (2007). "Contract farming in China: Perspectives of
farm households and agribusiness firms." Comparative Economic Studies
49: 285-312.
Hà Hoàng (2019). Huyện Kỳ Sơn (Hòa Bình). Dân đổi đời nhờ trồng bạt ngàn bí
xanh. Báo Dân Việt. Truy cập từ https://danviet.vn/huyen-ky-son-hoa-
binh-dan-doi-doi-nho-trong-bat-ngan-bi-xanh-77771024085.htm ngày
15/04/2021.
Haggblade S, Theriault V, Staatz J, Dembele N, Diallo B (2012). A Conceptual
Framework for Promoting Inclusive Agricultural Chains. Michigan State
University.
Hải Lâm và Phúc Sơn (2021). Liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản. Báo
Nhân dân. Truy cập từ https://nhandan.vn/chuyen-lam-an/lien-ket-san-
xuat-gan-voi-tieu-thu-nong-san- ngày 28/08/2021.
Hoàng Xuân Trường (2010). Các bước tiếp cận phát triển chuỗi giá trị chăn nuôi
tại Việt Nam. Link:
http://ifad.org.vn/images/2010/04/Ket%20qua%20tu%20van%20PT%20
chuoi%20gia%20tri%20bo%20Hmong.pdf
Humphrey J. and Memedovic, O. (2006). Global Value Chains in the Agrifood
Sector. UNIDO. Vienna, 2006. Available at:
http://www.unido.org/fileadmin/import/60026_01_global_value_chains
_agrifood_sector.pdf
622
nguon tai.lieu . vn